Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010...

Tài liệu Một số vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010

.PDF
328
151
136

Mô tả:

Một số vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6 MỞ ĐẦU 8 Phần 1. Chƣơng 1. 1.1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP 15 NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP 16 NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong kinh tế thị trƣờng 1.1.2. Chính sách tài khóa và sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 1.2.1. Xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ 1.2.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ và sự lựa chọn 1.2.3. Chính sách ngoại hối và chế độ điều hành tỷ giá 16 16 22 29 29 32 39 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 42 1.3.1. Cấu trúc của thị trƣờng tài chính 1.3.2. Các công cụ của thị trƣờng tài chính và sự phát triển của nghiệp vụ chứng khoán hóa 42 1.3. 1.4. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ 1.4.1. Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong điều tiết kinh tế vĩ mô. 1.4.2. Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô Chƣơng 2. 2.1. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ THÚC ĐẨY TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ KINH NGHIỆM CÁC NƢỚC ĐÔNG NAM Á 44 47 47 50 53 53 2.1.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 2.1.2. Kinh nghiệm về phát triển TTTC 53 56 2.2. 59 KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC 2.2.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 59 2.2.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 2.2.3. Kinh nghiệm về cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái 2.2.4. Kinh nghiệm về thiết lập hệ thống giám sát tài chính hiện đại 2.3. KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC 2.3.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 2.3.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 2.3.3. Kinh nghiệm về giám sát TTTC Phần 2. Chƣơng 1. 1.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 92 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 93 THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN 2001-2005 THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN 2001-2005 1.2.1. Đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2001-2005 1.2.2. Những vấn đề đặt ra về chi NSNN giai đoạn 2001-2005 1.3. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ NỢ CÔNG GIAI ĐOẠN 2001-2005 1.3.1. Đánh giá kết quả xử lý bội chi ngân sách nhà nƣớc và nợ công giai đoạn 20012005 1.3.2. Những vấn đề đặt ra trong xử lý bộ chi NSNN và quản lý nợ công giai đoạn 2001-2005 Chƣơng 2. 2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 2.1.1. Đánh giá kết quả thực hiện CSTT giai đoạn 2001-2005 2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong điều hành CSTT giai đoạn 2001-2005 2.2. 78 78 80 86 1.1.1. Đánh giá kết quả chuyển dịch quy mô và cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2001-2005 1.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2001-2005 1.2. 63 71 74 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ GIAI ĐOẠN 2001-2005 2.2.1. Đánh giá kết quả quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 2001-2005 2.2.2. Những vấn đề đặt ra về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 20012005 2 93 93 97 109 109 124 128 128 131 142 142 142 143 150 150 155 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI ĐOẠN 2001-2005 162 2.3.1. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 162 166 THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 169 2.3. 2.4. 2.4.1. Đánh giá kết quả phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô 2.4.2. Những hạn chế của cơ chế phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chƣơng 3. 3.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 3.1.1. Đánh giá tình hình phát triển của thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2001-2005 3.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2001-2005 3.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2001-2005 3.2.1. Đánh giá thực trạng phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2001-2005 3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2001-2005 3.3. 3.3.1. 3.3.2. 3.3.3. 3.3.4. 175 175 175 177 180 180 185 191 Thực trạng thanh tra, giám sát ngân hàng giai đoạn 2001-2005 Thực trạng thanh tra, giám sát bảo hiểm Thực trạng thanh tra, giám sát chứng khoán Đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính 191 195 198 203 Chƣơng 1. MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CSTC, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 208 NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG VÀ MỤC TIÊU ĐỊNH HƢỚNG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 209 NHỮNG XU HƢỚNG VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƢỚC ẢNH HƢỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 1.1.1. Xu hƣớng và đặc điểm kinh tế thế giới giai đoạn 2006-2010 1.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nƣớc giai đoạn 2006-2010 1.2. 170 THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁM SÁT THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 Phần 3. 1.1. 169 CÁC MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐỊNH HƢỚNG LỚN VỀ KINH TẾ, TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐẾN 2010 1.2.1. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội đến 2010 1.2.2. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu 1.2.3. Các định hƣớng phát triển tài chính, tiền tệ đến năm 2010 3 209 209 216 220 220 221 221 1.3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHỦ YẾU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 1.3.1. Cơ hội đối với hoạt động kinh tế và tài chính, tiền tệ Việt Nam 1.3.2. Thách thức đối với kinh tế và tài chính, tiền tệ Chƣơng 2. 2.1. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 2.1.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2006-2010 2.1.2. Định hƣớng điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 2.1.3. Chính sách và giải pháp điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 2.2. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 2.2.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006 -2010 2.2.2. Định hƣớng đổi mới cơ cấu chi NSNN 2.2.3. Chính sách giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006-2010 2.3. XỬ LÝ BỘI CHI NSNN VÀ NỢ CÔNG GIAI ĐOẠN 2006-2010 2.3.1. Quan điểm về xử lý bội chi NSNN nhằm duy trì sự bền vững của NSNN trong giai đoạn 2006-2010 2.3.2. Định hƣớng về bội chi NSNN và xử lý nợ công nhằm duy trì sự bền vững hợp lý của NSNN trong giai đoạn 2006-2010 2.3.3. Các giải pháp xử lý và tăng cƣờng quản lý nợ công trong giai đoạn 2006-2010 Chƣơng 3. 3.1. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 3.1.1. Xác định hệ thống mục tiêu và cơ chế truyền tải CSTT 3.1.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống mục tiêu, cơ chế truyền tải CSTT 3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ GIAI ĐOẠN 2006-2010 3.2.1. Định hƣớng hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá 3.3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÍN DỤNG GIAI ĐOẠN 2006-2010 3.3.1. Định hƣớng hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 – 2010. 3.3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 - 2010. 3.4. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHỐI HỢP GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ 3.4.1. Định hƣớng phối hợp giữa CSTK và CSTT 3.4.2. Giải pháp tăng cƣờng phối hợp giữa CSTK và CSTT 4 222 222 225 231 231 231 232 233 242 242 242 244 250 250 251 255 261 261 261 262 264 264 265 271 271 271 276 276 277 Chƣơng 4. 4.1. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2006-2010 PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 4.1.1. Định hƣớng chủ yếu phát triển thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2006-2010 4.1.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2006 – 2010. 4.2. PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2006-2010 4.2.1. Định hƣớng chủ yếu phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2006-2010 4.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng vốn 2006-2010 4.3. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TRA GIÁM SÁT THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 4.3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám sát TTTC và dịch vụ tài chính Việt Nam 4.3.2. Giải pháp đổi mới hệ thống giám sát thị trƣờng tài chính, hình thành tổ chức giám sát TTTC thống nhất 280 280 280 281 284 284 285 289 289 291 KẾT LUẬN 296 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 304 PHỤ LỤC 307 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN BNM CAB CB CNH, HĐH CNY CPI CSTK CTCP CSTT DNBH DNNN DNV&N ĐTPT ECB EU FED GDCK GDP GTGT HĐND HĐQT IMF MAS MB M2 NDA NER NFA NHNN NHTM NHTW NHNN NHNNg NHTM NHTMCP NHTMNN NHTMVN NHTW NSĐP NSNN Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á Ngân hàng trung ƣơng Malaysia Cán cân vãng lai Cán cân vốn Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa Đồng Nhân dân tệ Chỉ số giá tiêu dùng Chính sách tài khóa Công ty cổ phần Chính sách tiền tệ Doanh nghiệp bảo hiểm Doanh nghiệp nhà nƣớc Doanh nghiệp vừa và nhỏ Đầu tƣ phát triển Ngân hàng trung ƣơng châu Âu Liên minh châu Âu Cục dự trữ liên bang Mỹ Giao dịch chứng khoán Tổng sản phẩm quốc nội Giá trị gia tăng Hội đồng nhân dân Hội đồng quản trị Quỹ tiền tệ quốc tế Cơ quan quản lý tiền tệ singapore Tiền cơ bản Tổng phƣơng tiện thanh toán Tài sản có trong nƣớc ròng Tỷ giá hối đoái danh nghĩa Tài sản có ngoại tệ ròng NHNN việt nam Ngân hàng thƣơng mại Ngân hàng trung ƣơng Ngân hàng nhà nƣớc Ngân hàng nƣớc ngoài Ngân hàng thƣơng mại Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam Ngân hàng Trung ƣơng Ngân sách địa phƣơng Ngân sách nhà nƣớc 6 NSTW OMOs PBC PT&DB REPO RER REER RERE SWAP TBCN TCTD TNCN TTCK TTĐB TTGDCK TTTC TTTD USD VND WTO XHCN XDCB XNK Ngân sách Trung ƣơng Nghiệp vụ thị trƣờng mở Ngân hàng Trung ƣơng Trung Quốc Phân tích và dự báo Giao dịch mua có kỳ hạn Tỷ giá hối đoái thực Tỷ giá hối đoái thực hữu hiệu Tỷ giá hối đoái thực cân bằng Hoán đổi Tƣ bản chủ nghĩa Tổ chức tín dụng Thu nhập cá nhân Thị trƣờng chứng khoán Tiêu thụ đặc biệt Trung tâm giao dịch chứng khoán Thị trƣờng tài chính Thị trƣờng tín dụng Đô la Mỹ Đồng Việt Nam Tổ chức Thƣơng mại thế giới Xã hội chủ nghĩa Xây dựng cơ bản Xuất nhập khẩu 7 MỞ ĐẦU Sự cần thiết nghiên cứu Trong thập kỷ 90, trên con đƣờng tiếp tục thực hiện đƣờng lối đổi mới nền kinh tế, các chính sách và công cụ tài chính, tiền tệ đã đƣợc tích cực sử dụng hƣớng vào mục tiêu phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ vậy, nền kinh tế nƣớc ta đã có bƣớc tăng trƣởng cao trong thời gian dài, tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong cả giai đoạn 1991-2000. Bƣớc vào giai đoạn 20012010, Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta đã đặt ra mục tiêu cao về mức tăng trƣởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ to lớn đó, Chính phủ đã sử dụng đồng bộ hệ thống các công cụ kinh tế, trong đó có tài chính, tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng nhanh. Tổng kết hoạt động thực tiễn giai đoạn 2001-2005 đã chứng tỏ rằng: CSTC và CSTT đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trƣởng, thực hiện thành công chiến lƣợc xóa đói giảm nghèo, đảm bảo điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005. Bƣớc vào giai đoạn 2006-2010 – giai đoạn mở cửa hội nhập đầy đủ và sâu rộng với nền kinh tế thế giới, đã nảy sinh nhiều cơ hội mới, đồng thời cũng đặt ra những thách thức và khó khăn nhiều mặt trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Trong bối cảnh đó, CSTC và CSTT đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết. Thứ nhất, CSTK, đặc biệt là chính sách thu, chi NSNN đã đƣợc đổi mới theo hƣớng huy động và phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Tuy nhiên, CSTK còn nhiều hạn chế và bất cập, chƣa trở thành khâu đột phá, có tác dụng mở đƣờng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính còn kém hiệu quả, thất thoát lãng phí lớn, đầu tƣ của Nhà nƣớc chiếm tỷ trọng lớn nhƣng mức đóng góp vào tăng trƣởng kinh tế chƣa tƣơng xứng; cơ chế, CSTC tuy đã đƣợc đổi mới nhƣng còn nhiều bất cập, không tƣơng thích với thông lệ quốc tế. Thứ hai, CSTT, mặc dù đã đƣợc sử dụng linh hoạt để điều tiết vĩ mô song hiệu quả thấp; hoạt động tín dụng trung và dài hạn còn chậm phát triển, chƣa đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội, chính sách ngoại hối còn nhiều bất cập. Thứ ba, TTTC đã hình thành và trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho ĐTPT nhƣng hoạt động chƣa ổn định và chƣa vững chắc, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh đó hoạt động của các trung gian tài chính còn bất cập, chức năng nhiệm vụ chồng chéo, hiệu quả thấp. Mặt khác, giám sát TTTC – một chức năng quan trong trong hoạt đồng tài chính ngân hàng tuy đƣợc chú trọng nhƣng hiệu quả hoạt động thấp, cần phải đƣợc nghiên cứu đổi mới hoàn thiện cả về nội dung, phƣơng pháp và tổ chức bộ máy giám sát TTTC. 8 Thứ tư, mặc dù tài chính, tiền tệ là những phạm trù kinh tế khác nhau, nhƣng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trở thành các công cụ điều tiết quan trọng nền kinh tế thị trƣờng, song trong hoạt động thực tiễn, việc hoạch định và điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chƣa tạo ra sự gắn kết hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Thứ năm, những vấn đề nêu trên đƣợc đặt trong bối cảnh Việt nam đã gia nhập WTO. Vì vậy, vấn đề điều chỉnh các CSTK và CSTC cho phù hợp với thông lệ quốc tế càng trở nên cấp bách. Với ý nghĩa là một lĩnh vực then chốt mang tính huyết mạch đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách và công cụ tài chính, tiền tệ cần phải đƣợc đổi mới và hoàn thiện hƣớng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trong đó có mục tiêu thúc đẩy tăng trƣởng, kiềm chế lạm pháp, tạo công ăn, việc làm, và xử lý các vấn đề thâm hụt thƣơng mại. Trong đó, việc xác định những vấn đề cơ bản của tài chính, tiền tệ trong giai đoạn mới (2006-2010) có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 ở nƣớc ta. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010” ở cấp Nhà nƣớc là cần thiết, không chỉ có ‎nghĩa tổng kết những lý luận mới, hiện đại về tài chính, tiền tệ, mà còn góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách do thực tiễn đặt ra trong việc đề xuất hệ thống giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ tài chính, tiền tệ, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững nhƣ Chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 đã đặt ra, đồng thời tạo cơ sở vững chắc để phát triển tăng tốc trong giai đoạn 2010-2020. Tình hình nghiên cứu Trong kinh tế thị trƣờng, những vấn đề lý luận về tài chính – tiền tệ đã đƣợc các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm nghiên cứu trong lịch sử phát triển của mình. Nhiều quan điểm và các luận thuyết về tài chính, tiền tệ theo các trƣờng phái khác nhau đã hình thành và trở thành những vấn đề kinh điển trong các học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, trong kinh tế học hiện đại, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng, không thể chỉ sử dụng thuần tuý một học thuyết nào đó trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ để giải quyết các vấn đề phức tạp của nền kinh tế. Các nhà kinh tế học ngày nay cho rằng, cần phải kết hợp các học thuyết kinh tế này thông qua việc sử dụng linh hoạt chính sách tài khoá và CSTT mới bảo đảm hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc sử dụng các lý thuyết của kinh tế học hiện đại để điều tiết vĩ mô nền kinh tế đã đƣợc vận dụng linh hoạt và uyển chuyển tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1992-2000 Chính quyền của Tổng thống Bill Cliton đã vận dụng hiệu 9 quả CSTK và CSTT để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và kết quả là nền kinh tế Mỹ đã đạt những thành tựu to lớn với những bƣớc phát triển ngoạn mục trong thập kỷ 90. Trong số các nền kinh tế mới nổi, Hàn Quốc là nƣớc đã đạt đƣợc những thành công đáng kể trong việc sử dụng các công cụ của CSTK và CSTT để giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội trong phạm vi quốc gia. Đặc biệt là Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi với nhiều nét tƣơng đồng nhƣ Việt Nam – cũng rất thành công trong việc sử dụng hiệu quả các công cụ của CSTK và CSTT để can thiệp và điều chỉnh sự phát triển nền kinh tế Trung Quốc, giữ cho kinh tế tăng trƣởng nhanh trong gần 3 thập kỷ. Ở nƣớc ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, những vấn đề lý luận, cũng nhƣ đánh giá thực tiễn sử dụng công cụ tài chính – tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy tăng trƣởng nhanh và ổn định luôn luôn thu hút sự quan tâm chú ý của cả Chính phủ lẫn giới khoa học. Trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nƣớc ta đã xuất hiện nhiều chƣơng trình nghiên cứu về chính sách và công cụ tài chính – tiền tệ. Đặc biệt trong thập kỷ 90, nhất là những năm 1998-2003 đã công bố nhiều công trình nghiên cứu phục vụ hoạch định chính sách và chiến lƣợc trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ: Chiến lƣợc tài chính Việt nam đến năm 2010; Chiến lƣợc phát triển ngân hàng giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lƣợc phát triển TTCK giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lƣợc phát triển bảo hiểm giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lƣợc vay và trả nợ nƣớc ngoài đến năm 2010. Trong các chƣơng trình nghiên cứu đó, nhiều giải pháp về tài chính – tiền tệ đã đƣợc đề xuất nhằm thúc đẩy nền kinh tế – xã hội phát triển nhanh và bền vững. Hàng năm, các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á… thƣờng đƣa ra các báo cáo đánh giá về thực trạng công cuộc cải cách kinh tế-xã hội của Việt Nam. Các báo cáo này khá tổng quát, bao trùm hầu hết các vấn đề nổi cộm của nền kinh tế, xã hội Việt Nam nhƣ tăng trƣởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, đầu tƣ, cải cách tài khoá, cải cách ngân hàng… Đồng thời, các báo cáo này cũng đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị đối với Việt Nam về các giải pháp tài chính – tiền tệ nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đây là cách nhìn của các tổ chức quốc tế, chịu ảnh hƣởng rất sâu sắc của tƣ tƣởng phát triển nền kinh tế thị trƣờng phát triển. Do vậy, một số nhận xét, đánh giá và định hƣớng phát triển về kinh tế-xã hội Việt Nam còn phù hợp với thực tiễn có tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, một số đề xuất, kiến nghị có tính chất đẩy mạnh cải cách quá “nhanh, mạnh” sẽ khó có khả năng thực hiện trong tƣơng lai gần. Các đánh giá, nhận xét cũng nhƣ đề xuất kiến nghị chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, vấn đề then chốt nhƣ CSTK, CSTT mang tính vĩ mô cao, mức độ cụ thể thấp. Các dự báo về phát triển kinh tế, xã hội thƣờng trong ngắn hạn (1 – 3 năm). Tuy 10 vậy, nghiên cứu kỹ các báo cáo này rất có ‎ý nghĩa đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học Việt Nam nhằm bổ sung, hoàn thiện hệ thống giải pháp và xác định bƣớc đi, lộ trình thích hợp cho tiến trình cải cách kinh tế- xã hội ở nƣớc ta. Bƣớc vào giai đoạn 2006-2010, giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội trong và ngoài nƣớc nẩy sinh sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động tài chính, tiền tệ của đất nƣớc. Tác động đó có thể đƣa đến sự vận động của phạm trù tài chính, tiền tệ theo những định hƣớng khác nhau. Việc nắm bắt đƣợc những xu thế đó để có giải pháp điều chỉnh kịp thời đang đặt ra những nhiệm vụ cấp bách cho các nhà khoa học kinh tế Việt Nam. Xét theo khía cạnh đó, đến nay vẫn chƣa có một công trình hoặc những nghiên cứu nào có cách đánh giá đầy đủ, toàn diện mang tính vĩ mô về thực tiễn hoạt động tài chính-tiền tệ giai đoạn 2001-2005 ở nƣớc ta, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất định hƣớng CSTC và CSTT trong giai đoạn 2006-2010. Những nghiên cứu trong đề tài này sẽ kế thừa hợp lý những lý luận và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể nƣớc ta. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát chung nhất của đề tài là nghiên cứu nhằm tổng kết những lý luận mới, hiện đại về tài chính-tiền tệ, nhận dạng những vấn đề cơ bản về tài chính – tiền tệ của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay, đề xuất phƣơng hƣớng giải pháp xử lý các vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ giai đoạn 2006-2010 nhằm thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững. Mục tiêu cụ thể, đƣợc xác định là:  Nghiên cứu, tổng kết, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tài chính, tiền tệ trong điều kiện mới.  Xác lập luận cứ khoa học và kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng các công cụ tài chính – tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế và mở cửa hội nhập.  Đánh giá thực trạng tài chính, tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2001– 2005, chỉ rõ những thành tựu, những mặt hạn chế, yếu kém của công cuộc cải cách tài chính, tiền tệ.  Phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội trong nƣớc và quốc tế giai đoạn 2006-2010, những cơ hội và thách thức đặt ra đối với hoạt động tài chính – tiền tệ ở nƣớc ta, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ và định hƣớng đổi mới lĩnh vực tài chính – tiền tệ giai đoạn 2006-2010.  Xác định rõ những yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong giai đoạn 2006-2010 đặt ra cho lĩnh vực tài chính, tiền 11 tệ, trên cơ sở đó vạch rõ những vấn đề tài chính, tiền tệ cơ bản cần giải quyết và luận cứ khoa học và thực tiễn của việc xác định đó.  Xác lập các quan điểm và yêu cầu giải quyết có hiệu quả các vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao vai trò và tác động của tài chính, tiền tệ trong phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc giai đoạn 2006-2010.  Đề xuất đƣợc hệ thống giải pháp về các vấn đề tài chính – tiền tệ cơ bản giai đoạn 2006 – 2010 phù hợp kinh tế thị trƣờng và mở cửa hội nhập. Cách tiếp cận nghiên cứu Tài chính và tiền tệ là hai phạm trù độc lập có các chức năng riêng có của mình, có quá trình phát sinh, phát triển trong những điều kiện khác nhau, nhƣng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau. Tài chính ra đời phải có 2 điều kiện: sự ra đời của nhà nƣớc và sự phát sinh, phát triển của kinh tế hàng hóa và tiền tệ. Tài chính phản ánh và biểu hiện sự vận động của tiền tệ trong quá trình hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Tài chính không phải là tiền tệ, mà chỉ dùng tiền tệ làm hình thức biểu hiện cho nội dung vật chất của mình. Bản thân tài chính và tiền tệ là hai thuộc tính khác nhau và trở thành đối tƣợng và những vấn đề nghiên cứu khác nhau của khoa học kinh tế. Trong nền kinh tế thị trƣờng, tài chính và tiền tệ là hai công cụ quan trọng đƣợc nhà nƣớc sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, bản thân trong nội hàm từng công cụ và CSTC hay CSTT cũng chứa dựng nhiều lĩnh vực và nhiều khâu khác nhau, mà mỗi lĩnh vực đó, trong điều kiện phát triển kinh tế và mở cửa hội nhập ở nƣớc ta hiện nay đều là những vấn đề có nội dung nghiên cứu rất phức tạp, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. Do vậy, nội dung nghiên cứu đặt ra cho đề tài này trong điều kiện của nƣớc ta trong giai đoạn 2006-2010 bao gồm: Thứ nhất, những vấn đề đổi mới CSTK NSNN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính, một lĩnh vực quan trọng trong CSTK của nhà nƣớc có vai trò đảm bảo nguồn lực tài chính cần thiết để duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đồng thời thực hiện điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế-xã hội. Trong xã hội hiện đại, vai trò của CSTK càng trở nên trọng yếu giúp Nhà nƣớc điều hành nền kinh tế xã hội. CSTK bao gồm nhiều khâu, nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, mà mỗi khâu, mỗi lĩnh vực hoạt động đó vừa chứa đựng những đặc điểm chung nhất của hệ thống tài chính, vừa mang những đặc thù riêng, trong đó bao hàm nhiều vấn đề phức tạp nhƣ thuế, chi tiêu ngân sách, bội chi ngân sách và nợ chính phủ. 12 Trong một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập ngày càng sâu rộng nhƣ ở nƣớc ta hiện nay, thuế, chi tiêu ngân sách và vay nợ chính phủ đang trở thành những vấn đề thực tiễn quan trọng trong hoạt động tài chính và đang đặt ra những yêu cầu cần đổi mới và hoàn thiện. Vì vậy, đổi mới và hoàn thiện cơ cấu thu, chi NSNN, xử lý bội chi và vay nợ chính phủ đã trở thành những vấn đề trọng tâm trong CSTK giai đoạn 2006-2010. Thứ hai, những vấn đề về đổi mới điều hành CSTT HNQT trong lĩnh vực tài chính ngân hàng giai đoạn 2006-2010 gắn liền với việc tự do hoá tài chính, tự do hoá về luồng luân chuyển vốn, đòi hỏi phải tăng cƣờng tính linh hoạt và hiệu quả của CSTT, chính sách tín dụng và điều hành tỷ giá. Nhƣ vậy, CSTT lại bao hàm trong đó nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong những năm qua, việc điều hành CSTT đã đạt đƣợc một số kết quả nhất định theo hƣớng chuyển dần sang điều tiết tiền tệ gián tiếp, duy trì ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trƣởng kinh tế. Hệ thống mục tiêu CSTT và các công cụ CSTT bƣớc đầu đƣợc hình thành. Tuy nhiên, trong điều hành CSTT vẫn còn có một số hạn chế, bất cập về khả năng kiểm soát tiền tệ, điều tiết thị trƣờng tiền tệ. Vì vậy, đổi mới việc điều hành CSTT phục vụ mục tiêu tăng trƣởng trở thành một vấn đề quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô ở nƣớc ta giai đoạn 20062010. Với ý nghĩa là một nội dung của CSTT, song chính sách tín dụng lại đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ đảm bảo cung ứng phƣơng tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay đƣợc tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trƣờng. Tuy nhiên, trong bối cảnh TTTC nói chung và thị trƣờng tiền tệ ở nƣớc ta còn nhiều bất cập, các các nguyên tắc của thị trƣờng chƣa đƣợc tuân thủ một cách triệt để thì hiệu ứng đòn bẩy của chính sách tín dụng và lãi suất còn rất hạn chế trong việc kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Thứ ba, những vấn đề về phát triển TTTC TTTC là một trong những thị trƣờng yếu tố sản xuất quan trọng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng hiện nay ở nƣớc ta, trong đó bao gồm thị trƣờng tiền tệ (thị trƣờng ngắn hạn) và thị trƣờng vốn (thị trƣờng vốn tín dụng dài hạn và TTCK). Một TTTC phát triển đồng bộ sẽ là tiền đề cơ bản để các nguồn vốn đƣợc huy động và phân bổ có hiệu quả cho phát triển kinh tếxã hội. Tuy nhiên, TTTC ở nƣớc ta đang trong quá trình hình thành và phát triển, bản thân nội tại từng trƣờng cũng chứa dựng các yếu tố không vững chắc, phát triển chƣa đồng bộ và chƣa phát huy vai trò to lớn trong huy động nguồn lực cho ĐTPT. Mặt khác, sự phát triển không ổn định và quá nóng của TTCK cùng với khuynh hƣớng đầu cơ của thị trƣờng trong thời gian gần đây là những nhân tố gây bất ổn và chứa đựng nguy cơ mất an toàn hệ thống tài 13 chính. Điều đó đặt ra vấn đề hình thành tổ chức giám sát TTTC thống nhất nhằm đảm bảo an toàn và an ninh tài chính quốc gia. Vì vậy, hoàn thiện và phát triển TTTC là một nội dung quan trọng và trở thành vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự trong giai đoạn 2006-2010 ở nƣớc ta. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đã đƣợc triển khai với một cách tiếp cận vừa khoa học, vừa thực tế, nghiên cứu các vấn đề cả trong nƣớc và kinh nghiệm nƣớc ngoài, gắn lý luận với thực tiễn, dùng lý luận để xem xét thực tiễn, qua đó tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ và bổ sung thêm các khía cạnh lý luận về tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế thị trƣờng chƣa hoàn chỉnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài không đi sâu phân tích các vấn đề lý luận, các học thuyết kinh tế - tài chính – tiền tệ mang tính học thuật, mà tập trung phân tích chính sách, xây dựng quan điểm nhằm xử lý những vấn đề cụ thể về tài chính- tiền tệ trong giai đoạn 2006-2010. Đề tài đã sử dụng các phƣơng pháp phân tích, dự báo, thống kê, điều tra khảo sát. Trong đó, có bao gồm các đánh giá thực trạng hoạt động tài chính – tiền tệ giai đoạn 2001-2005; các phân tích, dự báo hoạt động kinh tế, tài chính, tiền tệ giai đoạn 2006-2010. Đề tài đã tổ chức một số cuộc hội thảo, tọa đàm và báo cáo khoa học nhằm cung cấp thông tin và phƣơng pháp luận khi tổ chức nghiên cứu. Kết cấu của đề tài Đề tài đƣợc xây dựng thành 3 Phần. Phần thứ nhất dành nghiên cứu các vấn đề lý luận chủ yếu. Phần thứ 2 bàn về thực trạng CSTK, CSTT và TTTC. Phần thứ ba dành nghiên cứu các vấn đề định hƣớng và giải pháp đổi mới hoàn thiện CSTK, CSTT và phát triển TTTC trong giai đoạn 2006-2010. Trong mỗi phần lại đƣợc kết cấu thành các chƣơng theo các chủ đề tƣơng ứng, mỗi chƣơng lại chia thành nhiều mục và tiểu mục thích hợp. 14 Phần 1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP 15 Chƣơng 1. 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong kinh tế thị trƣờng 1). Quan niệm về tài chính Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo nghĩa hẹp là thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển tiền tệ. Từ thế kỷ XIII-XV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" đƣợc sử dụng rộng rãi trong một số thành phố nổi tiếng của Italia với tƣ cách là những trung tâm khổng lồ về thƣơng mại và ngân hàng của châu Âu. Sau đó thuật ngữ này đƣợc lan rộng ra các nƣớc khác và đƣợc sử dụng nhƣ một khái niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các quỹ tiền tệ đƣợc động viên bởi nhà nƣớc để thực hiện các chức năng chính trị và kinh tế. Theo Từ điển Larousse1 cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có nghĩa là một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều finances), đƣợc hiểu là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi của Nhà nƣớc, hoặc của một lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thƣờng: là nguồn tiền mặt của một cá nhân. Trong kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ tài chính còn đƣợc mô tả theo nghĩa là vốn dƣới hình thức tiền tệ, đƣợc thể hiện dƣới dạng các quỹ cho vay hoặc đi vay thông qua TTTC hay định chế, tổ chức tài chính. Nhƣ vậy, tài chính đƣợc quan niệm nhƣ là nguồn tiền bạc, thu nhập hay tài sản; là cách thức, hay sự huy động, phân phối, bố trí, cung cấp, cấp phát, trợ giúp, chi tiêu, sử dụng, kiểm soát các quỹ tiền bạc; điều hành, dẫn dắt của cải. Các quan niệm này thƣờng xem xét ở khía cạnh mô tả các biểu hiện, hiện tƣợng của hoạt động tài chính. Có thể thấy rằng, khái niệm tài chính gắn liền mật thiết với tiền tệ và các quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Tài chính nảy sinh trong điều kiện kinh tế hàng hóa-tiền tệ dƣới tác động ảnh hƣởng của sự phát triển chức năng và nhu cầu của nhà nƣớc và nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Do đó, tài chính có quan hệ mật thiết với các quá trình kinh tế-xã hội, đƣợc thể hiện trong các hình thức vận động khác nhau và nhất định bao giờ cũng biểu hiện dƣới hình thái tiền tệ và kèm theo sự vận động của tiền tệ. Từ quan niệm đó, ngƣời ta thƣờng nhầm lẫn tài chính với tiền tệ và trong nhiều trƣờng hợp tài chính đƣợc coi là tiền tệ. Những quan niệm sai 16 lầm đó đƣa đến việc không đánh giá đúng mức vai trò của các phạm trù kinh tế khách quan. Để có cách hiểu đúng đắn về bản chất của tài chính, chúng tôi nêu lên một số dấu hiệu có tính chất đặc trƣng để nhận biết về phạm trù tài chính. Thứ nhất, trong thực tiễn, nếu quan sát quá trình vận động của tài chính có thể nhận thấy: các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dƣới dạng các hiện tƣợng thu vào bằng tiền và các hiện tƣợng chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế-xã hội. Các hiện tƣợng thu, chi bằng tiền đó đều mang một tính chất chung là vốn tiền tệ đang vận động. Nhƣ vậy, tính chất tiền tệ của các quan hệ tài chính - đó là một dấu hiệu quan trọng của tài chính. Dấu hiệu này khẳng định rằng, sự hoạt động của tài chính chỉ có thể khi có những điều kiện nhất định, mà nếu thiếu điều kiện đó thì tức khắc biến mất ranh giới tác động của phạm trù này. Sự xuất hiện các quan hệ tài chính luôn luôn biểu hiện ở chỗ tồn tại sự vận động của vốn tiền tệ, ở đâu thiếu sự vận động đó thì nơi đó không phải là chỗ nảy sinh tài chính. Nhƣ vậy, sự hiện diện của tiền tệ là điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của tài chính. Không có tiền tệ thì không thể có tài chính. Tiền tệ biểu hiện cơ sở vật chất cho sự tồn tại tài chính. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai khái niệm khác nhau, nhƣng có quan hệ mật thiết với nhau. Tài chính khác biệt căn bản với tiền tệ cả ở nội dung và cả ở các chức năng mà nó thực hiện. Ngƣời ta có thể cảm nhận đƣợc tiền tệ nhờ vào trực giác, còn tài chính biểu hiện sự vận động của tiền tệ, luôn ẩn đằng sau sự vận động của tiền tệ, khiến ngƣời ta không “sờ mó” đƣợc vào tài chính. Thứ hai, lĩnh vực nảy sinh và hoạt động của tài chính chính là khâu phân phối, mà trong đó diễn ra quá trình phân phối giá trị sản phẩm xã hội và thu nhập giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế. Bởi vậy dấu hiệu quan trọng của tài chính là tính chất phân phối của các quan hệ tài chính. Thứ ba, sự phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính đó đƣợc hình thành ở các chủ thể kinh tế và nhà nƣớc nhờ các dạng vận động khác nhau của thu nhập, tích lũy, thanh toán, trích nộp dƣới hình thức tiền tệ và đƣợc sử dụng vào những mục đích nhất định để đáp ứng nhu cầu của mình. Thứ tư, chính các nguồn tài chính là sự biểu hiện vật chất hóa của các quan hệ tài chính và việc sử dụng các nguồn tài chính đó đƣợc thực hiện về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy dấu hiệu đặc biệt quan trọng của tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành các quỹ tiền tệ có hình thức biểu hiện là các nguồn tài chính. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói trên (Nhà nƣớc, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân 17 phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của các chủ thể. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ - mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn các quỹ tiền tệ do các chủ thể nắm giữ là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính - một thuộc tính vốn có của tài chính. Nhƣng trên cơ sở các hoạt động thu, chi bằng tiền do các chủ thể thực hiện lại làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội. Đó chính là các quan hệ về mặt lợi ích nảy sinh trong quá trình tham gia phân phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính, biểu hiện nội dung kinh tế-xã hội của tài chính. Từ những phân tích nêu trên chúng tôi cho rằng, tài chính là biểu hiện sự vận động của tiền tệ, gắn liền với quá trình huy động và phân phối các nguồn tài chính nhằm thực hiện các lợi ích của các chủ thể kinh tế. Khái niệm này có nhiều điểm khác biết với những quan niệm thƣờng thấy trên các sách, báo chuyên ngành trên thế giới và ở nƣớc ta. Hiện nay, trong kinh tế học hiện đại, cũng xuất hiện một số quan niệm khác nhau và cũng khác biệt so với quan niệm của chúng tôi. Điển hình là quan niệm về tài chính của các tác giả cuốn giáo khoa “Tài chính học” do Z. Bodi và R. Merton chủ biên khi cho rằng, tài chính là việc nghiên cứu các cánh thức phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm của các chủ thể trong nền kinh tế theo thời gian. Quan niệm này khá cụ thể và trực diện, song theo chúng tôi nó hàm chứa ý nghĩa về các quan hệ của TTTC. Quan niệm về tài chính của chúng tôi trình bày trên đây cho phép nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan về tài chính. Quan niệm đó vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính là sự vận động của các quỹ tiền tệ, vừa vạch rõ mặt trừu tƣợng, mặt bản chất bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính để thực hiện các mục đích khác nhau của các chủ thể kinh tế, đồng thời có tính bao quát toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của tài chính nói chung, trong đó bao gồm cả TCC và TTTC. 2). Chức năng mới của tài chính trong kinh tế thị trường Theo chúng tôi, chức năng của tài chính là sự thể hiện bản chất nội hàm bên trong của tài chính, từ đó quy định vai trò tác động của tài chính trong hoạt động thực tiễn. Chức năng của tài chính tồn tại độc lập với sự nhận thức hoặc tác động của con ngƣời. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức năng vốn có của tài chính là điều hết sức quan trọng bởi đó là những nhận thức cơ bản mang tính nền tảng, quyết định không những đến việc hiểu đúng bản thân khái niệm tài chính mà còn có ý nghĩa quyết định đến chất lƣợng, hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng các công cụ tài chính trong kinh tế thị trƣờng, giúp tránh đƣợc những quyết định chủ quan duy ý chí - cội nguồn của các sai lầm không đáng có trong điều hành chính sách tài chính, tiền tệ. 18 Cho đến nay, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, đều chƣa có sự thống nhất trong việc đƣa ra số lƣợng các chức năng của tài chính, cũng nhƣ tên gọi của các chức năng của tài chính. Tuy nhiên, đa số các học giả đều thừa nhận tài chính có 2 chức năng cơ bản là phân phối và giám đốc bằng đồng tiền (gọi tắt là giám đốc). Chúng tôi cho rằng, tài chính có 2 chức năng là phân phối và giám đốc, điều này đúng, nhƣng chƣa đủ. Đúng vì chỉ phù hợp với thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây. Chƣa đủ vì trong kinh tế thị trƣờng, tài chính vận động trong môi trƣờng kinh tế có những đặc trƣng khác biệt, do đó có cơ sở để phát huy các tác động xuất phát từ khả năng và bản chất nội tại của tài chính. Vì thế, theo quan điểm của chúng tôi, tài chính, ngoài 2 chức năng phân phối và giám đốc còn có chức năng khác, đó là chức năng hiệu quả và sinh lời. Sự phát huy tác động của chức năng này trong kinh tế thị trƣờng là hoàn toàn có cơ sở, vì rằng: trong nền kinh tế thị trƣờng, khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn, quá trình vận động của tƣ bản đƣợc thể hiện qua công thức: T – H – T‟. Ở đây, tài chính đƣợc coi là khởi điểm của quá trình vận động của tƣ bản và cũng chính tài chính, sau một quá trình sử dụng có khả năng tạo ra một lƣợng giá trị lớn hơn so với tƣ bản ứng trƣớc. Rõ ràng, đây là khả năng bên trong của tài chính, là cái vốn có, nhờ đó mà phát huy tác động của tài chính trong hoạt động thực tiễn. Giữa các chức năng của tài chính có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng phân phối nảy sinh đồng thời với sự ra đời của tài chính và đƣợc coi là chức năng cơ sở, qua đó quy định sự hình thành và phát triển của chức năng giám đốc và chức năng hiệu quả, sinh lời. Điều đó thể hiện rằng, trong những môi trƣờng nhất định chính sự phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính đã tạo cơ sở để đem lại nguồn tài chính hiệu quả hơn. Ngƣợc lại, nhờ việc thực thi chức năng giám đốc đối với mọi hoạt động tài chính mà làm cho tài chính đƣợc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, góp phần tăng thu nhập và của cải, đến lƣợt nó lại tạo ra cơ sở vững chắc để thực hiện chức năng phân phối tài chính. Ý nghĩa của chức năng phân phối tài chính càng tăng lên khi Nhà nƣớc có nguồn lực tài chính nhất định để tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra tiền đề để tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cƣ, do đó mà củng cố chức năng hiệu quả và sinh lời của tài chính. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của tài chính. Sự thống nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi mà phân phối tài chính không hợp lý, nguồn lực tài chính không đƣợc giám sát đầy đủ trong quá trình sử dụng thì chắc chắn không thể có sự sinh lời hay hiệu quả về mặt tài chính. Ngƣời ta gọi đó là tính hai mặt của tài chính, nó có khả năng ảnh hƣởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhƣng cũng có thể ảnh hƣởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải đƣợc 19 tính toán kỹ lƣỡng trong tiến trình hoạch định chính sách tài chính ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. 3). Vai trò mới của tài chính trong kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập Về phƣơng diện lý luận, vai trò của tài chính đã đƣợc làm rõ với tƣ cách là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nƣớc và thực hiện việc phân phối thu nhập đảm công bằng xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng, chúng tôi cho rằng, ngoài các chức năng kể trên tài chính còn đóng vai trò là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. Đây là vai trò quan trọng nhất của tài chính trong kinh tế thị trƣờng và mở cửa hội nhập. Sự nhận thức mới về vai trò này là cả quá trình phát triển về lý luận dựa trên những cơ sở sau đây: Thứ nhất, xuất phát từ những quan điểm của các trường phái kinh tế học Phương Tây. Các trƣờng phái kinh tế học Phƣơng Tây, mặc dù có cách lập luận khác nhau nhƣng lại thống nhất quan điểm rằng, phân phối có mối quan hệ rất mật thiết với tăng trƣởng kinh tế và đƣợc coi là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Đã từ lâu, nhà kinh tế lỗi lạc Adam Smith cho rằng, để tăng số ngƣời lao động mang tính sản xuất thì phải tăng tƣ bản từ quỹ tăng lao động và muốn tăng năng suất lao động lại đòi hỏi phải tăng thêm tƣ bản. Từ đó cho thấy đầu tƣ tăng tƣ bản cho sản xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong quá trình tăng trƣởng kinh tế. Cùng với Adam Smith, David Ricardo lại chú trọng tới tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và ảnh hƣởng của nó tới tích luỹ tƣ bản và tăng trƣởng kinh tế. Ông phân tích hàm số tăng trƣởng và rút ra nhận xét, do tích luỹ tƣ bản có xu hƣớng co lại nên làm kinh tế tăng trƣởng chậm lại. Các biện pháp thúc đẩy tăng trƣởng đƣợc xuất phát từ tăng tỷ lệ hình thành tƣ bản, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trƣởng kinh tế. Các nhà khoa học Roy Harrod và Evsey Domar (sau này gọi là mô hình Harrod–Domar) đã gắn tăng trƣởng kinh tế với việc cơ cấu lại tiết kiệm và đầu tƣ trong tổng thu nhập. Hai ông cho rằng, sản lƣợng của bất cứ một đơn vị kinh tế nào, dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế cũng đều phụ thuộc chắc chắn vào tổng số vốn có đƣợc. Khi nói tăng trƣởng kinh tế thì phải nói đến mức tăng thêm của sản lƣợng, nhƣng mức tăng thêm của sản lƣợng lại do lƣợng tăng thêm của vốn quyết định hay nói cách khác do thay đổi cơ cấu đầu tƣ vốn quyết định đến tăng trƣởng kinh tế. Cambridge cho rằng, con đƣờng căn bản để thực hiện sự tăng trƣởng ổn định nền kinh tế nằm ở chỗ điều chỉnh chế độ phân phối. Ông cho rằng, có thể áp dụng biện pháp phân phối lại để điều chỉnh tăng phần thu nhập của các tầng lớp khác nhau, từ đó thực hiện đƣợc sự tăng trƣởng ổn định của nền kinh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất