CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO
SÁNG KIẾN, CẢI TIẾN ĐỀ NGHỊ XÉT CÔNG NHẬN
DANH HIỆU CHIẾN SĨ THI ĐUA NĂM 2016 - 2017
Kính gửi: Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện Cao Lãnh
I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN
- Họ và tên: Võ Thị Bảo Sinh
Năm sinh: 1984
- Trình độ chuyên môn nghiệp vu: Cao đẳng sư phạm môn Vật lí - KTCN
- Chức năng, nhiệm vụ được phân công: Giáo viên
- Đơn vị công tác: THCS Bình Hàng Tây
II. NỘI DUNG
1. Nêu thực trạng tình hình của học sinh THCS, có sáng kiến, giải pháp, đề tài nghiên
cứu;
Làm các thí nghiệm vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan
trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết
định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi
nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đó có một số vốn hiểu biết nào
đó về các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở
giúp họ tự nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng vật lí, học sinh có thể
có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy
được mọi vật rơi là do Trái Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật
nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt
phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh
lí, bổ sung, hệ thống hóa những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác,
đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều,
hình thức trong giảng dạy.
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức
của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì
qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì,
điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham
gia hoạt động thực tế.
Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại
lượng,..., các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị
dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
Bộ giáo dục đã triển khai thay sách giáo khoa với mục tiêu là để giảm
tải kiến thức, tăng tính chủ động cho học sinh. Cụ thể, phần lớn các kiến thức
mới đều được rút ra từ các kinh nghiệm, nhiều tiết thực hành đã được đưa vào
chương trình với sự giúp đỡ đắc lực của các thiết bị đồ dùng thí nghiệm.
2. Tên sáng kiến và lĩnh vực áp dụng:
- Tên sáng kiến: Giúp học sinh phát huy kỹ năng thực hành trong giờ học thí nghiệm thực
hành.
- Lĩnh vực áp dụng: giáo dục
3. Mô tả nội dung bản chất của sáng kiến:
A. PHÂN LOẠI CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÍ
Trong dạy học Vật lí, mỗi thí nghiệm tiến hành trong tiết
học đều được quy về
một trong hai dạng thí nghiệm sau:
I. THÍ NGHIỆM BIỂU DIỄN
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên trình bày ở
trên lớp.
Căn cứ vào mục đích, có thể chia thí nghiệm biểu diễn
thành 3 loại:
1. Thí nghiệm nêu vấn đề
Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo
ra tình huống có vấn đề
làm tăng hiệu quả của dạy học.
Ví dụ: Trước khi dạy bài áp suất khí quyển, giáo viên có
thể làm thí nghiệm:
Đổ đầy một cốc nước rồi đậy lên miệng cốc một mảnh giấy, giữ
và lật ngược cốc lại
rồi buông tay ra sẽ thấy tờ giấy không rơi. Giáo viên nêu vấn đề
cho bài học: “Tại sao
lại có hiện tượng đó? Để giải thích được, chúng ta đi vào nghiên
cứu bài mới.”
2. Thí nghiệm giải quyết vấn đề:
Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề
đặt ra sau phần nêu
vấn đề. Bao gồm hai loại thí nghiệm:
a. Thí nghiệm khảo sát
Là thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông
qua đó giáo viên hướng
dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết.
Ví dụ: Thí nghiệm về sự sinh ra lực của chất rắn khi dãn nở
gặp vật cản.
b. Thí nghiệm kiểm chứng
Là thí nghiệm dùng để kiểm tra lại những kết luận được
suy ra từ lí thuyết.
Ví dụ: Thí nghiệm kiểm tra lại hiện tượng suy ra từ lí
thuyết ở bài tập 1 – Bài
30: Bài tập vận dụng quy tắc nắm tay phải và quy tắc bàn tay
trái - Vật lí 9.
3. Thí nghiệm củng cố:
Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã
nghiên cứu bao gồm cả
những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Vật lí trong
đời sống và trong kỹ
thuật.
Ví dụ: Khi nghiên cứu về áp suất khí quyển giáo viên có thể
làm thí nghiệm ứng
dụng để chế tạo ra áp kế như hình vẽ:
Hoặc: Khi học về chương âm học (Vật lí 7) có thể cho học
sinh làm những chiếc
đàn bằng những kiến thức đã học.
II. THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH VẬT LÍ:
Thí nghiệm thực hành Vật lí là thí nghiệm do tự tay học sinh
tiến hành đưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
*Phân loại:
Với dạng thí nghiệm này có nhiều cách phân loại, tuỳ theo
căn cứ để phân loại:
1. Căn cứ vào nội dung:
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
a. Thí nghiệm thực hành định tính.
Loại thí nghiệm này có ưu điểm nêu bật bản chất của hiện
tượng.
Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu tính dẫn nhiệt của các chất;
nghiên cứu sự nóng
chảy, đông đặc của các chất.
b. Thí nghiệm thực hành định lượng.
Loại thí nghiệm này có ưu điểm giúp học sinh nắm được
quan hệ giữa các đại
lượng vật lí một cách chính xác rõ ràng.
Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu sự cân bằng của đòn bẩy để
tìm ra công thức
F1/F2 = l2/ l1, thí nghiệm xác định điện trở,...
2. Căn cứ vào tính chất
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
a. Thí nghiệm thực hành khảo sát.
Loại thí nghiệm này học sinh chưa biết kết quả thí nghiệm,
phải thông qua thí
nghiệm mới tìm ra được các kết luận cần thiết. Loại thí nghiệm
này được tiến hành
trong khi nghiên cứu kiến thức mới.
Ví dụ: Các thí nghiệm nghiên cứu về đặc điểm chung của
nguồn âm của bài
“nguồn âm” - Vật lí 7.
b. Thí nghiệm kiểm nghiệm
Loại thí nghiệm này được tiến hành kiểm nghiệm lại những
kết luận đã được
khẳng định cả về lí thuyết và thực nghiệm nhằm đào sâu vấn đề
hơn.
Ví dụ: Thí nghiệm “Kiểm nghiệm mối quan hệ Q ~ I2 trong
định luật Jun Lenxơ” - Vật lí 9.
3. Căn cứ vào hình thức tổ chức thí nghiệm:
Có thể chia thí nghiệm thực hành thành 3 loại:
a. Thí nghiệm thực hành đồng loạt.
Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm
một thí nghiệm,
cùng thời gian và cùng một kết quả. Đây là thí nghiệm được sử
dụng nhiều nhất hiện
nay vì có nhiều ưu điểm. Đó là:
+ Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ
nhau và kết quả trung
bình đáng tin cậy hơn.
+ Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc
uốn nắn hướng dẫn,
sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả học
sinh.
Bên cạnh những ưu điểm, còn một số hạn chế:
+ Do trình độ các nhóm không đồng đều nên có nhóm vội
vàng trong khi thao
tác dẫn đến hạn chế kết quả.
+ Đòi hỏi nhiều bộ thí nghiệm giống nhau gây khó khăn về
thiết bị.
b. Thí nghiệm thực hành loại phối hợp:
Trong hình thức tổ chức này học sinh được chia thành
nhiều nhóm khác nhau,
mỗi nhóm chỉ làm thí nghiệm một phần trong thời gian như
nhau, sau đó phối hợp các
kết quả của các nhóm lại sẽ được kết quả cuối cùng.
Ví dụ: Trong bài “Công thức tính nhiệt lượng” - Vật lí 8.
Giáo viên phân công:
+ Nhóm 1, 2: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa
nhiệt lượng vật cần
thu vào để nóng lên và khối lượng của vật.
+ Nhóm 3, 4: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa
nhiệt lượng vật cần
thu vào để nóng lên và độ tăng nhiệt độ của vật.
+ Nhóm 5, 6: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa
nhiệt lượng vật cần
thu vào để nóng lên với chất làm vật.
=>Kết quả thí nghiệm của các nhóm khái quát thành công
thức tính nhiệt lượng
vật thu vào để nóng lên: Q = m.c. t
-Ưu điểm của loại thí nghiệm này:
+ Rèn luyện cho học sinh ý thức lao động tập thể.
+ Kích thích tinh thần thi đua làm việc giữa các nhóm.
-Một số hạn chế của loại thí nghiệm này: Mỗi nhóm không
được rèn luyện đầy
đủ các kĩ năng làm toàn diện thí nghiệm.
Vì vậy cần khắc phục bằng cách cho các nhóm luân phiên
nhau làm lại thí
nghiệm.
c. Thí nghiệm thực hành cá thể:
Trong hình thức tổ chức này các nhóm học sinh làm thí
nghiệm trong cùng thời
gian hoặc cùng đề tài nhưng dụng cụ và phương pháp khác
nhau.
Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu sự nhiễm điện do cọ xát Vật lí 7.
-Ưu điểm của loại thí nghiệm này: Giảm được khó khăn về
bộ thí nghiệm.
-Một số hạn chế của loại thí nghiệm này:Việc hướng dẫn
của giáo viên rất phức
tạp. Vì vậy hình thức này đòi hỏi tính tự lực cao nên chỉ thích
hợp cho các lớp trên.
B.CÁC LOẠI BÀI HỌC THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH VẬT LÍ:
1. Thí nghiệm thực hành khảo sát đồng loạt lớp:
Trong kiểu bài này tất cả các nhóm học sinh cùng làm thí
nghiệm khảo sát trong
giờ học thay cho thí nghiệm biểu diễn của giáo viên để nhận
thức kiến thức mới. Nội
dung có thể là định tính hay định lượng.
2. Thí nghiệm thực hành kiểm nghiệm đồng loạt lớp:
Loại thí nghiệm này thường sử dụng cho thí nghiệm định
lượng.
Ví dụ: Thí nghiệm kiểm nghiệm độ lớn của lực đẩy acsimét Vật lí 8
3. Thí nghiệm thực hành ở ngoài lớp:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ở nhà với mục
đích chuẩn bị bài
sau hoặc củng cố bài học.
Ví dụ: Thí nghiệm làm dàn của học sinh ở bài tập 10.4, 10.5
– Bài tập Vật lí 7.
Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng khuếch tán với dung dịch
đồng sunfát (CuSO 4) Vật lí 8.
II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
I. Đối với thí nghiệm biểu diễn:
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các thí nghiệm
biểu diễn, bản thân tôi
luôn có gắng thực hiện tốt các nội dung sau:
1. Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Nếu thí nghiệm
thất bại học sinh sẽ
mất tin tưởng vào bài học và ảnh hưởng xấu đến uy tín của giáo
viên. Muốn làm tốt
được điều này, giáo viên phải:
-Am hiểu bản chất của các hiện tượng vật lí xảy ra trong thí
nghiệm.
-Nắm vững cấu tạo, tính năng, đặc điểm của từng dụng cụ
thí nghiệm cùng với
những trục trặc có thể xảy ra để biết cách kịp thời khi phải sửa
chữa. Muốn vậy, giáo
viên phải làm trước nhiều lần trong khi chuẩn bị bài.
2. Thí nghiệm phải ngắn gọn một cách hợp lí. Nếu thí
nghiệm kéo dài sẽ khó
tập trung sự chú ý của học sinh và dễ cháy giáo án. Muốn vậy
giáo viên phải hạn chế
tối đa thời gian lắp ráp thí nghiệm, phải làm trước khi lên lớp.
Thí nghiệm đảm bảo
thành công ngay không phải làm lại. Nếu thí nghiệm kéo dài có
thể chia ra nhiều bước,
mỗi bước coi như một thí nghiệm nhỏ.
3. Thí nghiệm phải đảm bảo cho cả lớp quan sát.
Để làm tốt điều này, giáo viên cần phải:
-Chuẩn bị dụng cụ thích hợp, có kích thước đủ lớn, có cấu
tạo đơn giản thể hiện
rõ được bản chất của hiện tượng cần nghiên cứu. Dụng cụ phải
có hình dáng, màu sắc
đẹp, hấp dẫn học sinh, có độ chính xác thích hợp.
-Sắp xếp dụng cụ một cách hợp lí. Điều này biểu hiện:
+ Chỉ bày những dụng cụ cần thiết cho thí nghiệm, không
bày la liệt những dụng
cụ chưa dùng đến hoặc chưa dùng xong.
+ Bố trí sao cho cả lớp đêu nhìn rõ. Muốn như vậy nên sắp
xếp dụng cụ trên mặt
phẳng thẳng đứng. Nếu không được phải đem đến tận bàn cho
học sinh xem. Giáo viên
cũng cần chú ý không che lấp thí nghiệm khi thao tác.
4. Sử dụng các vật chỉ thị thích hợp: Nhằm tập trung sự
chú ý của học sinh về
những điều cần quan sát. Thí nghiệm phải có sức thuyết phục
học sinh. Muốn vậy thí
nghiệm phải rõ ràng, chặt chẽ để học sinh không thể hiểu theo
một cách nào khác, phải
loại bỏ triệt để những ảnh hưởng phụ, nếu không loại bỏ được
thì phải làm thêm thí
nghiệm phụ để chứng tỏ ảnh hưởng phụ là không đáng kể.
5. Thí nghiệm phải đảm bảo cho người và dụng cụ thí
nghiệm. Đối với các
chất dễ cháy, nổ phải để xa ngọn lửa và nếu nó bốc cháy thì
phải dùng cát hoặc bao tải
ướt phủ lên. Với những chất độc hại như thuỷ ngân thì phải hết
sức thận trọng không
để vương vãi. Với các thí nghiệm điện, nếu dùng điện lưới 220V
hay 110V thì mạch
điện nhất thiết phải có cầu chì ngắt điện và không được dùng
dây trần. Phải nắm vững
tính năng, cách bảo quản dụng cụ để không làm hỏng dụng cụ.
6. Phải phát huy được tác dụng của thí nghiệm biểu diễn.
Điều đó đòi hỏi:
-Thí nghiệm phải được tiến hành hữu cơ với bài học, tuỳ
vào mục đích của bài
học mà đưa thí nghiệm đúng lúc.
-Thí nghiệm phải tiến hành kết hợp với phương pháp giảng
dạy khác nhất là
phương pháp đàm thoại và vẽ hình.
-Thí nghiệm chỉ có hiệu quả tốt khi có sự tham gia tích
cực, có ý thức của học
sinh. Vì vậy giáo viên phải làm cho học sinh hiểu rõ mục đích
của thí nghiệm, cách bố
trí thí nghiệm và các dụng cụ của thí nghiệm. Học sinh trực tiếp
quan sát và rút ra kết
luận cần thiết.
II. Đối với thí nghiệm thực hành:
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của thí nghiệm thực
hành, bản thân tôi luôn
cố gắng thực hiện tốt các nội dung sau:
1. Chuẩn bị tốt dụng cụ thí nghiệm thực hành, đảm bảo
đủ vể số lượng, chất
lượng. Điều này đòi hỏi giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình
thực hành ngay từ
đầu năm học, xác định cần dụng cụ gì, số lượng bao nhiêu, còn
thiếu những gì để có kế
hoạch giải quyết trong năm bằng cách mua thêm hoặc tự làm
hoặc hướng dẫn học sinh
tự làm.
2. Trình tự tổ chức một thí nghiệm thựe hành. Tôi thường
tiến hành theo các
bước sau:
a. Chuẩn bị
-Giáo viên cần đặt vấn đề vào bài, gợi ý để học sinh phát hiện
được nội dung
kiến thức cần nghiên cứư, từ đó tiếp tục gợi ý đê học sinh nêu
rõ mục đích của thí
nghiệm là gì.
-Giáo viên có thể dùng phương pháp đàm thoại kết hợp vẽ
hình để học sinh lập
kế hoạch tiến hành thí nghiệm.
-Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm và các thao tác
mẫu.
b. Tiến hành thí nghiệm
-Nhóm trưởng nhận dụng cụ, điều khiển nhóm tiến hành
thí nghiệm. Các nhóm
học sinh tiến hành thí nghiệm. Giáo viên theo dõi chung và giúp
đỡ nhóm gặp khó
khăn, nếu cần thì giáo viên yêu cầu cả lớp ngừng thí nghiệm để
hướng dẫn, bổ sung.
Cần tránh trường hợp một số em chuyên làm thí nghiệm, một
số em chuyên ghi chép.
c. Xử lí kết quả thí nghiệm
-Với thí nghiệm thực hành khảo sát: Cả nhóm cùng dựa
vào kết quả thí nghiệm
để thảo luận tìm ra kiến thức mới. Với thí nghiệm thực hành
kiểm nghiệm, nhóm (hoặc
cá nhân) làm báo cáo kết quả thí nghiệm ghi rõ nhận xét và so
sánh kết quả thí nghiệm
ghi rõ nhận xét và so sánh kết quả thí nghiệm với lí thuyết đã
học.
-Chú ý: Với những thí nghiệm có tính toán: Mỗi học sinh
tính toán độc lập theo
số liệu đã thu được và so sánh trong nhóm để kiểm tra lại.
d. Tổng kết thí nghiệm:
-Giáo viên phân tích kết quả của học sinh và giải đáp thắc
mắc.
-Giáo viên rút kinh nghiệm và cách làm thí nghiệm của cả
lớp.
MỘT SỐ BÀI SOẠN CỤ THỂ
Trên đây là những sáng kiến, cải tiến, giải pháp mới, kỹ thuật mới (gọi chung là sáng kiến) các đề án,
dự án của bản thân trong năm 2015-2016
Kính đề nghị Hội đồng xét duyệt sáng kiến xem xét, công nhận đề tài sáng
kiến cấp cơ sở
Thủ trưởng đơn vị
Trần Văn Út
Bình Hàng Tây, ngày 02 tháng 04 năm 2016
Người báo cáo
Võ Thị Bảo Sinh
- Xem thêm -