Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử Luận văn TS "Đảng cộng sản VN lãnh đạo xây dựng đoàn kết liên minh chiến đấu VN...

Tài liệu Luận văn TS "Đảng cộng sản VN lãnh đạo xây dựng đoàn kết liên minh chiến đấu VN - Lào - Campuchia trong kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975)

.DOC
110
356
80

Mô tả:

luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử đảng
3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đoàn kết quốc tế là một vấn đề quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng của các Đảng mácxít vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, vì hoà bình, tiến bộ xã hội. Từ khi ĐCSVN ra đời và lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc đã sớm nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc đoàn kết giữa ba nước Việt Nam Lào - Campuchia để tạo nên sức mạnh tổng hợp chống kẻ thù chung. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, Đảng càng chú trọng, tích cực củng cố, tăng cường đoàn kết giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương. Đặc biệt trong những năm từ 1965 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo xây dựng đoàn kết Việt Nam với Lào và Campuchia tạo nên khối liên minh chiến đấu đặc biệt và là một trong ba tầng mặt trận rộng rãi để đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp tập trung mũi nhọn lực lượng cách mạng vào kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản quyết định thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đánh giá: “Thắng lợi của chúng ta cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc” [31, tr.982]. Và đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, tình hình thế giới có nhiều thay đổi so với thời kỳ nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thế giới hiện nay không ngừng vận động trong những mối quan hệ phức tạp, đầy mâu thuẫn và tác động qua lại lẫn nhau. Sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế đang ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của cách mạng nước ta. Nhiều vấn đề trong nước và khu vực đang diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải biết vận dụng những bài học kinh nghiệm trong 4 lịch sử về phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế nói chung đoàn kết ba nước Việt Nam với Lào và Campuchia nói riêng, vào công cuộc đổi mới để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Đúng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã chỉ rõ: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để bảo vệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [33, tr.88]. Do vậy, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975 là hết sức cần thiết. Nghiên cứu vấn đề đoàn kết, liên minh Việt Nam với Lào và Campuchia từ năm 1965 đến năm 1975 không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị hiện thực to lớn, đặc biệt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay. Thông qua đó để chúng ta hiểu rõ hơn về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong quá trình tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975” làm luận văn cao học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra và giành thắng lợi, cho đến nay đã có nhiều cơ quan, nhà khoa học ở trong và ngoài nước nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Phần lớn các công trình đã tập trung làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng; làm rõ bản chất cách mạng khoa học của đường lối kháng chiến; làm rõ nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh vũ trang của Đảng, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng trong giai đoạn mới. Vấn đề đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được thể hiện nhiều trong các văn kiện của Đảng, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các 5 đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh trực tiếp chỉ đạo chiến tranh thời kỳ này cũng như các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước được công bố ở nhiều thể loại khác nhau. Tiêu biểu có các công trình khoa học sau: - Nhóm các công trình mang tính chất tổng kết: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 -1975 thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban tổng kết Lịch sử, thuộc Bộ Tổng tham mưu (1997), Thống kê số liệu chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), lưu tại Ban Tổng kết Lịch sử, Bộ Tổng tham mưu. - Nhóm tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, cơ quan nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tiêu biểu như: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1978), Về sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đại tướng Hoàng Văn Thái (1983), Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam Lào - Campuchia, Nxb Sự thật, Hà Nội. Chiến thắng của sức mạnh tổng hợp sức mạnh dân tộc và thời đại (1985), Nxb Sự thật, Hà Nội. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam ( 2003), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), tập VI, Thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 6 - Nhóm các luận án, luận văn, tiêu biểu có: Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử của Hoàng Trang (1995), Chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975). Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Phạm Đức Thắng (1995), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Quan hệ Việt Nam - Campuchia, lịch sử và xu hướng vận động. Luận văn thạc sĩ Lịch sử ĐCSVN, của tác giả Nguyễn Văn Bạo (2001), Học viện Chính trị quân sự về Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1969 đến năm 1973. Luận văn thạc sĩ Lịch sử ĐCSVN, của tác giả Trịnh Văn Tuấn (2006), Học viện Chính trị quân sự về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến năm 1975. Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, (2002) của tác giả Đào Văn Hiếu, Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về Quan hệ Việt Nam - Campuchia và tác động của chế độ đa Đảng ở Campuchia đối với mối quan hệ này. - Nhóm các bài nghiên cứu, tiêu biểu như: Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (4 - 2002), Lê Đình Chỉnh, Vài nét về quan hệ Việt Nam - Lào trong thời kỳ 1954 - 1975 . Tạp chí Lịch sử quân sự (12 - 2005), Ngô Quốc Tuấn, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Tạp chí Lịch sử Đảng (số 11 - 2005), GS, TS Mạch Quang Thắng, Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản với việc vun đắp tình đoàn kết đặc biệt, sự liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam. Tạp chí Lịch sử Đảng (số5 - 2007), PGS, TS Nguyễn Thanh Tâm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Liên minh chiến đấu Việt - Lào - Campuchia trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 1954). Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (số 4 - 2007), Nguyễn Viết Bình và Lê Văn Phong, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Liên minh chiến đấu Lào - Việt trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975). Tạp chí Lý luận chính trị (số 6 - 7 2007), PGS, TS Nguyễn Hoàng Giáp, Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng xây dựng mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào. Các tác giả nước ngoài đặc biệt là ở Mỹ cũng đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương. Tiêu biểu như cuốn Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn (1985), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội v.v. Nhìn chung, những công trình được công bố đã đề cập ở những mức độ, góc độ khác nhau về đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhưng chưa có công trình khoa học nào đi sâu trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về ĐCSVN lãnh đạo xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia từ năm 1965 đến năm 1975 dưới góc độ lịch sử Đảng. Tuy vậy, những công trình trên là những tư liệu lịch sử quý giá, tác giả có thể tham khảo, kế thừa, để xây dựng luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về ĐCSVN lãnh đạo xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia. Thông qua, rút ra kinh nghiệm vận dụng vào việc củng cố, phát triển mối quan hệ, hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với Lào và Campuchia trong giai đoạn cách mạng hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ chủ trương của Đảng trong đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. - Trình bày có hệ thống Đảng chỉ đạo thực hiện đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. - Khẳng định những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia. Rút ra kinh nghiệm từ quá trình 8 Đảng lãnh đạo xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng: Luận văn nghiên cứu đường lối và sự chỉ đạo của Đảng xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về đoàn kết, liên minh chiến đấu diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giữa ba nước Việt Nam với Lào và Campuchia trong những năm từ 1965 đến năm 1975. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng trên cơ sở của lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa quốc tế vô sản, về đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Đồng thời, sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, quy nạp, so sánh… để làm rõ nội dung nghiên cứu. 6. Ý nghĩa luận văn Thông qua nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975, luận văn góp một phần nhỏ vào việc tổng kết một nội dung quan trọng trong thời kỳ đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Đông Dương. Qua nghiên cứu những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình ĐCSVN lãnh đạo xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia từ năm 1965 đến năm 1975, có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu giảng dạy Lịch sử Đảng trong các Học viện, Nhà trường trong và ngoài quân đội hiện nay. 9 7. Kết cấu luận văn Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT, LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM VỚI LÀO VÀ CAMPUCHIA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 1.1. Đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào và Campuchia là một yêu cầu khách quan trong những năm từ 1965 đến năm 1975 1.1.1. Cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời là một thành tựu vĩ đại của loài người tiến bộ, là vũ khí lý luận khoa học và cách mạng soi đường để giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đứng lên tự giải phóng mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy sự thống trị chính trị, phải tự mình trở thành dân tộc. Nhưng sức mạnh đấu tranh ấy không bao giờ được tự giới hạn trong phạm vi dân tộc, mà phải đặt trong mối quan hệ quốc tế. Mặt khác, giai cấp vô sản mang bản chất quốc tế, đây là cơ sở khách quan của sự đoàn kết, liên minh giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các dân tộc bị áp bức, bóc lột nhằm tạo sức mạnh vô địch chiến thắng CNTB. Trong giai đoạn CNTB chuyển sang CNĐQ, khi mà hệ thống thuộc địa của chúng bao trùm khắp thế giới thì vấn đề dân tộc càng trở thành một vấn đề cực kỳ quan trọng trong cuộc cách mạng vô sản. Trong điều kiện mới, V.I.Lênin chỉ rõ: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Khẩu hiệu đó là lời hiệu triệu của tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân tất cả các nước, động viên hàng triệu quần chúng bị áp bức bóc lột trên thế giới đấu tranh chống sự xâm lược, nô dịch của CNĐQ. 10 V.I.Lênin đã chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách mạng vô sản. Người còn khẳng định động lực của cách mạng vô sản trong thời kỳ mới là sự liên minh giữa giai cấp vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người đánh giá cao yếu tố dân tộc và vai trò của nó trong sự thắng lợi của cách mạng vô sản. Đồng thời vẫn khẳng định vấn đề dân tộc chỉ có thể giải quyết thắng lợi nếu đem gắn với cuộc cách mạng vô sản. Nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sức mạnh to lớn của dân tộc. Đó là truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa văn hoá của dân tộc Việt Nam; những thành tựu cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tiềm lực mọi mặt của dân tộc. Đó là sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của con người, của chế độ XHCN. Đồng thời, Người cũng khẳng định sức mạnh đó sẽ được nhân lên nhiều lần khi biết đoàn kết với các nước láng giềng, đoàn kết quốc tế, để tạo thành sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù. Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin và tiếp xúc với bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Người đã nhận thấy: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [52, tr.314]. Nếu như Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế Cộng sản chủ trương: Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa và nửa thuộc địa khi giai cấp vô sản giành thắng lợi ở các nước tiên tiến, thì Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng: “Ngày mà hàng trăm triệu người dân châu Á bị đoạ đầy và áp bức sẽ thức tỉnh và vứt bỏ sự bóc lột đê tiện của những tên thực dân tham lam vô độ, họ đã hình thành một lực lượng khổng lồ và có thể xoá bỏ một trong những điều kiện tồn tại của Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa đế quốc, giúp cho những người anh em họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” [63, tr.206]. Điều đó có 11 nghĩa là Nguyễn Ái Quốc đã đưa cách mạng giải phóng dân tộc phương Đông trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới và có vị trí xứng đáng của nó, chứ không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Bởi như Người đã khẳng định tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức các nước thuộc địa [46, tr.273]. Theo Nguyễn Ái Quốc muốn đánh bại các nước đế quốc,ảtước hết phải tước hết thuộc địa của chúng. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản và xác định mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai dòng thác cách mạng. Với Người, chủ nghĩa yêu nước gắn kết với chủ nghĩa quốc tế vô sản một cách đương nhiên. Đó là điều cốt lõi của tư duy và hoạt động cách mạng nói chung và đường lối cách mạng nói riêng. Quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra: khi CNĐQ đã cấu kết với nhau trên thế giới để áp bức bóc lột giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, muốn giải phóng dân tộc, thì các lực lượng cách mạng và quần chúng bị áp bức đoàn kết lại. Người khẳng định: “vì hoà bình thế giới, vì tự do, những người bị bóc lột mọi chủng tộc đoàn kết lại và chống áp bức”. Để tăng cường đoàn kết của các dân tộc bị áp bức ở châu Á, từ kinh nghiệm thành lập tổ chức “Hội liên hiệp thuộc địa” ở Pháp trước đây, Nguyễn Ái Quốc tiến hành thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông”. Ngày 9-7-1925, tại Quảng Châu - Trung Quốc, “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông” được thành lập. Tôn chỉ của hội ghi rõ: “Liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc”. Tuyên ngôn của Hội nhấn mạnh: con đường thoát duy nhất để xoá bỏ áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới, áp dụng những phương pháp cách mạng để lật đổ về căn bản CNĐQ cực kỳ hung ác. Đến đây cho thấy việc đoàn kết các dân tộc thuộc địa thành một mặt trận là tư tưởng nhất quán của Nguyễn Ái Quốc. 12 Với vị trí của bán đảo Đông Dương, CNĐQ luôn coi đây là một địa bàn chiến lược, thống nhất về chính trị, quân sự và đặt trong một chiến lược chung. Chính vì vậy, khi hoạch định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Trong những năm từ 1921 đến 1926, các bài viết về Đông Dương của Người đã vạch trần tội ác kẻ thù và chỉ rõ: “Nguyên nhân đầu tiên gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập ... Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau” [47, tr.263]. Từ năm 1926 đến 1928, Người mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ chính trị ở Quảng Châu và Uđon (Xiêm), nhiều cán bộ đã được Người phái về Việt Nam, Lào, Campuchia hoạt động xây dựng cơ sở nhờ đó chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, Lào, Campuchia. Cùng với sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc hết sức giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia. Tháng 6-1928 tại Xiêm, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, các chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phì chít, Uđon và Noọng Khai được củng cố vững chắc. Mùa thu năm 1928, Người rời Xiêm sang Pắcxế, lên Xavanakhét, đến Thà khẹt trực tiếp tìm hiểu tình hình đấu tranh cách mạng ở Lào. Những hoạt động ấy đã góp phần phát triển cách mạng ở Lào. Từ một chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Viêng Chăn đã hình thành 6 chi bộ cộng sản: Viêng Chăn, Pắcxế, Xavanakhét, Thà khẹt, Phông tiu và Bôneng, lúc đầu gồm các đảng viên là Việt kiều sau đó kết nạp đảng viên là người Lào. Các chi bộ trên là cơ sở để thành lập đảng bộ ĐCSĐD ở Lào (9-1934). Ở Campuchia, chi bộ cộng sản đầu tiên được xây dựng ở Trường Trung học Xixôvát. Trong khi đề cao tinh thần ủng hộ, tương trợ lẫn nhau trong đấu tranh, Hồ Chí Minh luôn coi trọng quyền dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập và chủ động của cách mạng mỗi nước. Tại HNTƯ 8 (5-1941), Người khẳng 13 định: sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, ta phải thi hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết” cho dân tộc Đông Dương. Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố chủ quan và khách quan, Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết liên minh phải dựa vào sức mình là chính. Người khẳng định: Trước mắt phải làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và yêu cầu không nói chung cho cả Đông Dương mà phải nêu vấn đề của từng nước, cách mạng là của nhân dân từng nước, nhân dân mỗi nước phải tự làm lấy, phải hỗ trợ lẫn nhau, phải thành lập mặt trận dân tộc mỗi nước, trên cơ sở đó thành lập Mặt trận Đông Dương. Tại Hội nghị chiến tranh du kích, Người nói: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ chờ dân tộc khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập” [50, tr.522]. Theo Người: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp mình đã” [48, tr.293]. Là lãnh tụ thiên tài nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh hiểu rõ, các nước Đông Dương đều là những quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc dù lớn hay bé đều có lòng tự tôn dân tộc một cách chính đáng và dễ bị mặc cảm. Hơn nữa, bọn thực dân xâm lược bao giờ cũng dùng quốc sách “chia để trị”. Chúng dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ nhân dân ba nước, và chia rẽ các dân tộc. Cho nên hòn đá tảng trong quan hệ dân tộc trong tư tưởng và hành động của Người là đoàn kết giúp đỡ, tôn trọng lẫn nhau để đánh kẻ thù xâm lược. Tại hội nghị cán bộ Mặt trận Liên minh nhân dân Việt Nam - Lào Campuchia, Hồ Chí Minh nói: “Việt Nam đoàn kết chặt chẽ, Lào đoàn kết chặt chẽ, Campuchia đoàn kết chặt chẽ, cả ba nước đoàn kết chặt thì nhất định sẽ đánh bại bọn thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giành độc lập tự do thực sự. Đoàn kết ở đây, là đoàn kết trong lòng, đoàn kết trong hành động, đoàn kết trong đấu tranh, chứ không đoàn kết miệng” [62, tr.53-54]. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Việt Nam có kháng chiến thành công thì Lào, Miên mới thắng lợi, và Lào, Miên có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi” [44, tr.85]. 14 Để đảm bảo thống nhất bền vững trong liên minh Việt Nam - Lào Campuchia, Hồ Chí Minh sớm xây dựng những quan điểm, nguyên tắc liên minh đúng đắn sáng tạo. Người khẳng định tình đoàn kết trong sáng giữa ba dân tộc Việt - Lào - Campuchia là trên tinh thần quốc tế vô sản: “Việt Nam, Lào, Campuchia như anh em một nhà, cả ba dân tộc đoàn kết chặt chẽ thì nhất định sẽ đánh bại thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam hết lòng giúp đỡ nhân dân Lào, nhân dân Miên một cách vô điều kiện. Sự thật thì chưa tìm ra chữ gì để thay thế chữ “giúp”, chứ thực ra không phải là giúp, mà là làm nghĩa vụ quốc tế” [44, tr.118]. Theo Hồ Chí Minh, khi giúp bạn phải nắm vững nguyên tắc dân tộc tự quyết, việc gì cũng phải được bạn đồng ý rồi mới làm. Người giải thích, “giúp bạn là tự giúp mình”, điều cốt lõi giúp bạn để bạn trưởng thành, tự làm lấy mọi việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản lĩnh và trí tuệ uyên bác, luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn, đúng đắn lợi ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế trong quan hệ ba nước Đông Dương. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học và sâu sắc tính tất yếu khách quan của tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, Người chỉ rõ: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v. mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của chúng ta mới chắc chắn hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn” [51, tr.452]. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn, nhắc nhở quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Campuchia nội dung thực chất của việc giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia “là một nhiệm vụ quốc tế”. Đó là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Tư tưởng này xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của quân tình nguyện là cội nguồn sức mạnh của liên minh chiến đấu giữa ba Đảng, quân đội, nhân dân ba nước. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Việt Nam phải kiên trì bồi dưỡng giúp 15 bạn nâng cao khả năng tự lực, với mục tiêu cơ bản là giúp bạn để bạn tự vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao sức mạnh của khối đoàn kết ba nước Đông Dương, mà còn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của khối đoàn kết. Người cũng luôn giáo dục cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Việt Nam rằng đoàn kết phải thật thà, phải được thể hiện bằng những hành động cách mạng cụ thể, thiết thực, đoàn kết phải gắn liền với việc giúp đỡ lẫn nhau một cách có hiệu quả. Người cũng thường xuyên nhắc nhở rằng, càng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hết lòng thì càng phải tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng, tác phong bao biện làm thay, thiếu kiên trì giúp bạn. Với hai nước bạn, phải ra sức giúp bạn vươn lên làm chủ, tránh tự ti, đồng thời tránh ỷ lại. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia là đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau nhưng luôn luôn đề cao tính độc lập, chủ động của mỗi nước, coi đó là nguyên tắc đảm bảo sự bền vững của của liên minh. Đoàn kết quốc tế nói chung, đoàn kết ba nước Đông Dương nói riêng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin trong điều kiện mới của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, đoàn kết ba nước Đông Dương có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, là nguyên tắc cơ bản, quan trọng cho Đảng, Nhà nước ta xác định đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn. Đồng thời là phương hướng lớn của cách mạng Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn * Đoàn kết giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia là truyền thống của ba dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia là ba nước nằm trên bán đảo Đông Dương, là những quốc gia độc lập có chủ quyền nhưng có quan hệ mật thiết 16 với nhau một cách tự nhiên. Mối quan hệ đó là do những điều kiện khách quan về địa lý, lịch sử, văn hoá của các quốc gia quy định, nó trở thành nhu cầu tất yếu của ba nước trên bán đảo Đông Dương. Mỗi quốc gia trên bán đảo Đông Dương đều có những điểm khác nhau, song có điểm chung nhất đều là những quốc gia nằm kề bên nhau trong vùng khí hậu nhiệt đới, ở vị trí chiến lược quan trọng của vùng Đông Nam Á, cùng chung dãy Trường Sơn và dòng sông Mê Công trải dài nối liền ba nước. Do quá trình hình thành lịch sử một cách tự nhiên của bán đảo Đông Dương nên đã tạo cho ba dân tộc có những nét tương đồng về kinh tế, văn hoá, xã hội. Về kinh tế đều là những quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cả ba dân tộc đều chịu dưới sự thống trị của các triều đại phong kiến kéo dài hàng thế kỷ, nếu như đạo phật ở Campuchia trở thành quốc giáo thì đạo phật ở Việt Nam và Lào cũng trở thành phổ biến. Trong lịch sử, mỗi dân tộc đều phải liên tục đương đầu với giặc ngoại xâm. Chính từ những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hoá của ba nước Đông Dương đã buộc ba nước phải đoàn kết, liên minh lại và nó đã trở thành một quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân ba nước Đông Dương. Có thể nói, riêng yếu tố về địa lý là điều kiện rất thuận lợi cho mối quan hệ giữa Việt Nam với Lào và Campuchia. Nhưng một vấn đề đặt ra phải chăng bất cứ ở nơi nào “núi liền núi, sông liền sông” và chỉ có nó là yếu tố duy nhất tạo nên sự gần gũi giữa các quốc gia dân tộc. Thực ra đây chỉ là một trong những yếu tố góp phần hình thành mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương nhưng không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Sau khi thực dân Pháp chiếm toàn cõi Đông Dương, chúng sáp nhập ba nước thành Liên bang Đông Dương và chia Đông Dương thành năm kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ (Việt Nam) và hai xứ Ai Lao và Cao Miên. Rõ ràng âm mưu của thực dân Pháp là “chia để trị” đối với ba nước trên bán đảo Đông Dương và trong sự phân chia ấy đã cho ta thấy Pháp coi Việt Nam là địa bàn trọng yếu. 17 Cùng một cảnh ngộ, cùng chung một kẻ thù, nên ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia đã thường liên hệ với nhau trong cuộc đấu tranh chung chống thực dân Pháp. Sự liên hệ đó đã mở đầu cho truyền thống đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trong suốt hơn một thế kỷ qua. Có một điều thực tế là từ khi thực dân Pháp đặt ách cai trị trên toàn cõi Đông Dương, đặt ba dân tộc Đông Dương trong sự thống nhất về chính trị, kinh tế thì chính nó lại là điều kiện làm cho nhân dân ba nước ngày càng tăng cường đoàn kết chiến đấu bên nhau. Tuy nhiên, sự giúp đỡ, liên minh chiến đấu của ba nước lúc đó chỉ mang tính chất tự phát, không có một chiến lược và sách lược cụ thể nào. Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (năm 1917), Hồ Chí Minh là người cộng sản đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Đông Dương, đã đưa đến sự ra đời của ĐCSVN vào đầu năm 1930. Đây là sự kiện lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng với phong trào cách mạng ba nước Đông Dương bởi ngay trong cương lĩnh đầu tiên Đảng đã chỉ rõ: giai cấp vô sản và tất cả quần chúng bị áp bức trong ba xứ đó muốn đánh đổ bọn chủ nghĩa đế quốc, lấy lại độc lập, đánh đổ vua quan địa chủ để giải phóng cho mình, thì không thể nào đấu tranh riêng lẻ được. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đặt cách mạng ba nước trong một chỉnh thể thống nhất, gắn bó với nhau vì mục tiêu chung là chống ách thống trị của thực dân Pháp. Từ đó, cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương bước vào một quá trình mới có tổ chức hơn. Từ tháng 10-1930, ĐCSĐD lãnh đạo đã mở ra bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác, đoàn kết giữa các lực lượng yêu nước và cách mạng ba nước Đông Dương. Sự hợp tác đó có cương lĩnh, mục tiêu chiến lược và sách lược chung rõ ràng. Ngay từ đầu, ĐCSĐD đã xác định tính thống nhất gắn bó của cách mạng ba nước Đông Dương và nghĩa vụ quốc tế của cách mạng Việt Nam đối với cách mạng Lào và Campuchia. Thực tế, mỗi bước trưởng thành 18 của cách mạng Lào và Campuchia đều không tách rời cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của ĐCSĐD, cách mạng ba nước Đông Dương đã phát triển mạnh mẽ và giành được những thắng lợi to lớn trong năm 1945. Ngày 30-10-1945, Hiệp định liên minh quân sự giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Ítxala và Hiệp định thành lập liên quân Việt Lào đã được ký kết. Cuối năm 1945, đại diện Chính phủ Việt Nam và Ủy ban Cao Miên độc lập ra tuyên bố chung về “đoàn kết Việt - Miên - Lào chống Pháp”. Đây là cơ sở pháp lý đặt nền móng cho đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào Campuchia trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược. Trước sự phát triển và trưởng thành của lực lượng cách mạng ba nước, Đại hội II ĐCSĐD họp vào tháng 2-1951, đã quyết định thành lập Đảng riêng của mỗi nước. Tuy vậy, Đại hội tiếp tục khẳng định mối quan hệ giữa ba Đảng, ba nước vẫn là yêu cầu khách quan và phải dựa vào nhau để đánh đuổi kẻ thù chung. Nhằm đáp ứng yêu cầu kháng chiến để phối hợp chặt chẽ hơn trên chiến trường Đông Dương, Ngày 11-3-1951, tại Hội nghị nhân dân Đông Dương chống Pháp, Mặt trận đoàn kết liên minh Việt - Miên - Lào chính thức thành lập. Và đó là một trong yếu tố góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954. Ngay sau khi thực dân Pháp thất bại, Mỹ lập tức nhảy vào Đông Dương để xâm lược ba nước trong một chiến lược chung, nhằm thực hiện kế hoạch toàn cầu phản cách mạng mà Mỹ đã hoạch định. Đế quốc Mỹ xem Việt Nam là một địa bàn trọng điểm cần đánh chiếm, chúng ra sức phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, từng bước xâm lược miền Nam, với âm mưu biến MNVN thành thuộc địa kiểu mới. Ở Lào, chúng xây dựng, sử dụng lực lượng phản động Lào, đánh phá cách mạng, ngăn cản việc thành lập chính phủ liên hiệp với mưu đồ nắm Chính phủ Vương quốc Lào, ngăn cản phong trào cách mạng Đông Dương. Ở Campuchia, một mặt chúng ve vãn, lôi kéo Chính phủ Vương quốc, mặt khác ra sức uy hiếp, phá 19 hoại nền trung lập tích cực của chính quyền Xihanúc, hòng lôi kéo Campuchia vào quỹ đạo của chúng, để cô lập cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Trước âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, phát huy truyền thống đoàn kết có từ lâu đời trong lịch sử và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đều có chung nguyện vọng cùng nhau đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung để giữ nền độc lập, hoà bình cho đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đoàn kết, liên minh giữa ba nước Đông Dương giai đoạn này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để từng bước đánh bại chiến lược chiến tranh một phía, “chiến tranh đặc biệt” ở Việt Nam, ở Lào và sự can thiệp vào Campuchia của đế quốc Mỹ. * Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975 của ba nước đòi hỏi phải tiếp tục đoàn kết, liên minh chiến đấu Sau khi thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở MNVN, Đế quốc Mỹ đẩy mạnh và mở rộng xâm lược ba nước Đông Dương. Mỹ trực tiếp đưa quân viễn chinh xâm lược Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh ở Lào, mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Những thủ đoạn và biện pháp của Mỹ là triệt để lợi dụng những khác biệt về dân tộc, tôn giáo và những vấn đề do lịch sử để lại giữa các nước để chia rẽ, mua chuộc, cô lập từng nước; dùng lãnh thổ nước này làm bàn đạp và uy hiếp, xâm lược nước kia. Tuỳ vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà Mỹ triển khai thời điểm xâm lược cho thích hợp. Đế quốc Mỹ đã không từ bỏ một thủ đoạn nào, từ dùng không quân ném bom, bắn phá dã man vùng giải phóng Lào đến tiến hành đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc Campuchia của Xihanúc, đưa 10 vạn quân Mỹ, nguỵ Sài Gòn xâm lược Campuchia nhằm thực hiện âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến MNVN, cắt đứt đường tiếp tế và cơ quan hậu cần của ta, Đồng thời lôi kéo Campuchia vào quỹ đạo của Mỹ, biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. 20 Trước những âm mưu và hành động leo thang mới của Mỹ, đặt ra yêu cầu khách quan ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia phải cùng nhau đoàn kết để chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Vượt qua mọi âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù, nhân dân ba nước cùng dựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó thuỷ chung với nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Đảng, Chính phủ và Mặt trận mỗi nước đều có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp với nhau về chính trị, quân sự, ngoại giao. Như vậy, do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ của cách mạng ba nước Đông Dương giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 việc đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia là yêu cầu khách quan, phù hợp với quy mô, tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ đòi hỏi. Đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào và Campuchia sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp để ba nước chiến thắng đế quốc Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của mỗi nước và của ba nước. 1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương từ năm 1965 đến năm 1975 1.2.1. Đảng lãnh đạo đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, tranh thủ sự giúp đỡ của Campuchia từ năm 1965 đến năm 1968 * Chủ trương của Đảng về đoàn kết, liên minh Việt Nam với Lào, tranh thủ sự giúp đỡ của Campuchia Sau khi lên làm tổng thống, Giônxơn tiếp tục thực hiện đường lối leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam. Việt Nam đã trở thành nơi thí điểm cái gọi là “sức mạnh vô địch Hoa Kỳ” để răn đe phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Trên chiến trường chính miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” phát triển đến mức cao đã bị đánh bại. Quân nguỵ ở MNVN đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, chương trình gom dân lập “ấp chiến lược” của Mỹ - nguỵ bị đẩy lùi một bước nghiêm trọng. Sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam 21 ngày càng tăng. So sánh lực lượng giữa ta và địch đang ở thế bất lợi cho chúng. Trong bối cảnh đó, chính quyền Giônxơn buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, với biện pháp là: Đưa một lực lượng lớn quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu vào trực tiếp xâm lược MNVN; thực hiện chiến lược “tìm diệt và bình định” để “bẻ gãy xương sống của Việt cộng”, tiêu diệt lực lượng vũ trang giải phóng, tiến tới đánh bại phong trào cách mạng, kiểm soát toàn bộ miền Nam; mở rộng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc bằng không quân, hải quân, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam; tiếp tục hoạt động ngoại giao, thương lượng hoà bình, đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế. Đối với Lào, để phối hợp với chiến lược “chiến tranh cục bộ” tại MNVN, Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thực dân mới với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” lên đỉnh cao bằng lực lượng chiến lược chính là quân nguỵ Lào được sự chi viện trực tiếp về hoả lực của không quân Mỹ, nhằm: bình định vùng đồng bằng sông Mê Công; đánh phá ngăn chặn đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của ta; giành giật quyết liệt những địa bàn trọng yếu, kìm chân lực lượng Việt Nam, chia cắt vùng giải phóng Lào, làm suy yếu thế và lực của cách mạng Lào; từng bước thực hiện câu kết chiến lược với Thái Lan và Nam Việt Nam để chống phá cách mạng Lào và cách mạng Việt Nam. Đối với Campuchia, Mỹ thấy rõ tầm quan trọng về hậu phương chiến lược trực tiếp của Campuchia đối với chiến tranh cách mạng Việt Nam ở miền Nam, nhất là hành lang vận chuyển tiếp tế và các căn cứ “đất thánh” của ta trên đất Campuchia. Mỹ ráo riết dùng bọn tay sai Nam Việt Nam và Thái Lan, có hoả lực chi viện trực tiếp của không quân Mỹ, tăng cường đánh phá uy hiếp biên giới Campuchia, đẩy mạnh hoạt động lật đổ Chính phủ trung lập Xihanúc. Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” để xâm lược miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá 22 hoại miền Bắc Việt Nam. Đây là bước leo thang chiến tranh cực kỳ nguy hiểm của Mỹ và là thử thách to lớn đối với dân tộc ta. Trước bối cạnh đó, ĐCSVN nhận định: Đế quốc Mỹ cầm đầu phe đế quốc. Nếu trong bước leo thang chiến tranh này chúng bị thất bại thì đây là một thất bại rất lớn, mang những hậu quả hết sức tác hại cho Mỹ lẫn phe đế quốc. Chúng không chịu thất bại dễ dàng, trái lại rất ngoan cố. Trên cơ sở đường lối chung của cách mạng Việt Nam do Đại hội III đề ra, căn cứ vào tình hình cụ thể của ta và địch, HNTƯ 11 (3-1965), đặc biệt HNTƯ 12 (12-1965) của Đảng đã hạ quyết tâm chiến lược, xác định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay là: Nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc... đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, tập trung mũi nhọn chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền phải giữ vững và nêu cao quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng [22, tr.637]. Phương châm chiến lược chung của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”. Nhưng chúng ta cần tranh thủ đến cao độ sự đồng tình và ủng hộ của các nước XHCN, của các dân tộc Á, Phi, Mỹ Latinh và nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Đảng ta nhấn mạnh, lúc này “vấn đề mở rộng và tăng cường Mặt trận nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Mặt trận đó phải tập hợp được tất cả các lực lượng tiến bộ trên thế giới và lấy các nước trong phe XHCN làm chỗ dựa vững chắc” [22, tr.641]. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta đề cập chính thức trong một nghị quyết quan trọng của mình việc xác lập trên thực tế một “Mặt trận nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan