Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng tmcp đầu tư ...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng tmcp đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh gia lai

.PDF
92
177
148

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau trong xã hội. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động huy động vốn, NHTMCP Đầu tư và Phát triển đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Do vậy trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với hệ thống NHTMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV). BIDV Gia Lai là đơn vị thành viên trực thuộc BIDV đã và đang chú trọng đến chỉ tiêu huy động. Trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có hơn 25 chi nhánh NHTM và hơn 107 phòng giao dịch đã khiến thị trường ngày càng bị thu hẹp điều kiện cạnh tranh đã trở nên gây gắt, thị phần có dấu hiệu giảm sút. Xuất phát từ những thực tế trên, kết hợp với quá trình thực tập tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai nên em đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai” làm đề tài khóa luận của mình. 2 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa lí thuyết về huy động vốn của Ngân hàng thương mại. - Phân tích thực trạng công tác huy động vốn qua hình thức nhận tiền gửi tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai để tìm ra nguyên nhân, hạn chế của những tồn tại từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường kết quả huy động vốn bằng hình thức tiền gửi tại Chi nhánh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Do hoạt động vốn tại một chi nhánh chịu những giới hạn nhất định và thực tiễn huy động vốn tại BIDV Gia Lai chủ yếu là các hình thức nhận tiền gửi nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong nội dung huy động tiền gửi. Tình hình huy động vốn tiền gửi tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai giai đoạn 2011- 2013. 4. Phương pháp nghiên cứu Bài khóa luận áp dụng phương pháp luận của duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm cơ sở kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh … kết hợp với sự tìm hiểu thông qua thực tế tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai. 5. Kết cấu của đề tài Khóa luận tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai. 3 Em xin chân thành cảm ơn cô giáo– Th.S Đặng Thị Thơi, cùng các bác, cô chú, anh chị công tác tại Ngân hàng NHTM Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Gia Lai đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này! Do chưa có kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các bác, cô chú, anh chị tại Ngân hàng để bài viết của em được hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn! Bình Định, ngày 1 tháng 5 năm 2014. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Hai 4 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về huy động vốn của NHTM 1.1.1. Khái niệm huy động vốn Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển thay đổi cùng với sự phát triển của các ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau. Như vậy, có thể tạm thời đưa ra khái niệm như sau ‘‘Huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác,… tạo nên một nguồn tài chính được ngân hàng sử dụng để kinh doanh sinh lời và trả lại một phần lợi nhuận này cho người gửi thông qua công cụ lãi suất’’ 1.1.2. Phân loại huy động vốn 1.1.2.1. Phân loại huy động vốn theo thời gian huy động Dựa vào thời gian của tiền gửi mà ngân hàng thường chia thành các loại tiền gửi như sau: a. Tiền gửi không kì hạn + Tiền gửi thanh toán + Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn b. Tiền gửi có kì hạn: (Trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kì). Các loại kì hạn thường như sau: 5 + Tiền gửi kì hạn 1 tháng + Tiền gửi kì hạn 3 tháng + Tiền gửi kì hạn 6 tháng + Tiền gửi kì hạn 9 tháng + Tiền gửi kì hạn 12 tháng + Tiền gửi kì hạn 24 tháng + Tiền gửi kì hạn 36 tháng + Kỳ phiếu 3, 6 ,9 tháng + Chứng chỉ tiền gửi + Trái phiếu 5, 10 năm Mục đích của việc phân loại tiền gửi theo kì hạn là phản ánh độ thanh khoản của từng loại tiền nhằm giúp ngân hàng quản lí tốt hơn và đáp ứng nhu cầu để cho vay hiệu quả hơn. Phân loại tiền gửi trên sẽ giúp ngân hàng tiếp cận tốt hơn đối với nhu cầu gửi tiền của khách hàng, thu hút nhiều người có tiền nhàn rỗi hơn đến ngân hàng gửi tiền. 1.1.2.2. Phân loại vốn huy động theo đối tượng huy động Việc phân loại tiền gửi theo đối tượng khách hàng nhằm giúp cho ngân hàng phục vụ khách hàng tốt hơn, phân đoạn thị trường, đánh giá được tỉ trọng các loại hình khách hàng trong cơ cấu tiền gửi của ngân hàng, qua đó sẽ đề ra được các chính sách đối với từng loại hình khách hàng. Tùy theo từng ngân hàng lại có cách phân loại khác nhau nhưng thường thì các ngân hàng phân loại theo tiền gửi theo đối tượng khách hàng như sau: + Tiền gửi TCKT + Tiền gửi TCTD + Tiền gửi cá nhân + Tiền gửi kho bạc + Tiền gửi của đối tượng khác 1.1.2.3. Phân loại vốn huy động theo loại tiền 6 NHTM huy động vốn bằng đồng nội tệ và ngoại tệ. Trong đó đồng nội tệ là chủ yếu (VNĐ), đồng ngoại tệ chủ yếu là đồng ngoại tệ mạnh như USD, EUR, SGD,… Hình thức huy động này có nhiều loại như không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi của cá nhân, TCKT, TCTD khác… 1.1.3. Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn 1.1.3.1. Đối với nền kinh tế Ngân hàng là một trung gian tài chính và thông qua hoạt động của mình, ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Bằng phương thức huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ hoặc tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư để đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả. Sự kết hợp các nghiệp vụ huy động vốn, sử dụng vốn với các dịch vụ trung gian, ngân hàng đã tập hợp và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế một cách hiệu quả, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Bởi sự ra đời của ngân hàng đã giảm thiểu chi phí một cách đáng kể, khi ta tưởng tượng không có NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung người cho vay sẽ phải tìm gặp người đi vay có nhu cầu vay vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải thẩm định dự án của người đi vay. Không những thế thông qua kỹ năng hoạt động của ngân hàng cũng đã hạn chế được các vấn đề của thị trường như thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình thành nên tỷ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỷ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của các ngân hàng; là cơ sở tham chiếu để cá nhân, tổ chức lựa chọn nên tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng. Sự phát triển của ngân hàng về quy mô, uy tín, công nghệ, mạng lưới 7 chi nhánh… được coi là tấm gương phản ánh sự phát triển kinh tế của một nước. Một nền kinh tế phát triển là ở đó ngành dịch vụ phát triển và một trong những lĩnh vực dịch vụ đi đầu đó là dịch vụ ngân hàng. Huy động vốn là một trong các hoạt động thu hút khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc, sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Điều này không những làm tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng mà còn góp phần hình thành nên thói quen, phong cách giao dịch, sử dụng các phương tiện giao dịch, thanh toán hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi thông qua các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. 1.1.3.2. Đối với NHTM Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Ngân hàng là một trung gian tài chính đi vay để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định đến quy mô và cơ cấu tín dụng của NHTM. Các ngân hàng không thể cho vay dài hạn với quy mô lớn trong khi vốn huy động nhỏ và thời hạn ngắn. Thông qua hoạt động huy động vốn cũng thể hiện uy tín, quy mô, sức cạnh tranh của NHTM trên thị trường. Bởi vốn huy động trên tổng nguồn vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn ngày càng gia tăng (đặc biệt là vốn dài hạn) khẳng định uy tín và sức cạnh tranh của mình. Khách hàng có tin tưởng mới gửi tiền vào ngân hàng và nguồn vốn gia tăng thể hiện ngân hàng đó có vị thế trên thị trường. Và điều này cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho ngân hàng trong các lĩnh vực khác như nghiệp vụ cho vay, phát triển các sản phẩm mới,… Huy động vốn giúp tăng cường mở rộng mối quan hệ giữa ngân hàng với ngân hàng và với các tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế. Sự liên kết, 8 điều hòa vay mượn các nguồn vốn lẫn nhau sẽ làm gia tăng vòng quay của đồng tiền, tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Các ngân hàng dư thừa vốn tạm thời sẽ có cơ hội cho các ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay để lấy lãi. Không những thế nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của mình các ngân hàng có thể liên kết, thỏa thuận với nhau mức lãi suất trần, sàn các phương thức huy động để tránh xảy ra các cuộc chạy đua về lãi suất, các cuộc cạnh tranh gây thiệt hại về kinh tế lẫn nhau. 1.1.3.3. Đối với khách hàng Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp vụ huy động giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Tóm lại, hoạt động huy động vốn là cơ sở, tiền đề nó tạo ra nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó tác động không chỉ cho vay, đầu tư và các nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn huy động của NHTM gia tăng thể hiện sự tích lũy tập trung vốn đạt hiệu quả cao tạo điều kiện để phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều này sẽ hạn chế việc phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư nhân. Lãi suất gia tăng sẽ thúc đẩy nguồn vốn huy động gia tăng nhưng sẽ hạn chế đầu tư dân cư. Như vậy có thể nói huy động vốn phù hợp với mục tiêu kinh doanh của ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thực sự là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các nhà ngân hàng mà còn đối với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế 9 của quốc gia. 1.2. Các nghiệp vụ huy động vốn của NHTM Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ này sẽ hình thành nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng. Ngoài lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu Ngân hàng thường huy động những nguồn vốn sau: 1.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và có vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:  Tiền gửi thanh toán Đây là khoản tiền của khách hàng gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Các nhu cầu chi trả hợp pháp của khách hàng đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của khách hàng đều có thể được nhập vào tài khoản tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Ngân hàng cung cấp nhiều tiện ích gắn với tiền gửi thanh toán như thu hộ, chi hộ, phát séc, chuyển tiền, phát hành thẻ,… Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không) thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng thu lợi từ phí thanh toán, hoặc rút tiền, phí mở thẻ,…Hơn nữa, ngân hàng còn sử dụng số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng cho nhu cầu dự trữ của mình và sử dụng một phần số dư tiền gửi thanh toán để cho vay (tạo nên doanh thu từ lãi). Để huy động được nhiều tiền gửi thanh toán, ngân hàng áp dụng nhiều biện pháp. Quan trọng nhất là khả năng thanh toán nhanh, chính xác, an toàn 10 và rẻ. Mạng lưới rộng cả trong nước và quốc tế, công nghệ hiện đại, kĩ năng của nhân viên là những đòi hỏi nhằm đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng. Đó cũng là chi phí lớn mà ngân hàng phải bỏ ra khi cung cấp dịch vụ thanh toán. Bên cạnh đó là khả năng cho vay, cung cấp ngoại tê bởi vì khách hàng (đặt biệt là doanh nghiệp) khi mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đều hướng tới nhu cầu vay mượn, thanh toán quốc tế. Với khách hàng cá nhân, dịch vụ thanh toán 24/24h, mọi lúc, mọi nơi, an toàn là yêu cầu hàng đầu. Ngân hàng bỏ ra chi phí đầu tư rất lớn để lắp đặt ATM, thuê địa điểm mở phòng giao dịch, phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có cả tài khoản tiền gửi thanh toán) đối với một số khách hàng. [1,Tr 38-39]  Tiền gửi có kỳ hạn Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Để mở rộng khoản vốn này, ngoài biện pháp lãi suất ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn hoặc xổ số trúng thưởng,... Song đối với các khoản tiền gửi khách hàng rút ra trước hạn, ngân hàng thường áp dụng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất của tiền gửi không 11 kỳ hạn. Khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhìn chung không được phát hành séc hoặc sử dụng dịch vụ ngân hàng từ tài khoản này. Ngân hàng được toàn quyền sử dụng lượng vốn này trong thời hạn khách hàng gửi tiền nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là rất cao. Tuy nhiên chi phí huy động của loại vốn này lại khá đắt vì lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. [1,Tr 39-40]  Tiền gửi tiết kiệm Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng cho tiêu dùng cá nhân (các khoản tiền tiết kiệm). Các cá nhân đều tìm các cơ hội để bảo toàn và gia tăng sinh lời trên tiền tiết kiệm của mình. Các hình thức đầu tư như gửi tiết kiệm, mua chứng khoán chính phủ hoặc công ty, mua vàng, bất động sản hoặc ngoại tệ mạnh. Một số người sử dụng cho vay trong các hội, cho vay người thân… với lãi suất cao hơn gửi vào ngân hàng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Ngân hàng mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và cho mỗi lần gửi khác nhau. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Sổ tiết kiệm này không được dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể cầm cố để vay vốn nếu được ngân hàng chấp nhận. Ngân hàng thực hiện nhiều biện pháp chăm sóc khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng có tiền gửi lớn (khuyến mại, tư vấn đầu tư, kết nối với tài khoản tiền gửi thanh toán,…). Ngân hàng nghiên cứu khả năng tiết kiệm của dân cư của từng vùng, từng thời kì, ảnh hưởng của lạm phát, biến động của tỉ giá, các kênh đầu tư 12 khác ảnh hưởng tới tiết kiệm như đầu tư vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán,… để đưa ra chính sách huy động tiết kiệm phù hợp. [1,Tr 40-41 Ở Việt Nam hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào, ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân hàng tháng nhân với lãi suất, lãi được nhập gốc hàng tháng. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn có thể được đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp. Nếu đến hạn người gửi không có nhu cầu sử dụng thì ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và tiếp tục được hưởng lãi kỳ tiếp theo. Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.  Tiền gửi của các ngân hàng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn tiền này không lớn. [1,Tr 42] Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm 65 70% tổng nguồn vốn và được huy động thường xuyên. Là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu,…Việc huy động tiền gửi chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, phương thức huy động, 13 các dịch vụ tiện ích của ngân hàng,… 1.2.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá Ngân hàng chủ động phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện các dự án đầu tư đã định. Thông thường đây là những khoản vay không có tài sản đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng từ có giá được thực hiện theo ba phương thức: phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt chứng từ); phát hành bằng hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng), phát hành có phụ trội. [1,Tr 41-42] 1.2.3. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác và từ NHNN Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần ngân hàng thường vay mượn để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế. Nguồn vay chủ yếu đáp ứng nhu cầu thanh khoản cấp bách, hoặc nhu cầu về nguồn vốn có tính ổn định cao với thời gian thường là trung và dài hạn.  Vay Ngân hàng Trung ương Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) ngân hàng thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá và cho vay cầm cố, thế chấp. Các thương phiếu đã được các Ngân hàng thương 14 mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm dự trữ của ngân hàng thương mại tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu các thương phiếu có chất lượng (thời hạn đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện không có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. [1,Tr 41-42]  Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí để thỏa thuận về quy mô, lãi suất, thời hạn vay. Khoản vay nay thường không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán có chất lượng cao. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Vay trên thị trường liên ngân hàng có thể qua đêm vài ngày cho đến vài tháng. Lãi suất vay phụ thuộc nhiều vào cửa sổ chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước và uy tín của ngân hàng đi vay. [1,Tr 42] 1.3. Tăng cường hoạt động huy động vốn của NHTM 15 1.3.1. Nội dung tăng cường hoạt động huy động vốn a. Khái niệm tăng cường hoạt động huy động vốn Tăng cường hoạt động huy động vốn là việc gia tăng quy mô huy động vốn trên cơ sở bảo đảm tính hợp lý về cơ cấu và kiểm soát chi phí vốn huy động phù hợp với mục tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân hàng. b. Mục tiêu của tăng cường huy động vốn + Tạo lập và giữ vững sự ổn định của nguồn vốn huy động, đảm bảo đủ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ. + Gia tăng nguồn vốn huy động một cách hợp lý để không ngừng mở rộng quy mô hoạt động. + Đảm bảo duy trì khả năng thanh khoản và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. 1.3.2. Tiêu chí đánh giá kết quả tăng cường hoạt động huy động vốn của NHTM a. Mức tăng trưởng về quy mô huy động vốn Vốn tiền gửi phải có sự tăng trưởng về số lượng để có thể thõa mãn các nhu cầu về khối lượng vốn tín dụng, thanh toán, cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng gia tăng của ngân hàng. Mức tăng trưởng về quy mô huy động vốn được đánh giá qua hai chỉ tiêu cụ thể: - Mức tăng tuyệt đối về số dư huy động vốn tiền gửi Tổng vốn Tổng vốn huy động huy động vốn năm vốn năm nay trước Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng trưởng nguồn vốn của ngân Mức tăng tuyệt đối về số dư = huy động vốn hàng. Nếu mức tăng này lớn hơn 0 chứng tỏ quy mô, khối lượng vốn tiền gửi của ngân hàng năm này mở rộng so với năm trước và ngược lại. - Tốc độ tăng số dư huy động vốn qua thời gian 16 Tốc độ tăng trưởng vốn = huy động Tổng VHĐ năm này − Tổng VHĐ năm trước Tổng VHĐ năm trước Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng trưởng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Nếu tỉ lệ này lớn hơn 100% chứng tỏ quy mô, khối lượng vốn của ngân hàng năm này mở rộng hơn so với năm trước. Việc mở rộng quy mô huy động vốn một cách liên tục cộng với tốc độ tăng trưởng vốn ngày càng cao sẽ chứng tỏ quy mô hoạt động của ngân hàng ngày càng lớn, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ được cải thiện và nâng cao. b. Mức tăng trưởng thị phần huy động vốn Thị phần huy động vốn được đánh giá qua so sánh số dư huy động vốn của NH với tổng số dư huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn (thường tính bằng %). Mức tăng trưởng phần thị huy động vốn Tổng vốn huy động ngân hàng A = Tổng vốn huy động trên địa bàn = c. Cơ cấu tiền gửi huy động Tỉ trọng từng vốn huy động tiền gửi = = Vốn tiền gửi loại i Tổng vốn tiền gửi Ý nghĩa: Cơ cấu vốn tiền gửi là tỉ trọng mỗi loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn tiền gửi. Chỉ tiêu này cho biết giữa các loại vốn tiền gửi trong tổng nguồn vốn tiền gửi, nguồn vốn tiền gửi loại nào nhiều nhất, nguồn vốn tiền gửi loại nào ít nhất. Từ đó, thấy sự phù hợp cân đối giữa các loại nguồn vốn tiền gửi trong tổng nguồn vốn tiền gửi hay chưa, ngân hàng định hướng đầu tư hoặc cho vay vào lĩnh vực nào với quy mô tương ứng bao nhiêu thì cũng sẽ 17 có kế hoạch xây dựng cơ cấu nguồn tiền gửi tương ứng. Ngoài ra, cơ cấu này còn chịu tác động bởi mục đích gửi tiền của khách hàng, tình hình kinh tế, khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng. Cơ cấu nguồn vốn tiền gửi cần đa dạng, cân đối trong đó cần đảm bảo một tỷ lệ hợp lí giữa vốn tiền gửi ngắn hạn so với trung và dài hạn, giữa nội và ngoại tệ. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của NHTM 1.4.1. Các nhân tố khách quan a. Các nhân tố từ phía khách hàng Các yếu tố thuộc về tâm lý, thói quen, phong tục của người dân tác động rất lớn đến kết quả huy động vốn của ngân hàng. Các tiêu trí về độ tuổi, giới tính, học vấn, thu nhập, môi trường làm việc liên quan đến việc lựa chọn sử dụng các hình thức dịch vụ ngân hàng. Nếu phân loại theo độ tuổi khách hàng gửi tiền tiết kiệm thì khách hàng từ độ tuổi từ 18 đến 28 thường chiếm tỷ trọng thấp. Thông thường các khách hàng trẻ tuổi có tâm lý thích khám phá mới lạ nên các dịch vụ có ứng dụng khoa học công nghệ như Internet, mạng di động thu hút khách hàng trẻ hơn. Khi có học vấn cao sẽ dễ dàng tiếp cận và sử dụng các kênh dịch vụ điện tử. Môi trường làm việc có đầy đủ điều kiện thực hiện các giao dịch là tiền đề để thúc đẩy khách hàng lựa chọn các giao dịch thích hợp với công việc tại công sở, văn phòng. Thời vụ chi tiêu, thu nhập cũng ảnh hưởng đến lượng tiền gửi tại ngân hàng. Vào cuối năm mọi người thường rút tiền để tiêu dùng hơn các thời điểm khác trong năm; thu nhập của người dân cao sẽ tạo điều kiện để các ngân hàng gia tăng lượng tiền gửi hơn là những khu vực dân cư có thu nhập thấp. Đối với các tổ chức kinh tế, thời vụ sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi tại các ngân hàng, do nhu cầu gửi tiền rút tiền biến động. Thông thường thời điểm cuối năm là thời gian các doanh nghiệp cần rút tiền nhiều để thanh toán, chi trả hàng hóa, dịch vụ, giải ngân cho các dự án đầu tư. Trong chiến lược khách hàng, các NHTM cần phát huy tối đa khả năng 18 tiếp cận khách hàng trên cơ sở thu thập những thông tin phản hồi để có những điều chỉnh kịp thời đối với sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ. b. Các nhân tố từ phía nền kinh tế  Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô Chính sách phát triển kinh tế xã hội cùng với các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHTM. Công cuộc CNH – HĐH của đất nước cần rất nhiều nguồn vốn đầu tư đã và đang tạo ra áp lực lên hoạt động huy động vốn của NHTM. Chính sách mở cửa của nhà nước với Luật đầu tư nước ngoài, các hiệp định thương mại giữa VN và các quốc gia trên thế giới thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho huy động vốn bằng ngoại tệ ở trong nước. Xu hướng toàn cầu hóa nền tài chính quốc tế cùng với sự gia tăng các ngân hàng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phi ngân hàng như Bưu điện, Bảo hiểm, Công ty Tài chính… tạo ra một sức ép cạnh tranh tới hoạt động kinh doanh đặc biệt là huy động vốn của các NHTM. Công cụ chính sách tiền tệ hiện nay NHNN quy định mức lãi suất cơ bản– mức lãi suất có tính chất dự báo, định hướng cung cầu về vốn để cho các NHTM làm cơ sở để xác định các mức lãi suất của mình. NHNN sử dụng hợp lý các công cụ khác của chính sách tiền tệ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái… nhằm điều tiết lượng tiền cung ứng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các tổ chức tín dụng. Chính sách kinh tế của Nhà nước nhằm ưu tiên hay hạn chế sự phát triển một ngành hay một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, trong đó tác động trực tiếp đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng từ nền kinh tế.  Môi trường pháp lý Hoạt động huy động vốn là một trong các hoạt động ngân hàng chịu 19 sự điều tiết khắt khe của các quy định pháp luật như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sẽ giới hạn quy mô vốn huy động mỗi NHTM trên cơ sở căn cứ vào vốn chủ sở hữu. Theo khuyến cáo của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng và cũng theo quy định hiện hành của NHNN Việt Nam, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu và tài sản có– kể cả các cam kết ngoại bảng, đã được điều chỉnh theo rủi ro) nên bằng 8% để đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp của các luật như: Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Bộ Luật dân sự… bao gồm các quy định về tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức… tác động đến quy mô, cơ cấu nguồn vốn. Môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, tự chủ, lành mạnh, an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống NHTM huy động được tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước.  Môi trường kinh tế Huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng chịu tác động trực tiếp của một số chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, mức thu nhập của người dân, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát…Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập dân cư cao và ổn định thì nguồn tiền vào các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được dồi dào, cơ hội đầu tư cũng nhiều hơn. Nếu nền kinh tế đang suy thoái thì khả năng khai thác vốn bị hạn chế, đồng thời ngân hàng cũng khó khăn trong việc cấp tín dụng và đầu tư. Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tài chính phi ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến không chỉ hoạt động huy động vốn mà bao gồm tất cả hoạt động của NHTM. Nhìn chung cạnh 20 tranh càng gay gắt thì càng bất lợi cho các ngân hàng, ít nhất là ở việc gia tăng chi phí và sự thu hẹp giá cả đầu ra. Cạnh tranh tạo ra cơ hội và thách thức cho mỗi ngân hàng, có thể sẽ mở rộng được thị phần cả đầu ra và đầu vào của mình, ngược lại sẽ bị thu hẹp quy mô hoạt động và có thể dẫn tới phá sản. Sự phát triển của thị trường tài chính đặc biệt là Thị trường chứng khoán cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ là một kênh huy động vốn rất cạnh tranh đối với NHTM do những ưu điểm của việc đầu tư trực tiếp, khả năng mua đi bán lại tương đối dễ dàng các chứng khoán và nhiều tiện ích khác của Thị trường chứng khoán. Nhưng nhờ có Thị trường chứng khoán, ngân hàng thực hiện các đợt phát hành giấy nhận nợ một cách nhanh chóng, tiết kiệm và chuyên nghiệp hơn; kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng cũng trở nên có tính thanh khoản cao hơn. Do vậy, việc huy động vốn của NHTM bằng việc phát hành các giấy nhận nợ trở nên hiệu quả hơn. Ngoài ra, sự am hiểu về lĩnh vực chứng khoán cộng với những điều kiện sẵn có, NHTM có thể kinh doanh chứng khoán và cung cấp cho các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán hàng loạt các dịch vụ liên quan như: môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán…Đây là những dịch vụ đem lại lợi nhuận cho khách hàng đồng thời ngân hàng cũng thu được phí dịch vụ.  Văn hóa – xã hội Các yếu tố kinh tế, chính trị, pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động kinh doanh của NHTM song chúng ta không thể không kể đến các yếu tố văn hóa – xã hội. Thói quen, phong tục, tập quán, những dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng… là các nhân tố tác động hàng ngày đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Một ngân hàng nếu chỉ gặp khó khăn nhỏ trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào như đối
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất