Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá ...

Tài liệu Luận văn thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá việt nam sang thị trường eu mở rộng

.DOC
112
106
54

Mô tả:

4 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG EU 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ HÌNH THỨC LIÊN KẾT HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay. Xu thế này mang đến cho các quốc gia rất nhiều cơ hội phát triển song cũng đưa lại không ít khó khăn mà các quốc gia phải đối mặt và giải quyết. 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế quốc tế 1.1.1.1 Khái niệm Liên kết kinh tế quốc tế là quá trình hợp nhất các nền kinh tế của các quốc gia trong một hệ thống kinh tế thống nhất với các mối quan hệ kinh tế được sắp xếp trong một trật tự nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa các nước thành viên. Liên kết kinh tế quốc tế làm tăng cường quá trình phối hợp và điều chỉnh lợi ích và lợi thế của các thành viên, giảm thiểu những chênh lệch về trình độ phát triển và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về khối lượng và cường độ, cả về chiều rộng và chiều sâu. 1.1.1.2 Đặc trưng của liên kết kinh tế quốc tế Thứ nhất, liên kết kinh tế quốc tế hình thành và phát triển là do sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Quá trình này có nguồn gốc từ sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu trên cơ sở việc ứng dụng nhanh chóng và có hiệu quả những tiến bộ khoa học công nghệ. Thứ hai, liên kết kinh tế quốc tế là một hoạt động tự giác của các Chính phủ trên cơ sở nhận thức được những lợi ích do quá trình này mang lại. Liên kết kinh tế quốc tế tạo ra khuôn khổ lớn hơn về mặt kinh tế và pháp lý cho cuộc 5 cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể thuộc nền kinh tế của các nước thành viên và tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế quốc tế. Thứ ba, liên kết kinh tế quốc tế là một giải pháp hợp lý để xử lý mối quan hệ có tính chất đối nghịch nhau giữa các xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia, tạo điều kiện cho các quốc gia khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế phát triển trong khu vực, nâng cao hiệu quả của từng nền kinh tế và của cả liên kết kinh tế. Thứ tư, liên kết kinh tế quốc tế góp phần loại bỏ tính biệt lập của nền kinh tế và chủ nghĩa cục bộ của từng quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Đây là quá trình mở rộng giao lưu về mọi mặt giữa các cộng đồng người và làm cho các quốc gia trở nên gần gũi nhau hơn trong các mối quan hệ, giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ và góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. 1.1.2 Bản chất và tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.2.1 Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây, nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu: Một là đàm phán cắt giảm thuế quan; Hai là giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; Ba là giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Bốn là điều chỉnh 6 các chính sách thương mại khác; Năm là triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu. Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau:  Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ htuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới.  Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.  Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.  Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.  Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. 1.1.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan. Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác, tự do hóa thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu và được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. 7 Như vậy, mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu dài, cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo lợi ích phát triển tối ưu của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng không nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức đọ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại với những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. 1.1.3 Các tác động của liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.3.1 Những tác động tích cực Liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực đến các nước thành viên thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Một là khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các nước thành viên, hình thành cơ cấu kinh tế khu vực phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu. Hai là tạo nên sự ổn định trong quan hệ giữa các nước nhằm đạt đến các mục tiêu của quá trình liên kết. Ba là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của toàn thể cộng đồng. Bốn là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của toàn thể cộng đồng. 8 Năm là tạo động lực cạnh tranh, kích thích việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới ở các quốc gia và doanh nghiệp. Sáu là điều chỉnh chính sách phát triển của các quốc gia để tương thích và phù hợp với chính sách phát triển của toàn thể liên kết. Bảy là tiết kiệm được các loại chi phí quản lý, chi phí hải quan cửa khẩu và các loại chi phí giao dịch khác. 1.1.3.2 Những tác động tiêu cực Các tác động chủ yếu của liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế tới từng quốc gia thành viên và đối với nền kinh tế thế giới chủ yêu thể hiện ở những điểm sau: Một là tạo ra sự cạnh tranh giữa các nước thành viên khi hình thành một thị trường thống nhất, gây xáo trộn các quan hệ kinh tế đã được hình thành trong từng nền kinh tế của từng nước, làm phá sản doanh nghiệp và có thể ảnh hưởng đến công ăn việc làm của dân cư trong các nước thành viên. Hai là gây ra tình trạng chia cắt thị trường thế giới, hình thành các nhóm lợi ích cục bộ và làm chậm tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. 1.1.4 Các loại hình liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế Liên kết hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét theo các góc độ khác nhau. Tương ứng với mỗi góc độ xem xét có những hình thức liên kết nhất định. Thứ nhất, theo góc độ chủ thể có liên kết nhỏ và liên kết lớn. Liên kết nhỏ là loại hình liên kết giữa các công ty hoặc giữa các doanh nghiệp. Hình thức này được thực hiện ở từng khâu của quá trình sản xuất bao gồm nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm chế tạo sản phẩm mới, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất các sản phẩm và chi tiết sản phẩm, liên kết trong tiêu thụ, quảng cáo, vận tải và thực hiện các dịch vụ sau bán hàng. Liên kết lớn là liên kết giữa các chính phủ giữa các nước thành viên thông qua việc ký kết các Hiệp định quốc tế. Hình thức liên kết lớn gồm có liên kết giữa các quốc gia và liên kết siêu quốc gia. Liên kết giữa các quốc gia là loại hình liên kết trong đó cơ quan lãnh đạo liên kết là đại biểu 9 của các quốc gia thành viên tham gia với các quyền hạn chế. Các quyết định của liên kết chỉ có tính chất tham khảo đối với các nước thành viên còn quyết định cuối cùng do từng chính phủ quyết định. Liên kết siêu quốc gia là liên kết trong đó cơ quan lãnh đạo là đại diện của các quốc gia có những quyền rộng lớn. Thứ hai, căn cứ vào các cấp độ của liên kết có khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, đồng minh kinh tế và liên minh tiền tệ. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area): Đây là một hình thức liên kết trong đó các nước thành viên thỏa thuận hạ thấp hoạc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hàng hóa và dịch vụ được di chuyển tự do giữa các nước. Mức thuế quan nhập khẩu thường được hạ thấp xuống còn 0 – 5%. Tuy nhiên, các nước thành viên vẫn duy trì chính sách thương mại quốc tế độc lập với các nước không phải là thành viên. Đồng minh thuế quan (Custom Union): Đây là một liên minh trong đó những nội dung về các thỏa thuận được đưa ra trong Khu vực mậu dịch tự do tức là các rào cản thương mại giữa các nước thành viên được loại bỏ. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi bật trong loại hình này là các nước thành viên cùng thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên. Hình thức liên kết này cao hơn so với khu vực mậu dịch tự do. Thị trường chung (Common Market): Thị trường chung là một hình thức liên kết cao hơn so với các hình thức liên kết trên đây. Nó có những nội dung giống với khu vực mậu dịch tự do là loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời, nó có đặc điểm tương tự với hình thức đồng minh thuế quan. Tuy nhiên, nội dung liên kết của nó rộng hơn so với các hình thức trên thể hiện ở việc các hàng hóa sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển tự do giữa các thành viên. thị trường chung Châu Âu (EEC) trước đây là một ví dụ cho hình thức liên kết này. Liên minh tiền tệ (Monetary Union): Liên minh tiền tệ là một hình thức liên kết trong đó các nước thành viên cùng phối hợp và thống nhất các chính 10 sách tiền tệ, giao dịch tiền tệ quốc tế, dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể. Đồng thời các quốc gia thống nhất chính sách tỷ giá hối đoái, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái được điều tiết trong một giới hạn nhất định để ổn định các quan hệ tiền tệ trong liên kết. Đây là hình thức liên kết cao hơn so với các hình thức liên kết trên đây. Liên minh tiền tệ Châu Âu là một ví dụ điển hình của loại hình liên kết này. Liên minh kinh tế (Economic Union): Liên minh kinh tế là một hình thức phát triển cao trong liên kết kinh tế khu vực. Đặc trưng của hình thức liên kết này là các thành viên có thể là hai hoặc nhiều hơn thành lập thị trường chung, nghĩa là các hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển một cách tự do. Các nước có biểu thuế quan chung với các nước không phải là thành viên. 1.2 Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của EU 1.2.1 Sự ra đời của Cộng đồng châu Âu Cộng đồng than thép châu Âu, tổ chức tiền thân của EU: Ngày 18/2/1951, Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) được 5 nước Đức, Bỉ, Hà-Lan, Lúc-xem-bua, và I-ta-lia cùng Pháp ký tại Paris, và ngày 23/7/1952, Cộng đồng Than Thép Châu Âu chính thức ra đời. Sự ra đời tiếp theo của EEC và Euratom: Hội nghị liên chính phủ tại Venise ngày 29/5/1956 chấp thuận tiến hành đàm phán để đi đến thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom). Ngày 25/3/1957, Hiệp ước thành lập hai Cộng đồng nói trên được ký kết, và ngày 1/1/1958 hai Cộng đồng này chính thức ra đời. 1.2.2 Sự hình thành liên minh tiền tệ châu Âu Trong lĩnh vực tiền tệ, cuối năm 1958, Hiệp định về Tiền tệ Châu Âu đã bắt đầu có hiệu lực. Đến đầu năm 1972, cùng với kinh tế, giai đoạn đầu của một liên minh tiền tệ đã được chuẩn bị những điều kiện cần thiết. Tháng 5/1998, Hội đồng đặc biệt của Liên minh Châu Âu đã đưa ra quyết nghị rằng 11 nước thuộc EU đã thoả mãn các điều kiện phát hành một đồng tiền chung. Trải qua bao năm 11 thăng trầm nhưng đúng theo kế hoạch, từ 1/1/1999, 11 trong số 15 thành viên EU là Áo, Bỉ, Luc-xem-bua, Phần-lan, Pháp, Ai-len, Đức, I-ta-lia, Hà-Lan, Bồ-đàonha và Tây-ba-nha đã thông qua đồng tiền chính thức được lưu hành trên toàn lãnh thổ 12 nước được gọi là khu vực EURO, đánh dấu một thắng lợi vĩ đại về những nỗ lực của Liên minh tiền tệ Châu Âu. 1.2.3 Thể chế của liên minh Châu Âu Nghị viện Châu Âu: Nghị viện Châu Âu là cơ quan lập pháp của EU, gồm 626 nghị sĩ của các nước thành viên và được chia thành 18 ủy ban. Nghị viện châu Âu có chức năng thông qua nhân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hội đồng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viện cũng có quyền bãi miễn ủy viên Uỷ ban châu Âu. Hội đồng liên minh châu Âu: Hội đồng Liên minh châu Âu có trách nhiệm cơ bản là thực hiện quyền lập pháp cùng với Nghị viện châu Âu; Phối hợp để ban hành chính sách kinh tế lớncủa các nước thành viên; Thay mặt Liên minh ký kết các hiệp định quốc tế song hoặc đa biên hay với các tổ chức quốc tế; cùng tham gia quản lý ngân sách với Nghị viện; Ra những quyết định cần thiết để thực hiện chính sách đối ngoại và an ninh. Uỷ ban châu Âu: Uỷ ban châu Âu là lực lượng chỉ huy của Liên minh. Uỷ ban có quyền dự thảo pháp luật trình Nghị viện và Hội đồng Liên minh châu Âu. Là cơ quan hành pháp, Uỷ ban có trách nhiệm thực thi pháp luật, thực hiện các chương trình ngân sách đã được Nghị viện và Hội đồng thông qua; Theo dõi việc thực thi các Hiệp ước và cùng Tòa tư pháp đảm bảo luật pháp Cộng đồng được thực thi nghiêm chỉnh; Thay mặt Liên minh trên trường quốc tế và đàm phán các thỏa thuận quốc tế, chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế. Trên đây là “bộ ba” lập pháp và hành pháp quan trọng và chủ yếu của Liên minh Châu Âu. Ngoài ra, còn có hai cơ quan khá quan trọng đó là Toà án và Viện Kiểm Kế Châu Âu. Tòa án châu Âu: đặt trụ sở tại Luxemborg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sư do các chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm. Tòa án có vai trò độc lập, có quyền bác 12 bỏ những quy định của các tổ chức của Uỷ ban châu Âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU. Tòa kiểm toán châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khỏan thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính của mình. Ngoài các thể chế trên, EU còn có hệ thống các ủy ban khu vực hay ủy ban kinh tế xã hội đại diện cho quan điểm và quyền lợi của các tổ chức xã hội. Các ủy ban này sẽ tham vấn về những vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế xã hội. Các ủy ban này cũng có thể đưa ra quan điểm riêng của mình về những vấn đề mà ủy ban cho là quan trọng. 1.2.4 Mục đích mở rộng của EU Kể từ khi thành lập, EU liên tục được củng cố và mở rộng. Cho tới nay, xét về mặt thời gian, Liên minh châu Âu đã 5 lần mở rộng thông qua việc kết nạp các nước thành viên mới. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, và ngay cả các nhà lãnh đạo EU cũng thừa nhận là mục đích đầu tiên, trước mắt và bao trùm lên chiến lược mở rộng lần này là mục tiêu chính trị. Việc mở rộng lần này là một cơ hội lịch sử nhằm thống nhất Châu Âu sau nhiều thế hệ chia rẽ và đối đầu, nó còn có ý nghĩa hàn gắn một Châu Âu bị chia rẽ và tạo ra một khối đoàn kết hơn của các công dân Châu Âu. Sau sự kiện 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, một Châu Âu mạnh và đoàn kết là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết để củng cố an ninh khu vực, và khi đó sẽ tăng cường được uy tín chính trị của EU trên trường quốc tế, để có thể làm đối trọng với Hoa Kỳ trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Về mục đích kinh tế, trong những năm đầu khi mở rộng, các nhà lãnh đạo EU không tham vọng nhiều trong việc cải thiện tình trạng kinh tế trì trệ của họ, vì các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải cách thể chế của Liên minh vốn đang rất quan liêu và cồng kềnh, cho phù hợp với một Liên minh gồm 25 13 đến 28 thành viên. Hơn nữa các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải cách cơ cấu kinh tế của các thành viên mới cho đồng nhất với cơ cấu kinh tế của các thành viên cũ, đồng thời để nâng mức sống của cộng đồng dân cư khu vực các thành viên mới chỉ bằng 24% mức GDP đầu người trung bình ở các thành viên cũ. Tuy nhiên, khi lượng người tiêu dùng tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ kích thích kinh tế phát triển. Việc Châu Âu liên minh lại với nhau sẽ đưa đến một châu lục mạnh hơn và ổn định hơn, bổ sung cho nhau về nhiều lĩnh vực như thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động, đầu tư,.v.v., như vậy có thể giúp Châu Âu tận dụng được những lợi thế trong một thị trường nội địa thống nhất. Một thị trường lớn như vậy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư và tạo thêm nhiều việc làm cho công dân trong khối, tăng cường sự thịnh vượng cho cả thành viên cũ và mới. Khi vai trò vị trí của EU trong nền kinh tế thế giới được tăng cường và cải thiện hơn thì sẽ có tác động rất lớn đến tiếng nói chính trị, an ninh, thương mại và các lĩnh vực quản lý toàn cầu khác của EU trên trường quốc tế. Hộp 1: Niên biểu của EU 9-5-1950: trong diễn văn lấy cảm hứng từ Jean Monnet, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman đề xuất rằng Pháp, Đức và bất kỳ quốc gia châu Âu nào muốn tham gia hãy cùng liên kết quản lý chung về than và thép (“Tuyên bố Schuman”). 18-4-1951: Sáu ưnớc (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lucxămbua, Hà Lan) Ký Hhiệp ươc Paris về thành lập Cộng đồng than và thép Châu Âu (ECSC). 25-3-1957: Các hiệp ước thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) được 6 nước ký kết (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lúcxămbua, Hà Lan) tại Rome, và hiện nay vẫn được nhắc tới với tên gọi Các hiệp ước Rome. 1-7-1967: Hiệp ước sáp nhập để gắn kết các cộng đồng châu Âu lại (ECSC, EEC, EURATOM) bắt đầu có hiệu lực. Kể từ đó, các cộng đồng châu Âu sẽ có duy nhất một Uỷ ban và một Hội đồng. 13-3-1979: Hội đồng châu Âu họp tại Paris đã cho ra đời Hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) 7-10-1979: Bầu cử Quốc hội châu Âu lần đầu tiên theo chế độ phổ thông đầu phiếu trực tiếp. 17-2-1986: Đạo luật về một châu Âu đơn nhất sửa đổi Hiệp ước Rome được ký kết. 1-7-1990: Giai đoạn đầu tiên của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu (EMU) được thực hiện. Bốn nước thành viên (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Ailen) được dành cho quy chế ngoại lệ. 14 16-12-1991: “Các thoả ước châu Âu” được ký kết với Ba Lan, Hunggari và Tiệp Khắc. Một Hiệp ước dự thảo được ký kết tại Maastricht sau khi kết thúc Hội nghị liên chính phủ về Liên minh kinh tế và tiền tệ. 7-2-1992: Hiệp ước về Liên minh Châu Âu được Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính các nước ký kết tại Maastricht. 22-6-1993: Hội đồng Châu Âu họp tại Copenhagen cam kết rằng các nước Trung và Đông Âu sẽ trở thành thành viên chính thức ngay khi họ thoả mãn được các điều kiện tiền đề về kinh tế và chính trị. 1-1-1994: Giai đoạn II của Liên minh kinh tế và tiền tệ bắt đầu và Viện Tiền tệ châu Âu (EMI) được thành lập. 17-6-1997: Hội đồng châu Âu họp tại Amsterdam và đưa ra dự thảo Hiệp ước mới. 30-3-1998: Một cuộc gặp cấp bộ trưởng đã khởi động cho quá trình gia nhập của 10 nước Trung và Đông Âu, Síp và Manta. 3-5-1998: một Hội đồng đặc biệt quyết định rằng 11 nước thành viên đã đáp ứng được yêu cầu về sử dụng đồng tiền chung kể từ ngày 1-1-1999. Chủ tịch của Ngân hàng Trung ương châu Âu được bổ nhiệm. 1-1-1999: Đồng Euro chính thức ra đời tại các quốc gia: Áo, Bỉ, Phần Lan, Đức, Ailen, Italia, Lucxămbua, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. 7-8-12-2000: Một Hiệp ước mới được ký kết tại Nice, ngay sau khi kết thúc Hội nghị liên chính phủ (IGC). 15-12-2001: Tuyên bố Laeken khởi động cho quá trình cải cách Hiến pháp. 28-2-2002: Các đồng nội tệ quốc gia hết giá trị pháp lý tại EMU. Hội nghị về cải cách thể chế được bắt đầu tại Brussels (Brucxen). 9-10-2002: Uỷ ban tuyên bố rằng 8 nước Trung và Đông Âu (Ba Lan, Cộng hoà Séc, Hunggari, Xlôvakia, Xlôvenia, Extônia, Lýtva, Látvia) cộng với Síp và Manta sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn Copenhagen vào năm 2002. 25-10-2002: Một Hội đồng châu Âu đặc biệt được triệu tập tại Brussels đã thông qua đề xuất của Uỷ ban châu Âu. 28-10-2002: Một khuôn khổ đầu tiên của Hiến pháp Châu Âu được Chủ tịch Hội nghị Châu Âu Valery Giscar d’Estaing đưa ra. 12-13-12-2002: Hội đồng châu Âu họp tại Copenhagen chính thức kết thúc các cuộc đàm phán xin gia nhập đối với 8 nước Trung và Đông Âu +Manta và Síp; một khoản tài chính trọn gón được nhất trí dành cho mỗi nước trong các năm 2004 – 2005 – 2006. 1-2-2003: Hiệp ước Nice bắt đầu có hiệu lực. 16-4-2003: Các hiệp ước kết nạp thành viên mới được ký kết tại Athens. 20-6-2003: Bản dự thảo Hiến pháp được đệ trình ra cuộc họp tại Saloniki của người đứng đầu nhà nước và chính phủ các nước thành viên. 5-2004: Mười quốc gia thành viên mới gia nhập EU. 1.3. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU 15 1.3.1 Về phía EU Theo đánh giá một cách khách quan và đầy đủ về tiềm năng và vai trò của Việt Nam đối với EU thì Việt Nam trước hết có vị trí địa lý, chính trị thuận lợi cho giao lưu quốc tế. Với vị trí trung tâm của Đông Nam Á, Việt Nam được như “ngã sáu mặt tiền của bán đảo Đông Dương, là cửa ngõ nhìn ra Thái Bình Dương của bán đảo này. Trong con mắt của châu Âu, Việt Nam là một thị trường đầy hấp dẫn với tiềm năng to lớn về kinh tế, tài nguyên và con người. Ngoài ra, Việt Nam còn là nguồn cung cấp nguyên liệu khá dồi dào cho các nhà đầu tư từ châu Âu, mặc dù tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam tính trên đầu người không phải giàu. Những đánh giá cao của các nước châu Âu về Việt Nam được khẳng định trong lời nói của Chủ Tịch Uỷ ban châu Âu, ông Jacques Delors, khi Thủ tướng võ Văn Kiệt tới thăm các nước EU tháng 6/1995: “Liên minh châu Âu không thể có mặt ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Việt Nam là nước phải được ưu tiên. Cộng đồng sẽ dành cho Việt Nam tình cảm xứng đáng, sự giúp đỡ và hợp tác cần thiết”. Qua đó, có thể nói việc thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và thương mại nói riêng của Việt Nam với EU là hết sức cần thiết và quan trọng, nó giúp cho EU khai thác những lợi thế của Việt Nam ngày càng thuận lợi, tăng cường vị thế của Việt Nam trên thị trường này. 1.3.2 Về phía Việt Nam Việc tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các quốc gia châu Âu có ý nghĩa to lớn, tác động tích cực đến việc triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần ổn định để xây dựng đất nước, tạo một thị trường tiềm năng to lớn hơn cho nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Vì vậy việc thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác thương mại với EU là phù hợp với xu thế chung đó. Trong khu vực châu Âu, EU là một trung tâm kinh tế mạnh, có vai trò 16 lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. EU cũng là đơn vị giao dịch thống nhất lớn nhất thế giới, chiếm tới 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa toàn cầu. Vai trò quan trọng của EU trong mậu dịch toàn cầu sẽ còn lớn hơn với kế hoạch mở rộng và phát triển trong 5-10 năm tới, trong đó có việc đón nhận các thành viên mới ở Đông Âu. EU với tư cách là một Liên minh kinh tế và tiền tệ lớn, một trong ba trung tâm kinh tế của thế giới, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam trong thập kỷ 90 thế kỷ 20. Những tác động tích cực của EU đối với kinh tế Việt Nam sẽ góp phần củng cố và hoàn thiện hơn mối quan hệ thương mại Việt Nam- EU nói riêng và cũng như ASEAN- EU nói chung trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Bên cạnh đó, trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh tương đối thì cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước châu Âu hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà thị trường châu Âu có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại. Quan hệ thương mại Việt Nam- EU được phát triển, mở rộng, Việt Nam có điều kiện đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa với nước ngoài, góp phần cân bằng cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu, hạn chế và phân tán rủi ro thương mại, tránh bị phụ thuộc vào một thị trường. Đồng thời, thị trường Việt Nam sẽ trở nên phong phú hơn, đa dạng và nhộn nhịp hơn các hàng hóa nhập khẩu từ châu Âu, người tiêu dùng có nhiều cơ hội chọn lựa các mặt hàng nhập khẩu từ châu Âu. Ngoài ra, Việt Nam cũng có điều kiện tham gia vào phân công lao động quốc tế qua các chương trình hợp tác liên doanh, tạo điều kiện đầu tư, phát triển chiều sâu theo hướng chuyên môn hóa sản xuất quốc tế. Cụ thể, thị trường Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn và do đó thu hút được nhiều hơn các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức cùng với những công nghệ mới, hiện đại, kỹ năng quản lý đi kèm theo, không những từ các nhà đầu tư châu Âu mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác trên thế giới và trong khu vực. Với sự gia tăng về bổ sung tài chính như vậy, Việt Nam sẽ có 17 điều kiện để tăng cường sản lượng công nghiệp của các ngành công nghiệp, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình mở rộng dung lượng thị trường trong và ngoài nước, khai thông một số thị trường mà trước đay Việt Nam còn bỏ trống, tạo lợi thế cho hàng Việt Nam thâm nhập ổn định vò các thị trường này. Không những thế, Việt Nam sẽ có cơ hội để trả nợ cũ, cân đối ngân sách, tăng nguồn thu ngoại tệ, mua mới các trang thiết bị, máy móc hiện đại cải tiến các điều kiện sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phần tiêu dùng thường xuyên và đáp ứng các nhu cầu phát sinh. Như vậy, sự tăng cường các hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt Nam và EU cho phép các yếu tố sản xuất đang được sử dụng ở trong nước được phân bổ lại một cách hiệu quả hơn; đồng thời tối đa hóa giá trị sử dụng, khai thác, tăng mức độ mở rộng quy mô chuyên môn hóa sản xuất, tận dụng đợc quy luật hiệu quả tăng dần theo quy mô sản xuất, đem lại lợi ích cao về mặt kinh tế. Thêm vào đó, Việt Nam có cơ hội thuận lợi để đối chiếu, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về quản lý, kỹ thuật sản xuất.., đào tạo được một nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, đáp ứng nhu cầu kỹ thuật công nghệ trong thời gian mới, đồng thời cung cấp công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, góp phần phát triển xã hội. 1.4 THỊ TRƯỜNG EU 1.4.1 Đặc điểm của thị trường EU EU là một thị trường rộng lớn với khoảng 490 triệu dân của 25 nước thành viên, mỗi nước thành viên lại có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do đo, có thể thấy rằng, thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hóa. Có những loại hàng rất dược ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italia hay Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch hoặc Đức thích dùng. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán, thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường của từng quốc gia trong khối EU, nhưng 15 nước thành viên cũ đều là những quốc gia nằm ở khu vực Tây Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về 18 kinh tế và văn hóa. Ngày nay, những tập quán, tâm lý xã hội, văn hoá đặc thù của dân tộc không phải là rào cản quá khó khăn để vượt qua. Hơn nữa, do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá mạnh mẽ nên trong kinh doanh có những yếu tố văn hoá ngày càng gần với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Mặt khác, thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá và vốn giữa các nước thành viên. Do đó, thị trường EU có tính đa dạng trong sự thống nhất. 1.4.1.1 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối Tập quán và thị hiếu tiêu dùng Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên khá đồng đều và có những điểm tương đồng về địa lý, văn hoá, cho nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Đối với hàng may mặc và giầy dép: Người dân Áo, Đức và Hà Lan chỉ mua hàng may mặc và giầy dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (Azo - dyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với nhóm hàng giầy dép: Người tiêu dùng EU đang có xu hướng đi giày vải. Đối với hai mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mốt. Đối với thuỷ hải sản: Một điểm đáng lưu ý là EU đang có xu hướng giảm tiêu dùng súc sản, gia cầm và tăng tiêu dùng thủy hải sản. Tuy nhiên, người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải sản nhập khẩu bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Với sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế biến, người Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ hải sản nhập khẩu có chứa khuẩn salmonella, độc tố lustamine, nhiễm V.Parahaemoliticus, nhiễm V.cholesae. Người Châu Âu ngày càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ 19 giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh. Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an toàn về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Nhiều trường hợp, những sản phẩm này giá rất đắt nhưng họ vẫn mua và không thích thay đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn nhiều. Đặc biệt đối với những sản phẩm của nhà sản xuất không có danh tiếng thì rất khó tiêu thụ vì họ cho rằng mua những sản phẩm như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng, do đó không an toàn đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ. EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới cũng như Mỹ, nhưng khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế mạnh, trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích của người tiêu dùng Châu Âu rất cao sang. Họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều, yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung, còn đối với thực phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng ở thị trường này là chất lượng hàng hoá chứ không phải là giá cả đối với đại đa số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy có 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau: Một là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; Hai là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sử dụng chủng loại hàng có chất lượng kém hơn một chút so với nhóm 1 và giá cả cũng rẻ hơn; Ba là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả hàng cao cấp lẫn hàng bình dân phục vụ cho mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam là nhóm hai và ba. Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung 20 Quốc và hàng của các nước ASEAN khác. Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như: không thích sử dụng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ hải sản hơn ăn thịt, yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những mặt hàng thời trang như giầy dép, quần áo. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sở thích và thói quen tiêu dùng của người Châu Âu đang có xu hướng chuyển từ những sản phẩm chất lượng cao, giá đắt, vòng đời sản phẩm dài sang những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn, giá rẻ hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn. Tuy vậy, chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố quyết định đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Kênh phân phối Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lới bán buôn và mạng lới bán lẻ. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở Tây Âu đã dẫn tới sự thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế, kéo theo sự biến đổi về cơ cấu ngành kinh tế, kéo theo là trào lưu “Nhất thể hoá” và “Tổ chức lại” các công ty xuyên quốc gia. “Nhất thể hoá” hay là sự sát nhập hợp nhất của các công ty xuyên quốc gia. Quá trình này đang diễn ra sôi động trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đến lu thông, và biểu hiện đậm nét ở các ngành: hàng không, sản xuất ôtô, tài chính ngân hàng - bảo hiểm. Trào lưu “Tổ chức lại” cũng không kém phần sôi động thông qua việc tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài, tập trung vào việc phát triển những sản phẩm công nghệ cao ở trong nước và hoạt động tiếp thị. Các công ty xuyên quốc gia EU thường phát triển theo mô hình gồm: ngân hàng hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, siêu thị, cửa hàng .v.v… Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của mình rất chặt chẽ, họ chú trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho mạng lới bán lẻ. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường 21 EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu cả một tập đoàn chỉ cung cấp cho các hệ thống cửa hàng siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn hay gọi là kênh phân phối tự do gồm các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đoàn này, ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập. Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là việc dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều bởi uy tín kinh doanh với khách hàng của họ được đặt lên hàng đầu. Muốn giữ được điều này thì hàng phải đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp ổn định. Vì vậy, các nhà xuất khẩu của ta muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trư ờng EU thì phải tiếp cận được với các nhà nhập khẩu EU. Thực hiện điều này có thể bằng cách xuất khẩu trực tiếp hoặc liên doanh với các công ty xuyên quốc gia EU để trở thành công ty con. 1.4.2 Chính sách ngoại thương của EU Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương EU là tất cả các thành viên của EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Chính sách ngoại thương của EU bao gồm: Chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên nguyên tắc: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. 1.4.2.1 Biểu thuế quan thống nhất (CCT – Common Custom Tariff) 22 EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) đối với các mặt hàng công nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của liên minh. Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các qui định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn sẵn sàng đàm phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Khi CCT đã được xây dựng ở các mức thì các thành viên phải có nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thống nhất. Điều này liên quan đến danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Muốn nắm được các đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải nghiên cứu biểu thế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy định như sau: - Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng hoá sản xuất từ sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng GSP. - Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60%. EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước cùng một tổ chức khu vực cũng được GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Đây là đặc điểm về xuất xứ của EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu ý và vận dụng. 1.4.2.2 Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các nước đang và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp cho hàng hóa của nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông qua một số ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước này phát 23 triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi có đi có lại, đơn phương quyết định. Chương trình này trong những năm gần đây được cụ thể hoá ở một số văn bản sau: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập sửa đổi bắt đầu áp dụng cho giai đoạn 1/1/2002 đến 31/12/2004 (đã gia hạn hết năm 2005). Hệ thống mới này đã kết hợp với sáng kiến “Mọi sản phẩm trừ vũ khí _ EBA” dành cho các nước kém phát triển nhất có hiệu lực từ 5/3/2001. Tuy nhiên, có 3 mặt hàng có lộ trình tự do hoá riêng tự do hoá hoàn toàn. Gạo sẽ giảm 20% vào ngày 1/9/2006, 50% vào 1/9/2007, 80% vào ngày 1/7/2006, 50% vào ngày 1/7/2007, 80% vào 1/7/2008 và tự do hoá hoàn toàn vào 1/7/2009. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập dành cho 143 nước độc lập và 36 nước và khu vực lãnh thổ thuộc địa. Hệ thống GSP mới đã đơn giản hoá việc phân loại sản phẩm hàng hoá từ 4 loại là không nhạy cảm, rất nhạy cảm, nhạy cảm và bán nhạy cảm thành 2 loại là không nhạy cảm và nhạy cảm. Nhóm 1- sản phẩm rất nhạy cảm bao gồm: phần lớn là nông sản và một số ít sản phẩm công nghệp tiêu dùng như chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp (lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ tằm… được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng mà EU hạn chế nhập khẩu. Nhóm 2 – sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hóa chất, nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền, đồ sứ), giày dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em được hưởng mức thuế GPS bằng 70% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng mà EU không khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 3 – sản phẩm bán nhạy cảm: bao gồm phần lớn thủy sản đông lạnh (tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh), một số nguyên liệu và hóa chất, hàng công nghiệp dân dụng (máy điều hòa, máy giặt, tủ lạnh)…được hưởng mức thuế GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 4 – sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan