Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ vn sang thị trường nhật bản trong điều k...

Tài liệu Luận văn thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ vn sang thị trường nhật bản trong điều kiện tham gia wto

.DOC
118
109
58

Mô tả:

MỞ ĐẦU I. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu Với dân số là 127,46 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ nhiều năm nay chỉ có dầu thô, dệt may, thuỷ sản… Vài năm gần đây, sản phẩm gỗ cũng được coi là một mặt hàng xuất khẩu chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao. Hơn thế, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư năm 2004 lên vị trí thứ hai năm 2006 chỉ sau Trung Quốc, hiện đang chiếm trên 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của người Nhật Bản, sản phẩm gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa. Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng gay gắt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là chúng ta còn chưa nói tới những khó 1 khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới. Nghiên cứu và tìm ra giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, cho nền kinh tế đất nước, cho đời sống nhân dân. Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020. Vì vậy tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO” với mục đích góp phần làm phát triển hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản nói riêng và đẩy mạnh hoạt động thương mại của Việt Nam nói chung để phát triển nền kinh tế đất nước. Trước đề tài này, đã có luận văn tốt nghiệp của sinh viên Hoàng Thị Phong lớp Kinh tế quốc tế 44 nghiên cứu về “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản”, đề tài đó mới chỉ dừng lại nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm đồ gốm, đồ gỗ, đồ sứ, mây tre đan. Hàng thủ công mỹ nghệ bằng gỗ chỉ là một trong các mặt hàng thuộc sản phẩm gỗ. Hơn thế, đề tài này nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu của đề tài là giúp Nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản nói riêng và xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam nói chung tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và phát triển kinh tế đất nước. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Một là, làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản; 2 Hai là, thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006; Ba là, làm rõ cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO; Bốn là, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006. IV. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, lôgíc và lịch sử, tổng kết thực tiễn. V. Kết cấu của đề tài: Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng hình, danh mục các từ viết tắt bài viết gồm có ba chương: - Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO. - Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006 – trong điều kiện tham gia WTO. - Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO từ năm 2007 đến năm 2020. 3 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN THAM GIA WTO 1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu 1.1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò của xuất khẩu 1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu Cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới. Thương mại quốc tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hoá hiện nay có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế một quốc gia, một khu vực và toàn cầu. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động của thương mại quốc tế. Đã có rất nhiều khái niệm về xuất khẩu được đưa ra, dưới đây, tôi xin đưa ra một số khái niệm xuất khẩu phổ biến nhất: Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước khác. Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá (cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) từ một quốc gia sang phần còn lại của thế giới. Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Một là, hình thức xuất khẩu trực tiếp: Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác. 4 Hai là, hình thức xuất khẩu qua trung gian: Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới. Ba là, hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu: Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại. Bốn là, hình thức gia công xuất khẩu: Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công). Các hình thức gia công xuất khẩu: (1) Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. (2) Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi, hợp đồng khoán. (3) Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên. Năm là, hình thức tái xuất khẩu: Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá trị của hàng hoá đó Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập. Sáu là, hình thức xuất khẩu tại chỗ: Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu) bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình. Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… 5 1.1.1.3. Vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất khẩu có những vai trò sau: Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất sản phẩm. Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. 1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 1.1.2.1. Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lý của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại, khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều. Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó, khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, 6 đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. 1.1.2.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất khẩu mặt hàng đó. 1.1.2.3. Tỷ giá hối đoái Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho hoạt động xuất khẩu. 1.1.2.4. Sức cạnh tranh hàng hoá Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này. Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn sang thị trường này. 7 1.1.2.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này. Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá đó. 1.1.2.6. Yếu tố khác Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố khác: Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó. Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu sang quốc gia khác. 8 Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro hơn. 1.2. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản và Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá tại Nhật Bản 1.2.1. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản Với dân số là 127,46 triệu người, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,2 tỷ USD, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, với sức mua lớn, nhu cầu phong phú đa dạng, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản đang ngày càng gia tăng và còn tiếp tục tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều thăng trầm. Trong những năm đầu bị chiếm đóng sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản chìm đắm trong lạm phát, thiếu thốn. Nhưng cùng với những cải cách về chính trị-xã hội, các chính sách ổn định và phát triển kinh tế năm 1949-50 đã đặt cơ sở cho sự trở lại thị trường thế giới của Nhật Bản. Tiếp đó, Nhật bước vào thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài cho đến những năm đầu 1970. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngày càng cao: giai đoạn 1955-1960 là 8,5%; giai đoạn 1960-1965 là 9,8%; và giai đoạn 1965-1971 đạt 11,2%. GNP năm 1970 đạt 199,8 tỷ USD tăng hơn 8,3 lần so với 23,9 tỷ USD của năm 1955. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần trong 20 năm (1950-70). Nhưng chính sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng tăng vào thị trường và nguồn nguyên nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay gắt. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973-74 là nhân tố chủ yếu kết thúc sự thần kỳ Nhật Bản. Nhưng đây chỉ là đòn quyết định đánh vào kinh tế Nhật, làm bộc lộ 9 những mâu thuẫn đã tích tụ sau kỷ nguyên tăng trưởng cao. Lạm phát đã bùng nổ ngay sau khi dầu mỏ tăng giá. Tình hình đã buộc Nhật phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế nhằm hạn chế tác động của các nhân tố tiêu cực, bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định và quốc tế hoá nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trong những năm 1974-85 chỉ còn trung bình 4,3%, chưa bằng một nửa của thời kỳ trước đó nhưng vẫn cao nhất trong các nước OECD. Thời kỳ này Nhật chú trọng phát triển các ngành công nghệ mới, ít tiêu hao nguyên liệu, năng lượng; thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ. Chính vì vậy đã chủ động đối phó được với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979-80): kinh tế không hỗn loạn, lạm phát được kiểm soát, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khoảng 3%. Do xuất khẩu vẫn giữ vai trò trung tâm của sự phát triển, đồng Yên yếu càng thúc đẩy xuất khẩu. Thêm nữa, đầu những năm 1980 kinh tế toàn cầu suy thoái, nhu cầu dầu mỏ giảm xuống buộc OPEC từ năm 1983 phải giảm giá dầu. Các yếu tố này làm cho thặng dư mậu dịch của Nhật ngày càng lớn và mâu thuẫn với các bạn hàng nhất là Mỹ và EU càng gay gắt. Hiệp định Plaza tháng 9/1985 đã nhất trí thoả thuận giảm giá đồng đôla và đồng yên đã lên giá gấp đôi, từ chỗ 260 Yên/1USD năm 1985 lên 130 Yên/1USD năm 1987. Đồng Yên lên giá có làm kinh tế Nhật suy thoái trong 2 năm 1985 và 1986 nhưng không làm giảm khả năng xuất khẩu của Nhật Bản mà lại dẫn tới cạnh tranh quốc tế gay gắt hơn theo hướng giành hiệu quả cao. Nhật chuyển các cơ sở sản xuất có giá trị gia tăng thấp ra nước ngoài bằng đầu tư trực tiếp (1982: 7,7 tỷ USD; 1988: 44 tỷ USD; 1990: 56,9 tỷ USD), tạo ra những địa bàn sản xuất với giá thành thấp. Ở trong nước đổi mới kỹ thuật hơn nữa để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Các biện pháp cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, thúc đẩy nhập khẩu và kiềm chế xuất khẩu quá mức, giảm thuế thu nhập, kích cầu trong nước, tăng đầu tư công trình công cộng.... cũng đồng thời được thực hiện. Thành công về tổng thể của những cố gắng này đã giúp kinh tế Nhật phục hồi từ cuối năm 1987 và duy trì được mức phát triển trung bình 5,3% cho đến năm 1990. "Kinh tế bong bóng" chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của Nhật Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát 10 triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó, mà chủ yếu tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn. Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía Chính phủ Nhật Bản vào những năm đó để đối phó với sự lên giá mạnh của đồng yên sau Hiệp ước Plaza 1985, đã duy trì kéo dài một chính sách lãi suất cho vay thấp, khiến cho các hoạt động đầu tư buôn bán bất động sản, trái phiếu... càng gia tăng mạnh, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế cực nhanh vào cuối những năm 1980, từ 2,5% năm 1986 tăng lên đến 4,6% năm 1987, 4,7% năm 1988, 4,9% năm 1989 và đỉnh cao là 5,5% năm 1990. Bước vào thập kỷ 1990, kinh tế Nhật Bản suy giảm triền miên. Đến 3/2002 tổng mức nợ xấu là 440 tỷ USD. Số vụ phá sản hàng năm ở mức cao làm cho nạn thất nghiệp cũng tăng theo (5,4% ở năm 2003 so với trước đây chỉ khoảng 3%). Sự suy thoái của kinh tế Nhật có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng; sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng; sự già hoá của dân số với mức chi quá lớn của hệ thống phúc lợi xã hội; sự yếu kém của bộ máy nhà nước.... Sau một thập niên bị suy thoái, năm 2003 kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng. Năm 2003, kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng 2,7%; năm 2004 tăng 1,45%; năm 2005 tăng 2,5% và năm 2006 tăng trưởng 2,1%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất của Nhật trong 14 năm gần đây. Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm từ 1990 đến 2006 (Đơn vị %) Tốc độ tăng trưởng GDP (% so năm trước) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 5,3 2,9 0,4 0,3 1,0 1,6 3,5 1,8 -1,1 0,7 2,4 -0,2 0,9 2,7 1,45 2,5 2,1 (Nguồn: www.ncnb.org.vn) Lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh, hàng hóa tiêu dùng trong nước cũng tăng. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,3% năm 2005 thấp hơn so với 4,6% năm 2004, và thấp hơn so với 5,5% đầu năm 2003. Kinh tế Nhật Bản đang ở trong giai đoạn hồi phục đầu tiên sau cuộc đại khủng hoảng tài chính và bất động 11 sản; sự tăng trưởng không còn phải nhờ vào tài trợ của Nhà nước như trong những năm trước đó nữa, mà trước hết xuất phát từ sự năng động mới giành lại được của khu vực kinh tế tư nhân. Điều đáng lưu ý là, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản chủ yếu do nhân tố nhu cầu trong nước thúc đẩy. Những nhân tố cản trở kinh tế Nhật Bản tăng trưởng năm 2005 cũng lần lượt được tháo gỡ, như khoản nợ khó đòi của các ngân hàng từ 8,4% năm 2002 xuống còn 2,9% năm 2005. Theo đánh giá của OECD, sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản ngày càng vững chắc do các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng vượt xa cả các khu vực phụ thuộc vào xuất khẩu, đầu tư tập thể bắt đầu tăng mạnh, giá bất động sản có chiều hướng giảm. Kinh tế Nhật Bản vẫn đang tiếp tục hồi phục nhanh nhờ sự tăng trưởng khả quan trong các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng và thu nhập. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cho biết: lĩnh vực xuất khẩu và sản xuất công nghiệp của Nhật Bản đang tiếp tục tăng với mức lợi nhuận cao cho phép nhiều công ty gia tăng vốn đầu tư. Thu nhập của người dân cũng đang tăng lên nhờ ảnh hưởng tích cực từ việc cải tiến chế độ tiền lương và các điều kiện lao động của Chính phủ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản sẽ điều chỉnh chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện giá cả và tăng trưởng kinh tế để đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển ổn định. Cùng với việc tạo dựng sức mạnh kinh tế, Nhật Bản đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, tự chủ, vươn lên thành cường quốc chính trị. 1.2.2. Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản Nhật Bản luôn đặt chính sách ngoại giao kinh tế của mình dựa vào chủ nghĩa đa phương (multilateralism) trong khuôn khổ hệ thống GATT-WTO. Tuy vậy, từ cuối những năm 1990, vì nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau và để tận dụng hết những lợi ích do mậu dịch tự do mang lại, Nhật Bản phải kết hợp chiến lược đó với chiến lược đẩy mạnh chủ nghĩa tự do kinh tế khu vực và song phương thông qua Hiệp định mậu dịch tự do song phương (Free Trade Agrements - FTAs) hay rộng hơn và các Hiệp định đối tác kinh tế (Economic Partnership Agreement EPAs). Một trong những hướng triển khai chiến lược mậu dịch này của Nhật Bản là khu vực châu Á. 12 Từ đầu những năm 80, Nhật Bản đã thi hành các biện pháp kinh tế đối ngoại theo hướng mở cửa bằng việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, chấm dứt và nới lỏng các biện pháp hạn chế số lượng, cải thiện các hệ thống cấp chứng nhận, cấp tín dụng nhập khẩu và các biện pháp khác. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn duy trì nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu đối với hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước này. Việc hạn chế này thể hiện trong cả các chính sách và biện pháp kinh tế công khai cũng như các nỗ lực nhằm tạo sự khác biệt về văn hoá kinh doanh và truyền thống. Các công cụ biện pháp điều tiết nhập khẩu: Một là thuế quan: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/8/1971, dựa trên hiệp ước của hội nghị liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) năm 1970. Nhật Bản sử dụng hệ thống phân loại HS với bốn mức thuế: Thuế suất chung; thuế suất tạm thời; thuế suất ưu đãi phổ cập (GSP); thuế suất WTO Hai là các công cụ phi thuế quan: Nhật Bản là một thị trường lớn và phức tạp với mức độ cạnh tranh rất gay gắt.Tuy nhiên thực tế cho thấy các doanh nghiệp thành công trong việc thâm nhập vào thị trường này đều là các công ty biết đánh giá và điều chỉnh chiến lược thâm nhập thị trường cũng như thấu hiểu sâu sắc về thị trường, về các vấn đề của hệ thống luật lệ của Nhật Bản và đồng thời là khả năng thích ứng với các quy định ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp của nó. Luật pháp Nhật Bản đòi hỏi phải có sự chấp nhận xuất nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập khẩu để đảm bảo an toàn và y tế cho người dân. Hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản được điều chỉnh và bị chi phối bởi một hệ thống các luật sau: - Luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương - Luật và quy định liên quan đến hàng cấm - Luật và quy định liên quan đến độc quyền chính phủ - Luật và quy định liên quan đến kiểm dịch - Luật và quy định liên quan đến ma tuý 13 - Luật về trách nhiệm sản phẩm Ngoài ra còn có các công cụ như: Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu, chế độ hạn ngạch nhập khẩu, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu… Giấy phép nhập khẩu Hầu hết các hàng hoá được tự do nhập khẩu và không phải chịu một yêu cầu nào về giấy phép nhập khẩu nhưng các mặt hàng sau gồm cả những mặt hàng liệt kê trong thông báo nhập khẩu kể trên cần có giấy phép nhập khẩu: + Hàng thuộc 66 mặt hàng liệt kê trong thông báo nhập khẩu thuộc diện có hạn ngạch nhập khẩu + Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực qui định trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu + Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt. Hàng hoá cần sự xác nhận sơ thẩm và phải đáp ứng được các qui định đặc biệt của Chính phủ như các loại vắcxin nghiên cứu. Khi nhập khẩu mặt hàng cần giấy phép nhập khẩu hay sự xác nhận của một số Bộ, các nhà nhập khẩu được toàn quyền ký hợp đồng với các nhà xuất khẩu, nhưng viêc ký và thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào sự cho phép hay xác nhận của các Bộ có liên quan. Đặc biệt trong trường hợp hàng cần hạn ngạch nhập khẩu, nên nhớ rằng việc nhập khẩu các mặt hàng đó chỉ có thể sau khi có hạn ngạch nhập khẩu dựa theo thông báo hạn ngạch nhập khẩu chính thức.Việc thanh toán hàng nhập khẩu cần giấy phép chỉ có thể thực hiện sau khi giấy phép nhập khẩu đã được cấp. Hầu hết các hàng hoá hiện này đủ tiêu chuần là " hàng có thể nhập khẩu tự do", và do đó không cần giấy phép nhập khẩu. Trường hợp duy nhất là các hàng hoá nằm trong hạn ngạch nhập khẩu. Trong những trường hợp này, nhà nhập khẩu Nhật cần phải xin được cấp giấy phép nhập khẩu. Gạo, lúa mỳ, bột gạo và da là một trong những ít sản phẩm vẫn có hạn ngạch nhập khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu: Hạn ngạch được áp dụng với 3 loại hàng sau: 14 Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu, chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý, và các thực phẩm chịu sự kiểm soát (như gạo). Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu, bao gồm 5 loại hải sản: cá trích, cá mòi, sò, và các loại hải sản khác. Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tiệt chủng trong hệ động thực vật. Các mặt hàng nhập khẩu cần hạn ngạch (tính từ 1 tháng 7 năm 1995). Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu chịu điều chỉnh của những luật và quy định trong nước: Trong trường hợp, hàng hạn chế nhập khẩu, nhà nhập khẩu phải có giấy phép và phê chuẩn liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá theo Luật Hải quan, để phục vụ việc kiểm tra hoặc đáp ứng những yêu cầu cần thiết khác. Vì vậy, khi hàng hoá nhập khẩu yêu cầu một giấy phép hoặc một giấy phê chuẩn theo luật và quy định khác ngoài Luật Hải quan, nhà nhập khẩu phải trình lên một giấy chứng nhận đã cho phép theo những đạo luật hay quy định này (theo điều 70 của Luật Hải quan). Hàng cấm nhập khẩu (a) Thuốc phiện và những chất gây nghiện khác, những thiết bị để sản xuất thuốc phiện, chất kích thích và chất kích thích thần kinh ( trừ những loại được chỉ định theo Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội) (b) Vũ khí, đạn dược và những phụ tùng vũ khí… (c) Tiền xu, tiền giấy, chứng khoán... giả, làm thay đổi hoặc bắt chước. (d) Sách, tranh,tác phẩm điêu khắc hoặc bất kỳ mặt hàng khác có hại đến an ninh công cộng và giá trị đạo đức ( như tranh ảnh khiêu dâm) (e) Những mặt hàng vi phạm quyền patent, thiết kế, thương hiệu bản quyền. Các quy định về tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu Hầu hết sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu của Nhật đều phải chịu kiểm tra hàng hoá và không thể tiêu thụ tại thị trường này nếu không được cấp những giấy chứng nhận sản phẩm đã tuân theo những tiêu chuẩn. Một số tiêu chuẩn là bắt buộc, một số là tự nguyện. Trong nhiều trường hợp, những giấy chứng nhận này có thể tính quyết định thành bại của các thương vụ. 15 Hiện nay, tại Nhật Bản, có hai xu hướng đối với các loại tiêu chuẩn. Một là dần nới lỏng những tiêu chuẩn này, một là thống nhất chúng với những tiêu chuẩn quốc tế. Trong khi các cơ quan chức năng đang cố gắng tiến hành những cải cách để vẫn tồn tại hàng loạt những đạo luật và quy định tác động đến những tiêu chuẩn bắt buộc. Vì vậy, những doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Nhật Bản cần tìm hiểu sâu những văn bản luật này. Sau đây là một số luật ảnh hưởng đến tiêu chuẩn hàng hoá trên thị trường Nhật Bản. Các luật chính quy định các tiêu chuẩn áp dụng đối với các sản phẩm tại Nhật Bản: - Luật về các dụng cụ điện và thiết bị kiểm tra - Luật về an toàn sản phẩm tiêu dùng - Luật về đo lường Luật về các sản phẩm khí ga - Luật về vệ sinh thực phẩm - Luật liên quan đến an toàn và tối ưu hoá quá trình vận chuyển chất lỏng - Luật về Dầu khí - Luật kinh doanh dược liệu - Luật giao thông đường bộ Hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện của Nhật Bản (JIS), áp dụng trên 1000 sản phẩm công nghiệp với trên 8500 tiêu chuẩn. Tham gia cùng với JIS là một số các quy định của các công ty Nhật Bản trong các đấu thầu cạnh tranh cung cấp hàng cho các cơ quan chính phủ. Các sản phẩm tuân theo các tiêu chuẩn này sẽ được hưởng ưu tiên trong quá trình xét thầu dựa theo điều 26 trong luật về tiêu chuẩn công nghiệp. JIS kiểm soát toàn bộ các sản phẩm công nghiệp ngoại trừ một số sản phẩm được quy định bởi những luật riêng, với những tiêu chuẩn riêng (Luật kinh doanh dược phẩm và tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản.) Hệ thống tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS) cũng là một hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện nhưng được áp dụng rộng rãi. JAS được áp dụng cho các đồ uống, các sản phẩm chế biến, lâm sản và các mặt hàng nông nghiệp, thú nuôi, dầu và chất béo, thuỷ hải sản, và các sản phẩm chế biến có nguồn gốc nông, lâm , thuỷ sản. Nhãn hiệu JAS cũng áp dụng cho cả các loại gỗ dán, gỗ ván, ván lát sàn, gỗ sẻ và 16 gỗ thịt. Hệ thống marks JAS do Bộ Nông nghiệp Nhật Bản, bộ Lâm nghiệp cùng bộ Thuỷ sản quản lý. Bộ Y tế, Bộ lao động xã hội quản lý các tiêu chuẩn riêng về nhãn mác chất lượng của các mặt hàng đồ uống và các sản phẩm chế biến. Bên cạnh vấn đề tiêu chuẩn, một điểm khác đáng chú ý khi bán hàng hoá tại Nhật đó là Luật về trách nhiệm sản phẩm. Luật này được thực thi vào tháng 7/1995 và buộc các nhà chế tạo có trách nhiệm bồi thường về pháp lý đối với thương tích, thiệt hại về thương tích, thiệt mạng hoặc thiệt hại về tài sản do bán các sản phẩm có sai sót dù những khiếm khuyết đó có thể hoặc không do lỗi chế tạo chủ ý hoặc vô ý. Mặc dù chỉ có rất ít vụ kiện được khởi tố theo luật này cho tới này, song số vụ kiện loại này dự báo sẽ tăng trong tương lai. Các nhà chế tạo cần lưu ý tới thực tế rằng Đạo luật tố tụng dân sự sửa đổi được thực thi vào đầu năm 1998 đă khiến việc các vụ kiện loại này có khả năng thực thi dễ dàng hơn. Chính sách hỗ trợ nhập khẩu Đáp lại những than phiền của các đối tác thương mại về việc hạn chế tiêu thụ sản phẩm nước ngoài tại Nhật, trong những năm gần đây, chính phủ nước này đã xúc tiến một loạt các chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Chủ yếu do các cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO, và bộ Kinh tế Nhật Bản, Bộ Công nghiệp chủ trì triển khai. Việc hỗ trợ bao gồm các khoản cho vay ưu đãi nhằm khuyến khích nhập khẩu, hỗ trợ trong việc tìm kiếm các đối tác thương mại tại Nhật, các hỗ trợ trong nghiên cứu thị trường, các chương trình đào tạo về xuất nhập khẩu cùng với việc đặt các văn phòng hỗ trợ tại 6 thành phố chính của Nhật Bản. Quy định về hàng quá cảnh Nhật tham gia Công ước quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu các mẫu hàng và tài liệu quảng cáo theo Hệ thống Carnet ATA. Việc sử dụng hệ thống Carnet cho phép hàng hoá được sử dụng là mẫu chào bán và trưng bày, thiết bị chuyên dùng, nhạc cụ và máy quay truyền hình được vận chuyển hoặc gửi tạm thời sang một nước ngoài mà không phải nộp thuế hoặc ghi nợ. Hệ thống Carnet cần phải được chuẩn bị trước bằng cách liên lạc với văn phòng đại diện của Hội đồng quốc tế Mỹ tại Nhật (http://www.uscib.org/) hoặc văn phòng chính tại New York theo số điện thoại: 212-354-4480. Các tài liệu quảng 17 cáo, bao gồm sách giới thiệu, phim ảnh có thể được đưa vào Nhật mà không phải nộp thuế. Các mặt hàng dùng để trưng bày mà không bán tại các hội chợ thương mại và trong những sự kiện tương tự cũng được phép đưa vào Nhật miễn thuế chỉ khi hội chợ/triển lãm được tổ chức tại một nơi triển lãm nhất định. Các mặt hàng đă được thông quan này cần phải được tái xuất sau hội chợ/triển lãm, hoặc được cất trữ tại một cơ sở của hải quan. Hoá đơn thương mại cấp cho các hàng hoá loại này cần phải được đánh dầu là " không có giá trị thương mại, dành riêng cho hải quan" và " những hàng hoá này để triễn lãm và cần phải gửi trả lại sau khi kết thúc triển lãm". Điều cũng không kém phần quan trọng là ghi rõ tên hội chợ thương mại hoặc địa điểm, bao gồm số gian triển lãm ( nếu biết rõ), trên các chứng từ vận chuyển. Các thủ tục xuất nhập khẩu đặc biệt và hệ thống chứng nhận. Các tài liệu cần thiết cho hoạt động thông quan tại Nhật bao gồm các chứng từ vận chuyển chuẩn mực như hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, vận đơn gốc đă ký, hoặc nếu chuyển chở bằng đường hàng không, thì là vận đơn hàng không. Các lô hàng chuyên chở bằng đường hàng không trị giá trên 100.000 yen cần phải có hoá đơn thương mại. Hoá đơn thương mại này cần phải mô tả chi tiết về mỗi hàng trong chuyến hàng. Phiếu đóng gói cần phải bao gồm nội dung chính xác của mỗi container, trọng lượng tổng và tịnh của mỗi kiện hàng, và tất cả kích thước của container được đo bằng hệ mét. Những quy định về dán nhãn Đóng gói, ký mã hiệu và dán nhãn hàng hoá đúng quy định có ý nghĩa quan trọng tới việc thông quan suôn sẻ tại Nhật. Các vật liệu đóng gói bằng rơm rạ bị nghiêm cấm. Như đă đề cập ở trên, Luật đo lường của Nhật quy định rằng toàn bộ các sản phẩm nhập khẩu và các chứng từ chuyên chở phải ghi rõ trọng lượng và đo bằng hệ thống mét. Hầu hết các sản phẩm không bị yêu cầu dán nhãn xuất xứ nước. Tuy nhiên, một số chủng loại sản phẩm như nước giải khát và thực phẩm cần phải có nhãn xuất xứ nước. Song nếu nhãn có ghi rõ xuất xứ bị xác nhận là sai hoặc có dấu hiệu gian dối, thì các nhãn này sẽ bị bóc đi hoặc sửa cho đúng. Các nhãn dán sai hoặc có dấu hiệu gian dối nêu rõ tên nước, khu vực thay vì nêu rõ nước xuất xứ, 18 và/hoặc tên nhà chế tạo hoặc nhà thiết kế ngoài nước xuất xứ không được chấp nhận. Các mặt hàng mà Luật pháp Nhật yêu cầu phải dán nhẫn gồm 4 loại sản phẩm: hàng dệt, máy móc và thiết bị điện, các sản phẩm nhựa và các mặt hàng gia dụng và tiêu dùng. Vì tất cả những quy định này áp dụng cụ thể với từng chủng loại sản phẩm riêng biệt, nên điều quan trọng cần phải phối hợp với một nhà nhập khẩu hoặc một đại lý có triển vọng để bảo đảm sản phẩm của bản đáp ứng yêu cầu đặt ra, nếu có thể áp dụng. Nhìn chung, hầu hết các luật định về dán nhãn không cần thiết ở giai đoạn thông qua, song cần thiết ở điểm bán. Kết quả là các nhà nhập khẩu đều có thói quen dán nhãn trước và sau khi thông quan. 1.2.3. Hệ thống phân phối hàng hoá tại Nhật Bản Nhật Bản là nước tiêu thụ hàng hóa lớn thứ 2 trên thế giới với các kênh phân phối hàng hóa đặc trưng. Theo kết quả điều tra của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản có nhiều cửa hàng bán lẻ với mật độ rất dày đặc nhưng quy mô nhỏ. Hàng hoá vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên khi đến được tay người tiêu dùng hàng hoá có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các khâu phân phối của Nhật từ sản xuất đến bán buôn, bán lẻ có những yêu cầu khác nhau. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý. Hệ thống phân phối sản phẩm của Nhật bao gồm các khâu, các mối quan hệ giữa các nhà sản xuất, các công ty thương mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu thị, các cửa hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn bán ở các khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ thống thông tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng). Các kênh phân phối hàng nhập khẩu thay đổi tuỳ theo từng loại sản phẩm, mạng lưới bán buôn và các công ty tham gia vào quá trình này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm được hệ thống phân phối này để tạo thuận lợi cho hàng hoá của mình đứng vững trên thị trường Nhật Bản. a) Cửa hàng bán lẻ và hệ thống phân phối Các cửa hàng bán lẻ nhỏ trong hệ thống phân phối hàng hoá thường nằm ở các vùng đông dân cư và kinh doanh nhiều loại mặt hàng như: thực phẩm, may mặc và các loại 19 hàng hoá tiêu dùng khác. Các cửa hàng này có đặc điểm tiện lợi và dịch vụ tốt. Trong hệ thống phân phối Nhật Bản còn có các cửa hàng bách hoá lớn và các siêu thị cũng làm nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh của các cửa hàng siêu thị lớn ở Nhật Bản không cao do thiếu tính linh hoạt, nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng giảm sút. Gần đây, các cửa hàng bách hoá tổng hợp đang chuyển sang cung cấp nhiều loại dịch vụ, hoạt động giải trí khác nhau, đồng thời, cung cấp nhiều loại hàng hoá cao cấp đắt tiền, kể cả hàng nhập khẩu. Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà. Doanh số của loại bán hàng này không lớn lắm, nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật, từ khi hàng được sản xuất ra đến khi giao đến các cửa hàng bán lẻ tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian, nhiều hơn so với các nước công nghiệp phát triển khác. Hiện nay, Nhật có khoảng hơn 430 ngàn cơ sở bán buôn, cứ trung bình khoảng 34 cơ sở bán buôn cho 10.000 dân cư. Nếu tính quan hệ từ nhà sản xuất đến người bán lẻ, thì trung bình có 2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và nhà sản xuất, cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ. Do đó, một hàng hoá ở Nhật thường phải trải qua nhiều tầng nấc trung gian và phải đi một quãng đường dài hơn. Trong hệ thống phân phối, các nhà buôn rất quan trọng vì họ có quan hệ mật thiết với các nhà bán lẻ. Đặc điểm rất độc đáo trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản là sự tồn tại của hệ thống duy trì giá bán lẻ của nhà sản xuất kiểm soát giá bán lẻ thông qua các chính sách chiết khấu hoa hồng và mua lại hàng hoá. Đối với chính sách mua lại hàng hoá, khác với châu Âu và Mỹ (người mua phải gánh chịu mọi rủi ro về sản phẩm trong phạm vi khu vực phân phối. Chỉ những hàng hoá bị khuyết tật mới được trả lại), tại Nhật Bản người tiêu dùng có thể trả lại các loại hàng hoá như may mặc, sách báo và dược phẩm. Tất nhiên, hàng hoá đó phải còn nguyên mác, dán tem. Đối với chính sách chiết khấu hoa hồng, Nhật Bản thực hiện nhiều loại chiết khấu và được chiết khấu thường xuyên, chứ không chỉ chiết khấu vào lúc thanh toán tiền hàng như ở châu Âu. b) Kết cấu chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối Hệ thống phân phối hàng hóa Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín, nhất là những hệ thống cửa hàng chuyên môn hóa chỉ kinh doanh một loại hàng nhất định. Sự cấu kết này thể hiện như sau: các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn và các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ, thực hiện chế độ định giá bán lẻ, chiết khấu hoa hồng thường xuyên và 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan