MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến luận án
1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến luận án
6
6
17
1.3. Những giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu liên quan
đến luận án và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ
20
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA TRÍ
THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
23
2.1. Quan niệm về trí thức, trí thức giáo dục đại học và lao động của
trí thức giáo dục đại học
23
2.2. Tính đặc thù của lao động trí thức giáo dục đại học Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay
35
2.3. Quan niệm về chất lượng lao động và chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học
48
2.4. Tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
59
Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
69
3.1. Thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay
69
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
94
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM HIỆN NAY
114
4.1. Quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
114
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
125
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
PHỤ LỤC
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CBGD
:
Cán bộ giảng dạy
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐH
:
Đại học
GDĐH
:
Giáo dục đại học
GS
:
Giáo sư
NCKH
:
Nghiên cứu khoa học
Nxb
:
Nhà xuất bản
PGS
:
Phó giáo sư
TB
:
Trung bình
Ths
:
Thạc sĩ
TS
:
Tiến sĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con người
ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò
đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển nội lực của mỗi
quốc gia, dân tộc.
Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước ta
trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong đó,
sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất.
Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH
Việt Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí tuệ
cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về nguồn
nhân lực trình độ cao thông qua việc cải biến chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát triển, chấn
hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả trực tiếp của
sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc gia đặc biệt chú
trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa tr ên sức mạnh của tri thức,
khoa học và công nghệ.
Vấn đề hệ trọng này còn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo dài,
chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của GDĐH ở
nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt
2
Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động tiêu cực từ mặt
trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về trình độ, năng
lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao động hình thức,
thiếu tận tâm, tận lực của không ít trí thức nhà giáo trước trọng trách vinh quang
của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức được đặt ra từ chất
lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu thị trường
lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất lao động khoa học
sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu không kịp thời khắc
phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con người không chỉ hiện
hữu ở thực tại mà còn trong tương lai.
Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng bộ,
nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu.
Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khoá cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa vấn
đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan tâm
thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như toàn xã hội
trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó cũng là
điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào tạo đại học
Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước những kỳ vọng
của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương trình, phương
pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất lượng nguồn nhân
lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là công việc khó khăn,
phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí lực và tiền bạc.
Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan
tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp đào
tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược phát
triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm lực của
con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo nên
3
nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức nhà giáo.
Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính
bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất lượng
lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên đại học.
Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ có ý nghĩa
lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất lượng các trường
đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm “đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI của
Đảng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí
thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở
Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong những thập
kỷ đầu thế kỷ XXI.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích nêu trên, ngoài việc tổng quan tình hình nghiên
cứu có liên quan đến vấn đề trí thức, trí thức GDĐH, luận án tập trung giải
quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
-
Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH
Việt Nam từ quan niệm chung đến việc chỉ ra những đặc điểm lao động, tiêu
chí đánh giá và tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH ở nước ta hiện nay.
4
-
Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
-
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế,
phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH
ở Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
với tác động của xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
tri thức.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
rất rộng.
Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH có nội dung
Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trên ba phương diện chủ yếu: giảng
dạy; NCKH; quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở các trường Đại học
công lập của Việt Nam.
-
Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013 và xây
dựng giải pháp nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ đó cho những
năm tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao động và
động lực lao động nói chung.
Luận án còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến
luận án của các tác giả trong và ngoài nước.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng phương
pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân
tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hoá.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động
của trí thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
-
Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động
của trí thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp.
-
Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi
mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội nhập,
toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-
Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và
thực tiễn đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam từ sự kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục.
-
Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở
cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác
trí thức GDĐH trong điều kiện mới.
-
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức, trí thức GDĐH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Trước xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và những tác động sâu sắc của kinh
tế tri thức, vai trò của GDĐH trong xã hội ngày càng được nâng cao, mối quan
tâm đến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH vì thế cũng trở nên có
sức hút mạnh mẽ đối với nhiều chủ thể. Liên quan đến vấn đề chất lượng lao
động của trí thức GDĐH ở những khía cạnh và góc độ tiếp cận khác nhau, có
nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1.Nhữngcông trình nghiên cứutiêu biểu bàn luận trực tiếpđếntrí
thức
Một là, những công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được in thành sách:
-
GS, TS Phạm Tất Dong (chủ biên): “Định hướng phát triển đội
ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [42]. Công trình
đã có những luận giải xác đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lượng
sản xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo, quản
lý và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tôn trọng trí thức,
GS, TS Phạm Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm
lao động của trí thức là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị
chiếm đoạt mà không ai biết, song nó cũng có thể được lưu thông và trả giá
xứng đáng như bao thứ hàng quý hiếm khác” [42, tr.330]. Đây chính là khởi
nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem tiền lương và các loại phụ cấp của trí thức
như những chính sách đầu tư có lợi nhất để mua lại “chất xám” - một loại sản
phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
7
-
TS Nguyễn Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát
triển đất nước” [72] và “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” [73]. Hai cuốn
sách làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương
hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng
yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí
thức, tác giả đã chỉ rõ: trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn
cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng
tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm
định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [72, tr.16-17]. Đây là sự đổi mới
tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến chỗ
thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định khách
quan của xã hội.
-
PGS, TS Nguyễn An Ninh: “Phát huy tiềm năng của trí thức khoa
học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước” [109]. Từ những
kiến giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn
hiện nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng
của đội ngũ này góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
-
GS, TS Nguyễn Văn Khánh - chủ biên của hai công trình: “Xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất
nước” [74]; “Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng”
[75].
Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở những luận chứng
khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội
ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ
Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực n ày,
8
tác giả đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng
và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp
chấn hưng đất nước.
-
PGS, TS Nguyễn Khánh Bật, Th.s Trần Thị Huyền (đồng chủ
biên), “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng
Hồ Chí
Minh” [18]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới
góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng
và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá những đóng
góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu
phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 20112020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hai là, các đề tài
khoa học nghiên cứu về trí thức:
-
GS, TS Phạm Tất Dong với Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số
KX 04 - 06: "Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực
sáng tạo của giới trí thức và sinh viên” [40] đã chú trọng phân tích làm rõ cơ
sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của việc hoạch định chính sách, giải pháp hướng
vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và
sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo.
-
PGS, TS Đàm Đức Vượng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông: “Xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020” [161]. Đây là công trình
nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể
về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những
giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên
bình diện rộng. Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những
yêu cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết
9
quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của
trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của
người trí thức Việt Nam.
Ba là, các luận án nghiên cứu về trí thức đã bảo vệ thành công trong
những năm gần đây:
-
PGS, TS Phan Thanh Khôi: “Động lực của trí thức trong lao động
sáng tạo ở nước ta hiện nay” [77]. Trên cơ sở nhận diện lực lượng trí thức với
tư cách là “tầng lớp xã hội đặc biệt”, tác giả luận giải tính chất lao động của
người trí thức đồng thời cũng tập trung làm rõ động lực lao động sáng tạo và
những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta hiện
nay.
-
PGS, TS Đỗ Thị Thạch: “Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc
đổi mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng” [133]. Đây là công
trình nghiên cứu chuyên sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những đóng
góp mới cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai trò to
lớn của lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời sống xã
hội. Xuất phát từ thái độ tôn trọng, tin cậy vào khả năng đóng góp của lực lượng
này, tác giả đã đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm phát huy tiềm năng,
vai trò của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng nước ta, đặc biệt là
trong quá trình đổi mới toàn diện của đất nước.
-
TS Nguyễn Công Trí: “Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế
tri thức” [146]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án chỉ ra những đặc trưng, tiêu
chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và
thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá
trị quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí
thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng
10
mực và thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [146,
tr.30].
Bốn là, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức được công
bố trên các tạp chí trong những năm gần đây:
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, yêu cầu đổi mới tư
duy về vấn đề trí thức đã được đặt ra trong mối quan tâm của không ít nhà khoa
học. Tiếp tục làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin
và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức là hướng
nghiên cứu lý luận quan trọng. Một số bài báo đăng trên các tạp chí trong thời
gian qua đã đề cập tới vấn đề này, tiêu biểu như: “Đội ngũ trí thức trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”của PGS, TS Phan Thanh Khôi
[78]; “Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức” của
PGS, TS Phan Thanh Khôi [79]; “Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề trí thức”,
Tạp chí Lý luận chính trị, 2008, số 9 của PGS, TS Nguyễn Đức Bách [17].
Ngoài ra cần phải nhấn mạnh rằng, trong những năm gần đây, trên đà phát triển
cả về số lượng, chất lượng của trí thức Việt Nam, những khía cạnh mới về chức
năng, nhiệm vụ, chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, giải pháp phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, hội
nhập, phát triển kinh tế tri thức cũng đã được đặt ra và nghiên cứu một cách
nghiêm túc. Có thể kể đến một số bài viết có giá trị khoa học như: “Mấy vấn đề
cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí
tuệ” của Nguyễn Đức Bách [16]; “Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện
nay” [81] và “Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội” [82] của
PGS, TS Phan Thanh Khôi.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn quan trọng để tác giả luận chứng về trí thức, về vai trò của đội ngũ trí thức
trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và CNH, HĐH đất
nước.
11
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về trí thức giáo dục đại học, đặc
điểm và chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học
Một là, những công trình nghiên cứu khái quát về trí thức GDĐH:
Thông qua việc làm sáng tỏ khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ nhà giáo; khảo sát thực trạng cơ cấu, chất lượng của trí thức GDĐH, nhiều
công trình nghiên cứu đã đề xuất giải pháp để xây dựng, phát triển đội ngũ này
ở bậc đại học. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau:
-
TS Phạm Văn Thanh: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác
Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” [131]. Tác giả chỉ rõ, đội
ngũ giảng viên giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở Việt Nam vừa là nhà giáo dục,
vừa là nhà khoa học, vừa là nhà chính trị. Vai trò của đội ngũ đó được tác giả
đề cập và phân tích ở nhiều bình diện từ chức năng đào tạo cán bộ, phát triển
lực lượng trí thức mới cho đất nước đến việc đảm trách nhiệm vụ NCKH và
tham gia các công tác khác ở hệ thống những trường đại học, cao đẳng thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng và xu hướng biến
đổi của đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin ở nước ta, tác giả đã đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ này thành lực lượng lớn mạnh,
đóng góp ngày càng nhiều trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
-
TS Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Doan“Phát triển nguồn nhân
lực giáo dục đại học Việt Nam” [38]. Với quan điểm xem nhà giáo đại học là
nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực ở nước ta, tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của trí thức GDĐH, qua
đó luận chứng một số giải pháp xây dựng, phát triển nguồn nhân lực GDĐH
trước yêu cầu hội nhập quốc tế.
-
PGS, TS Nguyễn Văn Sơn: “Trí thức Giáo dục Đại học Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [126]. Theo tác giả, đội ngũ
trí thức GDĐH Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản: là lực lượng trực tiếp
12
tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân;
đối tượng tác động chủ yếu của người trí thức GDĐH là những sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh; mục đích lao động nhằm đào tạo ra những
người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt; trí thức GDĐH vừa l à nhà
giáo vừa là nhà khoa học, nhà chính trị. Từ việc đánh giá thực trạng về cơ cấu,
chất lượng của trí thức GDĐH, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp cơ bản
để phát triển đội ngũ trí thức GDĐH đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục
vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
-
Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Đổi mới quản lý hệ thống GDĐH giai
đoạn
2010 - 2012” [26]. Công trình nghiên cứu đã giới thiệu Nghị quyết của Ban cán
sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý GDĐH giai đoạn
2010 - 2012. Nghị quyết đã nghiêm túc chỉ ra hạn chế trong chất lượng GDĐH
và khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng
GDĐH; hình thành ở các cơ sở GDĐH tổ chức chuyên trách về hướng dẫn, bảo
vệ và khai thác sở hữu trí tuệ của giảng viên; tôn vinh và tạo điều kiện ngày
càng tốt hơn để nhà giáo ở bậc đại học phát huy tính tích cực trong NCKH. Có
thể khẳng định, đây là cơ sở pháp lý quan trọng có ý nghĩa định hướng cho tác
giả luận án trong việc xây dựng giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động
của trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm coi trí thức GDĐH là nhân tố quyết định nhất
đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung luận
giải vị trí, vai trò của trí thức GDĐH đồng thời tìm ra hệ thống giải pháp cơ bản
tạo động lực lao động cho đội ngũ nhà giáo ở bậc đại học. Liên quan đến vấn
đề đó, những năm gần đây, có một số công trình khoa học, đáng chú ý là:
-
PGS, TS Bùi Khắc Việt (chủ nhiệm): “Trí thức trẻ và sinh viên”
[160]. Tác giả đã trực tiếp khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trẻ và sinh
viên ở các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế,
13
bất cập, nhất là về chất lượng của lực lượng đó trước yêu cầu, đòi hỏi của thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội, tác giả đi đến khẳng định việc phát triển đội ngũ
trí thức trẻ và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng là việc làm cần thiết.
-
Ngoài những công trình nêu trên, có thể kể đến một số bài nghiên
cứu của các học giả đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tiêu biểu như: Nguyễn
Văn Duệ: “Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học - thực trạng và kiến nghị” [43];
Nguyễn Duy Yên: “Đổi mới giáo dục trước hết phải đổi mới từ những người
làm giáo dục” [176]; Đinh Thị Minh Tuyết: “Xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên đại học” [153]. Nhìn chung, các tác giả nêu trên đều có chung quan
điểm khi xem nhà giáo ở bậc đại học là lực lượng nòng cốt xây dựng cho sinh
viên thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và phương pháp tư
duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo cho người học. Các tác giả
nhận định, để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cần tập trung đổi mới công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn hoá và hiện đại hoá;
việc bố trí, sử dụng nhà giáo phải hợp lý, coi trọng năng lực sáng tạo thực sự
về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải tạo lập hệ thống động lực cho đội ngũ
nhà giáo.
Hai là, những công trình nghiên cứu bước đầu bàn luận trực tiếp về
đặc điểm lao động của trí thức GDĐH:
Tác giả Đỗ Văn Phức với bài viết “Đặc điểm lao động của giáo
viên đại học và dạy nghề” [117] chủ yếu nhấn mạnh đến các đặc điểm về tính
chất lao động và những đặc thù nghề nghiệp của trí thức GDĐH. Tác giả nhận
định, lao động của đội ngũ giảng viên là loại lao động sáng tạo, lao động trí óc,
có cả một số yếu tố độc hại và những căng thẳng đặc thù.
-
Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn
Thị Mỹ Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và
giao tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi
14
dưỡng “Giáo dục học đại học” đã đưa ra quan niệm: “Ở đại học, sự sáng tạo sư
phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học” [53, tr.217]. Do đó, hoạt động giảng dạy
đại học được thực hiện bởi những người gắn bó với NCKH. Ngoài những phẩm
chất và năng lực của các chuyên gia, họ phải có hai phẩm chất năng lực có ý
nghĩa nhất đối với lao động chuyên môn là năng lực sư phạm và năng lực
NCKH. Rèn luyện kỹ năng của một nhà khoa học và nhà sư phạm tâm huyết là
yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên đại
học.
-
PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo
dục” [119] đưa ra quan niệm về đặc điểm lao động của trí thức GDĐH. Tác giả
khẳng định, đối tượng lao động sư phạm là nhân cách học sinh đang phát triển;
để tác động đến đối tượng này, người giảng viên cần dùng công cụ là chính
nhân cách của mình; chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao động
xã hội; lao động của người giảng viên là lao động trí óc chuyên nghiệp; nó đòi
hỏi ở người giảng viên tính khoa học, nghệ thuật và sự sáng tạo. Tác giả cho
rằng, đặc điểm lao động sư phạm cũng qui định những yêu cầu cơ bản về nhân
cách người giảng viên nên nhà giáo dục phải có năng lực sư phạm và tổ hợp
các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp như: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào
tạo thế hệ trẻ và lòng yêu người, yêu nghề.
-
Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học” [9], GS, TS Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh: GDĐH gắn liền giảng dạy
với NCKH và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà khoa học có quan
hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xuyên, lâu dài. Hình thức lao động của họ
có nhiều nét tương đồng về bản chất. Đó là sự phát hiện, sự sinh thành giá trị
mới thông qua những cách tân, tìm tòi hướng tiếp cận và phương pháp giảng
dạy, nghiên cứu mới. Vì vậy, lao động của trí thức GDĐH thể hiện rõ tính sáng
tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.
15
-
TS Nguyễn Bá Cần: “Hoàn thiện chính sách phát triển Giáo dục
đại học Việt Nam hiện nay” [31]. Tiếp cận đặc điểm của GDĐH trong điều kiện
kinh tế thị trường, tác giả đã cho rằng, là một loại sản phẩm dịch vụ, GDĐH có
đầy đủ tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác,
nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng hóa. Khi so sánh với các
loại dịch vụ khác thì “sản phẩm dịch vụ GDĐH còn có tính đặc thù - đó là
những người công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã
hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hoá có ngoại
biên thuận” [31, tr.22].
-
TS Ngô Văn Hà: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc
xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay” [66]. Trên cơ sở phân tích nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo, tác giả đã nêu lên một số luận
đề về đặc điểm lao động của giảng viên: công tác giảng dạy là loại lao động đặc
thù; “người giảng viên đại học phải kết hợp trong bản thân mình những phẩm
chất năng lực của một nhà khoa học và một nhà giáo dục - dạy học; nhiệm vụ
của họ không chỉ là đào tạo nhân lực có trình độ cao cho đất nước mà còn là
chỗ dựa về khoa học cho các viện nghiên cứu và các cơ sở sản xuất kinh doanh”
[66, tr.158]. Đạo đức cách mạng của người giảng viên là sự say mê với công
việc giảng dạy, nghiên cứu, trung thực trong khoa học, tìm
tòi sáng tạo, có khát vọng chinh phục đỉnh cao của tri thức.
Ba là, những công trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng
lao động của trí thức GDĐH:
-
Năm 2006, GS, TS Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn
Phương Nga đã nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá
hoạt động giảng dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia”
[37]. Giá trị thực tiễn của đề tài thể hiện ở những khuyến nghị đổi mới các tiêu
chí đánh giá hoạt động giảng dạy và NCKH của giảng viên có tính đến xu thế
hội nhập toàn cầu trong GDĐH. Đây là nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và
16
đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do các
chuyên gia, cán bộ quản lý giáo dục thực hiện nên kết quả nghiên cứu có ý
nghĩa quan trọng trong việc gợi mở cách tiếp cận theo hướng đánh giá tổng thể
chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cho tác giả luận án.
-
Năm 2008, Phòng Phát triển con người Khu vực Đông Á và Thái
Bình Dương của Ngân hàng thế giới đã công bố Báo cáo“GDĐH và kỹ năng
cho tăng trưởng” [113]. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực GDĐH trong
mối liên hệ với trị trường lao động ở Việt Nam. Nhiều nội dung quan trọng về
chất lượng của GDĐH đã được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý
là vấn đề hiệu quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng
đội ngũ giảng dạy; năng lực nghiên cứu của giảng viên; sự hài lòng của sinh
viên; khả năng, mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của GDĐH
Việt Nam cho nguồn nhân lực, cho gia tăng năng suất lao động và thúc đẩy
năng lực sáng tạo của người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng
cao từ thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Kết quả nghiên cứu của Báo
cáo có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả luận án trong việc kế thừa những số
liệu minh chứng về hiệu quả giảng dạy, NCKH của đội ngũ trí thức GDĐH.
-
Năm 2010, Luận án tiến sĩ: “Đánh giá giảng viên đại học theo
hướng chuẩn hoá trong giai đoạn hiện nay” của Trần Xuân Bách [15] được bảo
vệ thành công. Ở góc độ quản lý giáo dục, tác giả có thể kế thừa, tiếp thu kết
quả của công trình nghiên cứu trên một số bình diện như quan niệm về giảng
viên đại học, cơ sở lý luận về các phương thức đánh giá giảng viên. Tác giả đã
xác định, đánh giá giảng viên là quá trình mô tả, thu thập, xử lí, phân tích một
cách toàn diện hệ thống những thông tin về người giảng viên, để rồi phán đoán
giá trị lao động thực thụ của họ.
-
PGS, TS Trần Quốc Toản (chủ biên): “Phát triển giáo dục trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” [145]. Giá trị nổi bật của công
17
trình nghiên cứu là những luận cứ khoa học về mối quan hệ giữa giáo dục đào
tạo với thị trường trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là những
khảo sát, đánh giá, luận giải về chất lượng nguồn nhân lực, sự đáp ứng của giáo
dục đào tạo nói chung, GDĐH nói riêng đối với nhu cầu xã hội trước tác động
của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.
Ngoài ra còn nhiều bài viết độc lập của các nhà khoa học nghiên cứu về
chất lượng GDĐH nói chung, chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên nói
riêng, tiêu biểu như:
-
Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Phương Nga: “Nghiên cứu xây dựng
bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo đại học” [35]. Bài viết đã xác định
những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động chuyên môn của trí thức GDĐH,
trong đó đặc biệt chú ý tới dấu hiệu về khả năng và mức độ thỏa mãn, đáp ứng
yêu cầu công việc của trí thức nhà giáo.
-
Phan Văn Kha: “Ứng dụng mô hình quản lý chất lượng ISO 9000
trong quản lý đào tạo sau đại học ở Việt Nam”. Bài viết được trình bày trong
cuốn sách “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của
các quốc gia” [76]. Thông qua việc nghiên cứu những quan niệm khác nhau về
chất lượng trong các lĩnh vực, tác giả đã đưa ra quan niệm về chất lượng GDĐH
là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và được đánh giá qua mức độ trùng
khớp với mục tiêu định sẵn.
-
Tiếp cận và phản ánh vấn đề chất lượng GDĐH còn có thể kể đến
bài viết “Hệ thống đảm bảo chất lượng trong trường đại học theo quan điểm
của mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á” của Tạ Thị Thu Hiền
[70]. Tác giả trực tiếp bàn luận đến qui trình đánh giá, tiêu chí kiểm định chất
lượng đào tạo của các trường đại học, trong đó nhấn mạnh đến lĩnh vực giảng
dạy chuyên môn, NCKH, quản lý đào tạo của giảng viên, chất lượng của yếu
- Xem thêm -