BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
CỔ MẪU
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
CỔ MẪU
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 9 22 02 42
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn
GS.TS. LÊ HUY BẮC
HÀ NỘI, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận án là kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, trung thực. Các
tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2022
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn
khoa học, GS.TS. Lê Huy Bắc, Thầy đã tận tình dạy bảo, định hướng, khích lệ,
sẵn sàng giúp đỡ và đồng hành cùng tôi từ buổi đầu tôi mới bước chân vào con
đường nghiên cứu khoa học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm đến PGS.TS.
Nguyễn Thị Kim Ngân, Cô đã động viên, chia sẻ, hỗ trợ và truyền cảm hứng cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này. Xin tỏ lòng tri ân vô vàn đến
Thầy và Cô, những người dẫn đường tuyệt vời của tôi.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngữ văn - Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô thuộc Tổ Văn học nước ngoài,
đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ dẫn, sẵn lòng chia sẻ các tri thức, kinh nghiệm quý
giá cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện
luận án.
Xin bày tỏ sự tri ân tới Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học
Huế, nơi có các thầy cô, anh chị đồng nghiệp luôn tin tưởng, hỗ trợ và tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi học tập và thực hiện nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân,
những người bạn đã luôn yêu thương, đồng hành và tiếp sức cho tôi trong quãng
đường nhiều thử thách và giàu ý nghĩa này.
Nguyễn Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Đóng góp của luận án ......................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 7
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ…………………………..9
1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp cận
lịch sử-xã hội.......................................................................................................... 9
1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại .................................................................. 9
1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội........................................................................ 13
1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ..................................................... 17
1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới.................................. 17
1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam .................................. 22
1.3. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ............................. 26
1.3.1. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới ........... 26
1.3.2. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam ............ 32
Tiểu kết ................................................................................................................. 34
Chương 2. CỔ MẪU MẸ VÀ SỰ TÁI LẬP BẢN SẮC NỮ TÍNH TRONG
TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………...36
2.1. Cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian ........................................................... 36
2.2. Biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck ...................... 38
2.2.1. Mẹ hiền ....................................................................................................... 38
2.2.2. Mẹ dữ .......................................................................................................... 55
2.3. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong truyền thống văn học nam tính ........... 60
2.3.1. Truyền thống nam tính trong văn học Mỹ .................................................. 60
2.3.2. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John Steinbeck ....................... 63
Tiểu kết ................................................................................................................. 72
Chương 3. CỔ MẪU ANH HÙNG VÀ DẤU ẤN GIẢI HUYỀN THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK……………………………...74
3.1. Cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian ................................................ 74
3.2. Cấu trúc của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck qua các
motif nhiệm vụ căn bản ...................................................................................... 78
3.2.1. Tìm kiếm miền đất hứa ............................................................................... 79
3.2.2. Xác lập bản sắc ........................................................................................... 83
3.3. Biến thể của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck ........... 91
3.3.1. Anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới ............................. 91
3.3.2. Anh hùng thuộc về cộng đồng thiểu số ...................................................... 93
3.4. Giải huyền thoại người hùng và “giấc mơ Mỹ” ........................................ 97
3.4.1. Phương thức giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck ................ 97
3.4.2. Giải huyền thoại người hùng qua sự kiến tạo motif anh hùng bi kịch ..... 100
3.4.3. Giải huyền thoại “giấc mơ Mỹ” qua sự kiến tạo motif những vùng đất hứa
sụp đổ .................................................................................................................. 106
Tiểu kết ............................................................................................................... 113
Chương 4. CỔ MẪU ĐẤT, NƯỚC VÀ DIỄN NGÔN SINH THÁI TRONG
TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………115
4.1. Cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian .......................................... 115
4.2. Biến thể của cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết John Steinbeck ..... 118
4.2.1. Khát vọng sinh tồn và tình yêu đất đai của con người qua cổ mẫu đất .... 118
4.2.2. Sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh qua cổ mẫu nước............................ 122
4.3. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck qua cổ mẫu đất
và nước .............................................................................................................. 128
4.3.1. Khủng hoảng sinh thái và số phận con người trong thời đại kĩ trị ........... 128
4.3.2. Sự sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị ......................................... 133
4.3.3. Tinh thần Đông phương trong khôi phục giao ước giữa con người và tự
nhiên ................................................................................................................... 139
Tiểu kết ............................................................................................................... 147
KẾT LUẬN……………………………………………………………………149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ…………………154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….155
PHỤ LỤC……………………………………………………………………...165
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những khuynh hướng nghiên cứu văn học hiện nay, xu hướng xem xét
tác phẩm văn học trong mối quan hệ với nhiều lĩnh vực liên quan như văn hóa, lịch
sử, xã hội, chính trị, tâm lí, giới tính tỏ ra năng động, thiết thực, tương thích với xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ở địa hạt này, phê bình cổ mẫu - hướng nghiên
cứu văn học từng phát triển nở rộ và có nhiều đóng góp to lớn ở thế kỉ XX - vẫn
tiếp tục giữ vững vị thế quan trọng của nó trên hành trình khám phá thế giới văn
chương. Nhận ra những hạn chế của phương pháp tiếp cận tâm lí học trong quá
trình thăm dò kho cổ mẫu, cụ thể là tính khái quát hóa của nó, các nhà nghiên cứu
đã ứng dụng phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội (socio-historical approaches) để
giải mã những bí ẩn và chiều sâu văn hóa của các cổ mẫu được tái sinh trong các
nền văn học cổ đại, trung đại, hiện đại và hậu hiện đại. Mục tiêu của phương pháp
tiếp cận này là “xem xét các khía cạnh khác nhau của một mẫu hình ký ức nguyên
thuỷ của nhân loại đã hoạt động như thế nào trong phạm vi chính trị, xã hội và văn
hóa rộng lớn hơn” [1,52] bất kể thời đại nào. Kết quả là “bối cảnh xung quanh một
cổ mẫu cụ thể trở thành chủ đề chính của nghiên cứu nhằm hướng đến mục tiêu
hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề nguồn gốc, quá trình phát triển và các hiện thể được
tái sinh đa dạng” [1,52] trong các tác phẩm, thể loại văn học ở mọi miền không
gian và thời gian. Như thế, bằng cách tiếp cận lịch sử-xã hội, thế giới cổ mẫu muôn
màu trong kho tàng văn chương nhân loại hiện lên không phải như những vết tích
đóng băng và khép kín, ngược lại, là một yếu tố văn hóa năng động, thích ứng và
chuyển biến liên tục cùng với bối cảnh xã hội và thời đại.
John Steinbeck (1902-1968) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên văn đàn thế giới với
Của chuột và người (1937), Chùm nho phẫn nộ (1939), Phía đông vườn địa đàng
(1952). Cùng với F. Scott Fitzgerald, William Faulkner và Ernest Hemingway,
John Steinbeck được xem là một trong bốn tiểu thuyết gia ra đời vào thời điểm
chuyển giao giữa hai thế kỉ và đã góp phần định hình nước Mỹ hiện đại [2]. Trong
nửa đầu thế kỉ XX, nước Mỹ và thế giới đã trải qua nhiều biến động bao gồm cả
sự thịnh vượng lẫn suy thoái, đó là hai cuộc Thế chiến 1914-1918 và 1939-1945,
Đại suy thoái 1929-1933 và những vấn nạn về môi trường. Sinh ra và lớn lên trong
bối cảnh lịch sử đặc biệt đó, John Steinbeck đã chứng kiến những bất ổn và đổi
2
thay lớn lao của đất nước, thấu hiểu những bi kịch hiện sinh của con người. Bằng
cảm quan nhạy bén, nhà văn đã nhịp bước cùng thời đại với một sự nghiệp sáng
tác dày dặn, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, phóng sự, du kí.
Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ và nhiều màu sắc của John Steinbeck là tiểu
thuyết, thể loại chiếm vị thế vượt trội, mang đậm hơi thở huyền thoại và gắn bó
với những người lao động nghèo khổ, những thân phận bên lề xã hội Hoa Kỳ văn
minh và hiện đại. Bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt và tố chất của một nghệ sĩ thiên
tài đã hình thành bản sắc của John Steinbeck và những tác phẩm của ông với những
câu hỏi không bao giờ cũ về quyền lực và nghèo đói, chủ nghĩa cá nhân và cộng
đồng trong sự cảnh báo xen lẫn hi vọng [2]. Vì vậy, năm 1962, Viện Hàn lâm Thụy
Điển đã trao tặng giải Nobel văn chương cho nhà văn John Steinbeck, người đã
dám “phơi bày sự thật với một bản năng không thiên vị về những gì đích thực là
Mỹ dù tốt đẹp hay xấu xa” [3], như một sự ghi nhận cao nhất về những đóng góp
và vị trí quan trọng của ông trong nền văn học thế giới.
Là một bộ phận của văn hóa phương Tây, ngoài các giá trị cốt lõi, văn hóa Mỹ
còn có những đặc trưng gắn liền với tiến trình lập quốc, mà nét căn bản là một nền
văn hóa đa dạng, thống nhất từ những nền văn hóa khác biệt. Tuy nhiên, điều này
cũng chính là căn nguyên dẫn tới những cuộc xung đột, bất ổn và thỏa hiệp xuyên
suốt tiến trình lập quốc của nước Mỹ. Vấn đề mang tính quốc gia, dân tộc này đều
được các nhà văn Mỹ đề cập theo nhiều phong cách khác nhau trong các tác phẩm
của họ. Trong đó, John Steinbeck không phải là trường hợp ngoại lệ. Nhà văn đã
tiếp biến các yếu tố huyền thoại phương Tây, huyền thoại bản địa và huyền thoại
quốc gia để phản ánh những vấn đề nội tại của nước Mỹ trong nhiều tiểu thuyết
giàu sức gợi của ông. Như thế, điều khiến John Steinbeck thực sự quan tâm là tâm
hồn người Mỹ, là sự kiện nước Mỹ hiện đại hóa nhanh chóng vươn lên trở thành
cường quốc trên thế giới nhưng ngay sau đó là thời kì Đại suy thoái và mặt trái của
nền văn minh hiện đại đã hủy hoại đời sống của những tầng lớp dưới đáy/bên lề xã
hội. Nhưng hơn hết, nhìn vào hành trình văn chương của nhà văn người Mỹ này,
có thể nhận thấy, điều khiến cho sáng tác của ông có sức sống lâu bền chính là vì
những vấn đề văn hóa của người Mỹ được thể hiện bằng phương thức huyền thoại
hóa. Vì vậy, tiểu thuyết của John Steinbeck mặc dù từng gây ra nhiều luồng ý kiến
trái chiều, từng bị ngăn cấm phát hành, thậm chí bị chỉ trích là “những tác phẩm
3
của một thời”, “không có chút giá trị ngoài mục đích tuyên truyền tư tưởng” [4,41],
“nhân vật và tư tưởng khá sơ lược” [5,631], song sự thật là cho đến nay, những tác
phẩm ấy vẫn được bạn đọc ở khắp mọi nơi trên thế giới đón nhận, là đối tượng
nghiên cứu của nhiều học giả từ Đông sang Tây. Hơn nữa, những chủ đề mà nhà
văn đã theo đuổi là những vấn đề nhức nhối mà thế giới đương đại vẫn đang phải
đối mặt và những gương mặt ấn tượng trong thế giới nghệ thuật của ông vẫn hiện
diện đâu đó trong cuộc sống hôm nay. Khi nghiên cứu tác phẩm của John
Steinbeck, Tetsumaro Hayashi tự hỏi: “Tại sao chúng ta vẫn chú ý tiểu thuyết của
Steinbeck, những tác phẩm gần như là chỉ nói về các sự kiện của một thời đại?”
[6,41]. Thiết nghĩ trong nhiều căn nguyên thì việc John Steinbeck sử dụng một
cách vừa bản năng vừa sáng tạo các cổ mẫu, biểu tượng, motif cổ xưa để phản ánh
những vấn đề thời đại và muôn thuở của nước Mỹ và người Mỹ, rộng hơn là của
toàn nhân loại, chính là điều làm nên sức sống bền lâu và giá trị vĩnh hằng của tiểu
thuyết John Steinbeck.
Một số học giả nghiên cứu tiểu thuyết của John Steinbeck ngay từ thời kì đầu
đã sớm nhận ra các yếu tố huyền thoại cổ điển trong sáng tác của văn hào người
Mỹ này mặc dù vào thời điểm đó, hầu hết giới phê bình và bạn đọc đều hướng sự
quan tâm của họ vào giá trị hiện thực và ý nghĩa đấu tranh xã hội. Từ đó đến nay,
nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trở thành một địa hạt hấp dẫn và thách thức
nhiều học giả trên khắp mọi miền thế giới khi những sáng tác của nhà văn này vẫn
tỏ ra phù hợp với bối cảnh đương đại. Vì thế, để góp phần khám phá những vẻ đẹp
kì diệu trong thế giới nghệ thuật và tư tưởng của tiểu thuyết John Steinbeck và
đóng góp cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy văn học Mỹ ở Việt Nam, chúng tôi
sử dụng phối hợp các phương pháp tiếp cận khả dụng của phê bình cổ mẫu nhằm
khái quát hóa, hệ thống hóa và giải mã những cổ mẫu điển hình được tái sinh trong
các tác phẩm của văn hào người Mỹ này. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck
từ lí thuyết phê bình cổ mẫu, một mặt chỉ ra lớp trầm tích văn hóa ẩn sâu trong mỗi
cổ mẫu, những mẫu số chung của cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck và mẫu
gốc nguyên thủy, mặt khác tìm kiếm những ý nghĩa phái sinh, phản đề được hình
thành dưới tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước Mỹ.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John
Steinbeck làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án đặt ra những mục
tiêu nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, giới thuyết lí thuyết phê bình cổ mẫu. Chứng minh tính ưu việt của
lí thuyết phê bình cổ mẫu trong nghiên cứu văn học, góp phần vào các nghiên cứu
văn hóa, nghiên cứu liên ngành.
Thứ hai, tổng quan về những nghiên cứu có liên quan đến vấn đề cổ mẫu trong
tiểu thuyết John Steinbeck, từ đó kế thừa và phát triển những kết quả đã có để tìm ra
đặc trưng cổ mẫu trong tác phẩm của nhà văn.
Thứ ba, chỉ ra những điểm gặp gỡ giữa mô hình phổ quát của các cổ mẫu trên
thế giới tương ứng với các cổ mẫu xuất hiện trong tác phẩm của nhà văn và lí giải
cội nguồn sáng tạo tiểu thuyết John Steinbeck từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp
và văn học phương Tây. Đồng thời, luận án cũng phân tích những điểm khác lạ,
mới mẻ của các cổ mẫu này được quy định bởi đặc trưng văn hóa Mỹ. Từ đó, luận
án sẽ trình bày sự xung đột giữa hệ cổ mẫu của John Steinbeck với các hệ giá trị
phổ biến.
Thứ tư, minh giải cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án khám phá
giá trị của các cổ mẫu trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như quan niệm
nghệ thuật về thế giới và con người của Steinbeck; xác định những nét đặc sắc
nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck; khẳng định vị trí và đóng góp của nhà văn
đối với nền văn học Mỹ và văn học thế giới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, xác lập khái niệm cổ mẫu, lịch sử hình thành và phát triển của phê
bình cổ mẫu, nội dung và khuynh hướng nghiên cứu cơ bản của trường phái này ở
phương Tây thế kỉ XX, hướng tiếp cận cổ mẫu đương đại.
Thứ hai, khảo sát, thống kê, phân tích các tài liệu nghiên cứu tiếng Anh để chỉ
ra những khuynh hướng nghiên cứu về John Steinbeck trên thế giới, những kết quả
nghiên cứu về cổ mẫu trong tác phẩm của John Steinbeck; điểm lại các bài viết,
công trình bằng tiếng Việt có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5
Thứ ba, khảo sát, nhận diện, phân tích và minh giải đặc trưng của những cổ
mẫu điển hình trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án tập trung vào các cổ mẫu
tiêu biểu gắn với đặc trưng nổi bật của chúng, đó là: cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản
sắc nữ tính, cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại, cổ mẫu đất, nước và diễn
ngôn sinh thái.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi văn bản khảo sát
John Steinbeck là một nhà tiểu thuyết ưa thích khám phá, thể nghiệm và có
một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Trong luận án này, phạm vi văn bản khảo sát là 8
tiểu thuyết nổi bật được sáng tác trong nửa đầu thế kỉ XX của nhà văn, bao gồm:
To a God Unknown/Gửi vị thần chưa biết (Bantam Books Inc., 1933), In Dubious
Battle/Trong trận chiến mơ hồ (Random House, 1936), East of Eden/Phía đông
vườn địa đàng (Penguin Books, 2014), Thị trấn Tortilla Flat (Lâm Vũ Thao dịch,
Nxb Trẻ, 2014), Phố Cannery Row, Của chuột và người (Phạm Văn dịch, Nxb Hội
nhà văn, 2018), Viên ngọc trai (Đặng Việt Hưng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2020),
Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch, Nxb Văn học, 2020). Ngoài ra, luận án
sử dụng một số chi tiết trong bản dịch Phía đông vườn địa đàng của dịch giả Đinh
Văn Quý (Nxb Văn hóa Thông tin, 2003).
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi không những không tách biệt các
tác phẩm này mà còn xem xét vấn đề nghiên cứu ở những tác phẩm khác của John
Steinbeck để vừa tìm hiểu sâu vừa đảm bảo tính bao quát, hệ thống. Từ đó, luận án
chỉ ra những nét đặc sắc của thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.
3.2.2. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck rất phong phú và đa dạng.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi tìm hiểu tiểu thuyết John Steinbeck từ góc
nhìn phê bình cổ mẫu, cụ thể là nghiên cứu các cổ mẫu điển hình: cổ mẫu mẹ, cổ
mẫu anh hùng, cổ mẫu đất, cổ mẫu nước và khám phá sự tái sinh của các cổ mẫu
này trong bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
6
4.1. Cách tiếp cận
Trên nền tảng các nghiên cứu về văn học, văn hóa, lịch sử xã hội, luận án sử
dụng lí thuyết phê bình cổ mẫu, kết hợp cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại với cách
tiếp cận lịch sử-xã hội.
- Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại: khảo sát các tiểu thuyết của John Steinbeck,
chọn lọc và hệ thống các motif, biểu tượng thường xuyên được lặp lại; xác định
các cổ mẫu và tìm hiểu ý nghĩa phổ quát của chúng trong tâm thức nhân loại nói
chung và minh định ý nghĩa của các cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Cách
tiếp cận này dựa trên nền tảng nhân học, tâm lí học, tôn giáo để khám phá sự kế
thừa những huyền thoại, cổ mẫu từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp, văn học phương
Tây trong tiểu thuyết John Steinbeck.
- Cách tiếp cận lịch sử-xã hội: xem xét vai trò của các sự kiện lịch sử, xã hội,
hệ thống chính trị, chủng tộc, giới tính đối với sự tái sinh các cổ mẫu trong tiểu
thuyết John Steinbeck. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội chú trọng mối quan hệ giữa
văn bản văn học và lịch sử xã hội của tác giả cũng như cộng đồng của anh ta. Do
đó, việc sử dụng cách tiếp cận này sẽ giúp chúng tôi lí giải sự xung đột giữa hệ cổ
mẫu của John Steinbeck với các mẫu hình ban đầu, các hệ giá trị phổ quát.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn, luận án kết hợp nhiều phương pháp và thao tác nghiên cứu. Luận
án chú trọng các phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành: được sử dụng xuyên suốt luận án để khám phá cổ
mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên nền tảng kết hợp kết quả nghiên cứu từ
các lĩnh vực đa dạng của khoa học xã hội và nhân văn như văn học, văn hóa, lịch
sử, triết học, tôn giáo, ngôn ngữ học, tâm lí học.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: được dùng để khảo sát, sắp xếp hệ thống
cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, đồng thời khi phân tích các phương diện
biểu hiện của hệ thống cổ mẫu đó, luận án không xem xét vấn đề theo hướng cô
lập mà đặt trong hệ thống để xác định đặc trưng cổ mẫu và phong cách tiểu thuyết
John Steinbeck.
- Phương pháp so sánh lịch sử: được dùng để tái thiết những gì đã suy tàn hoặc
biến mất của một nền văn hóa, văn học; đối chiếu các sự kiện lịch sử để truy tìm
7
nguồn gốc văn hóa, lịch sử và giải thích quá trình tái sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết
John Steinbeck.
- Phương pháp phê bình tiểu sử: được dùng để nghiên cứu tiểu thuyết John
Steinbeck trong mối quan hệ với cuộc đời của nhà văn, tìm kiếm những chi tiết
tiểu sử đặc biệt ảnh hưởng đến tư tưởng và sáng tác của John Steinbeck.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn sử dụng các thao tác nghiên
cứu khoa học khác, cụ thể như: so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp, bình giải,
khảo sát văn bản, khảo cứu và biên dịch tư liệu, thống kê phân loại các cổ mẫu
trong tiểu thuyết John Steinbeck.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình tiếng Việt đầu tiên nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết
John Steinbeck. Kết quả khoa học của luận án mở ra hướng diễn giải, phân tích
một cách hệ thống và chuyên sâu về cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Kết
quả của luận án là cơ sở quan trọng để khẳng định những điểm kế thừa và cách tân
của John Steinbeck ở thể loại tiểu thuyết.
Luận án giải quyết thành công một số vấn đề mới trong nghiên cứu tiểu thuyết
John Steinbeck: nhận diện, lí giải những ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử-xã hội
đến cách nhà văn tái sinh các cổ mẫu; chỉ ra vai trò của hệ thống cổ mẫu trong việc
kiến tạo nên giá trị nghệ thuật và tính nhân văn của tiểu thuyết John Steinbeck, cho
thấy ý nghĩa và tầm ảnh hưởng của hệ thống cổ mẫu này trong cuộc đối thoại với
các mẫu gốc, các giá trị phổ quát và công cuộc định hình bản sắc văn hóa Mỹ
đương đại.
Việc nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck dưới góc độ cổ mẫu góp phần cung
cấp một phương thức mới trong hành trình khám phá đặc sắc tiểu thuyết John
Steinbeck và sáng tác của các nhà văn khác, đem đến những hiểu biết căn bản và
toàn diện về các yếu tố nguyên bản cổ xưa của nhân loại và bản sắc văn hóa Mỹ
trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho những
ai quan tâm tìm hiểu cổ mẫu văn chương, tiểu thuyết John Steinbeck và văn hóa Mỹ.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề
8
Chương 2: Cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John
Steinbeck
Chương 3: Cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại trong tiểu thuyết John
Steinbeck
Chương 4: Cổ mẫu đất, nước và diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John
Steinbeck
9
Chương 1.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Khởi nguồn từ tâm lí học và nhân học, phê bình cổ mẫu, một nhánh của phê
bình huyền thoại có nội hàm rộng lớn hơn, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho
lĩnh vực nghiên cứu văn học thế kỉ XX. Bằng cách trở về với văn bản, tìm kiếm
những mẫu hình cổ xưa thường xuyên được lặp lại thông qua các biểu tượng, nhân
vật, motif, khuynh hướng nghiên cứu này đã mở ra cánh cửa bước vào thế giới tinh
thần phong phú của nhân loại, đồng thời tiết lộ khả năng bồi đắp khu vườn cổ mẫu
của mỗi nhà văn qua các thời kì. Được ghi nhận như là “một người khổng lồ của nền
văn học Mỹ” [7], John Steinbeck và những tác phẩm của ông là đối tượng nghiên
cứu của đông đảo các nhà phê bình trên thế giới và Việt Nam. Do đó, lịch sử nghiên
cứu sáng tác của nhà văn người Mỹ này đã có một phả hệ lâu dài và phong phú.
Trong phần tổng quan, chúng tôi tiến hành khái lược lí thuyết phê bình cổ mẫu, đồng
thời tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu, bài viết về tiểu thuyết John
Steinbeck và cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam và trên thế giới.
1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp
cận lịch sử-xã hội
Phê bình cổ mẫu (Archetypal Criticism) là một khuynh hướng nghiên cứu lớn
trong lịch sử nghiên cứu văn học, bắt đầu phát triển vào những năm 1930 -1940 và
đạt đến đỉnh cao vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX. Chiến lược phê bình này là
trở về với văn bản, tìm ra những tác phẩm gần gũi hoặc tương tự ở mọi nơi trên thế
giới để hiểu rõ sự tái sinh của những nhân vật, kiểu trần thuật và motif cổ mẫu nhất
định. Lược sử phê bình cổ mẫu cho thấy có nhiều cách tiếp cận cổ mẫu tùy thuộc
góc nhìn của người nghiên cứu. Trong đó, có thể xem cách tiếp cận tâm lí-huyền
thoại, kết hợp giữa lí thuyết của Jung và Frye, là xu hướng nổi trội của phê bình cổ
mẫu thời kì đầu. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, các nhà nghiên
cứu dần nhận ra những điểm hạn chế của cách tiếp cận này, do đó, hướng đến kết
hợp với phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội để khám phá cổ mẫu cả bề rộng lẫn
bề sâu.
1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại
Cổ mẫu (archetype) là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ, được
10
hiểu là những mẫu hình ban đầu, thường được sao chép, mô phỏng, bắt chước về
sau. Ý nghĩa này được tạo nên từ những gốc từ của nó, đó là: “arkhe” mang nghĩa
“khởi đầu, nguồn gốc, vị trí đầu tiên” và “typos” mang nghĩa “khuôn mẫu, mô hình
hoặc kiểu mẫu” [8]. Trong tiếng Việt, thuật ngữ archetype được chuyển dịch bằng
nhiều cách khác nhau: cổ mẫu, mẫu gốc, nguyên mẫu, siêu mẫu, mẫu tượng, mẫu
cổ, sơ nguyên tượng... Tuy vậy, thuật ngữ này vẫn được thống nhất trong cách hiểu
của giới nghiên cứu như là một yếu tố xuất hiện từ thời cổ xưa và trở thành mẫu số
chung cho kinh nghiệm tinh thần của nhân loại.
Ngay từ thời cổ đại, với quan điểm “con người có khả năng hòa nhập về tinh
thần vào thế giới lí tưởng”, Platon đã đề xuất khái niệm idea, một trong ba khái
niệm then chốt của học thuyết Platon, chỉ “những thực tại ở thế giới thứ nhất, ngoài
cửa hang. Những idea này có tính phi vật chất nhưng tồn tại khách quan và vĩnh
cửu” [9]. Khái niệm idea của Platon đã khơi gợi cho Carl Jung, nhà tâm lí học
người Thụy Sĩ, đề xuất cổ mẫu, một trong những ý tưởng quan trọng và nổi bật
trong lí thuyết tâm lí học phân tích của ông. Khái niệm này gắn liền với lí thuyết
nổi tiếng của Jung về vô thức tập thể. Quá trình hình thành lí thuyết cổ mẫu được
Jung khởi đầu từ năm 1912, đánh dấu sự chia rẽ giữa ông và Sigmund Freud, vốn
là thầy của Jung. Đây cũng là thời điểm Jung bắt đầu theo đuổi hướng nghiên cứu
độc lập về tâm lí học chuyên sâu. Các khái niệm, ý tưởng về cổ mẫu của Jung được
tập hợp trong cuốn Archetypes and the Collective Unconscious (Cổ mẫu và vô thức
tập thể, 1981) [10]. Theo đó, lí thuyết của Jung phân chia tâm lí con người thành
ba cấp độ: ý thức cá nhân (ego), vô thức cá nhân (personal unconscious) và vô thức
tập thể (collective unconscious). Trong đó, vô thức tập thể là yếu tố tâm lí làm nổi
bật học thuyết của Jung so với các nhà tâm lí học khác. Jung “chọn hạng từ ‘tập
thể’ (collective) vì phần này của vô thức không mang tính cá thể mà phổ quát; trái
ngược với tinh thần cá nhân, nó có những nội dung và kiểu hành vi gần như có mặt
ở khắp nơi, trong mọi cá thể. Nói cách khác, nó giống nhau ở tất cả mọi người, và
do đó cấu thành nên một chất nền tinh thần chung của bản tính siêu nhiên hiện diện
trong mỗi chúng ta” [11]. Nội dung của vô thức tập thể được ông gọi tên là những
cổ mẫu.
Như thế, Jung là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “cổ mẫu” để “chỉ ‘những
hình ảnh nguyên thủy’ và ‘dư lượng tâm linh’ của các nguyên mẫu được lặp đi lặp
11
lại trong vô thức tập thể của nhân loại và được thể hiện trong huyền thoại, tôn giáo,
giấc mơ và mơ mộng cá nhân, cũng như trong các tác phẩm văn học” [12,16]. Theo
ông, cổ mẫu tái xuất hiện trong tiến trình lịch sử nhân loại ở bất cứ nơi đâu có hoạt
động sáng tạo. Nó lay động mỗi chúng ta bởi vì “nó khơi dậy trong ta một giọng
nói to hơn giọng nói của chính ta” [13,599]. Đó là giọng nói của tổ tiên, của vô
thức tập thể được lắng đọng qua bao thế hệ. Có thể nói, phải đến Jung cổ mẫu mới
được xác lập như một thuật ngữ tâm lí học. Trong Thăm dò tiềm thức, ông tái khẳng
định rằng: cổ mẫu “là những yếu tố tâm thần không thể cắt nghĩa được bằng một
sự việc xảy ra trong đời sống... Nó hình như bẩm sinh đã có, có từ nguyên thủy, nó
là một thành phần trong gia tài tinh thần nhân loại” [14,95-96]. Ông cũng nhấn
mạnh tính chất ban sơ, nguyên thủy của cổ mẫu như là những nội dung vô thức tập
thể hiện hữu trong “những hình thức cổ xưa, hoặc đúng hơn là những hình thức
nguyên thủy, tức là những hình ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất”
[15,78]. Cũng theo Jung, mặc dù “thoát thai từ vô thức tập thể” song cổ mẫu vẫn
“có tính tự trị” của nó. Điều này có nghĩa là “cổ mẫu không bó mình vĩnh viễn
trong vô thức cộng đồng, như là cái có sẵn, mà nó luôn vận động, do những xung
năng nội tại, nhằm phát triển trong xu hướng chống lại sự kiểm soát của ý thức”
[DT 16]. Như vậy, những nghiên cứu của Jung đã tiết lộ rằng: cổ mẫu có nguồn
cội từ xa xưa, nảy nở trong khu vườn vô thức tập thể, chứa đựng kí ức của cộng
đồng, chúng mang tính bẩm sinh và tự trị. Ông cũng cho biết ứng với mỗi một
trạng thái của con người sẽ có một cổ mẫu tương ứng, chẳng hạn như cổ mẫu Mẹ
(Mother), Tái sinh (Rebirth), Tinh thần (Spirit), Kẻ lừa lọc (Trickster)... do đó, số
lượng cổ mẫu là vô tận [17]. Cùng với vô thức tập thể, cổ mẫu là một trong những
chất liệu quan trọng để Jung “vẽ bản đồ tâm hồn con người” như Murey Stein từng
nhận định. Tóm lại, trong lí thuyết tâm lí học phân tích của Jung, cổ mẫu mang
tính phổ quát, tự trị và căn bản. Bất kì nền văn hóa hay giai đoạn lịch sử nào cũng
đều chia sẻ những mô hình cổ mẫu phổ biến.
Những “luận điểm tràn đầy cảm hứng khai phá” [16] của Jung về cổ mẫu đã
mở ra hướng tiếp cận tâm lí học, định hình lí thuyết phê bình cổ mẫu và gợi hứng
cho rất nhiều nhà nghiên cứu về sau. Nhiều nhà phê bình như Maud Bokin, Joseph
Campbell, Gaston Bachelard, Northrop Frye đã phát triển lí thuyết của Jung về vô
thức tập thể và cổ mẫu để khám phá các tác phẩm văn chương. Trong đó, Northrop
12
Frye, nhà phê bình thần thoại người Canada, là người có công rất lớn đối với việc
xác lập lí thuyết phê bình cổ mẫu khi mở rộng nội hàm thuật ngữ cổ mẫu của Jung
bằng cách xem xét nó từ góc nhìn huyền thoại học. Công trình khoa học có sức ảnh
hưởng lớn của Frye, Anatomy of Criticism (Giải phẫu văn chương), gồm có bốn
tiểu luận: phê bình lịch sử, phê bình đạo đức, phê bình cổ mẫu và phê bình thể loại.
Trong đó, tiểu luận thứ nhất gắn với các lí thuyết về thức (mode), tiểu luận thứ hai
bàn về các biểu tượng làm tiền đề cho nghiên cứu cổ mẫu, tiểu luận thứ ba đề cập
đến các huyền thoại, tiểu luận thứ tư nghiên cứu cách thức để tác giả và văn bản
giao tiếp với độc giả hay khán giả [18]. Frye đề xuất rằng toàn bộ các tác phẩm
văn học tạo thành một “thế giới văn chương độc lập” được tạo ra qua các thời đại
bằng trí tưởng tượng của nhân loại để đồng hóa thế giới xa lạ và thờ ơ của tự nhiên
thành những loại cổ mẫu, đáp ứng những mong muốn và nhu cầu dài lâu của con
người. Trong thế giới văn chương này, bốn cổ mẫu thần thoại cơ bản tương ứng
với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và bốn thể loại chủ yếu: hài kịch, truyện hư cấu,
bi kịch, châm biếm. Như bản chất của chu kì tự nhiên, các mô thức tự sự này cũng
vận động theo chu kì tuần hoàn, sống và chết, bốn mùa trong năm, bốn giai đoạn
của đời người [19]. Khi xem xét mối quan hệ giữa huyền thoại và văn học, Frye
phát hiện sự lặp lại của các cấu trúc hoặc ngữ cảnh và nhận định rằng văn học là
huyền thoại được tái cấu trúc thông qua những cổ mẫu thần thoại liên tục được tái
sinh và làm mới trong các mô thức tự sự khác nhau [13]. Nhìn từ cổ mẫu, Frye cho
rằng vũ trụ văn chương không hoàn toàn quá tự trị và cô lập. “Văn học giữ vai trò
chủ yếu trong việc biến đổi thế giới vật chất thành một thế giới ngôn từ sống động,
dễ nhận thức và lưu lại ấn tượng lâu bền, bởi vì nó đáp ứng những nhu cầu và quan
tâm của con người” [12,17].
Kết hợp quan niệm về cổ mẫu của Jung và Frye, Vũ Minh Đức cho rằng: “Cổ
mẫu, trước hết, là mẫu của những biểu tượng có mối liên hệ chặt chẽ
với vô thức tập thể, là nơi lưu giữ kí ức, kinh nghiệm tập thể của dân tộc và nhân
loại. Cổ mẫu là khuôn mẫu nguyên thủy để từ đó có nhiệm vụ phục vụ cho một
mô hình cụ thể” [20,9]. Theo tổng hợp của Vũ Minh Đức, đặc điểm của cổ mẫu
bao gồm: tính phổ quát nhân loại, tính biểu tượng huyền thoại và tính phái sinh.
Như vậy, cách tiếp cận tâm lí học xem xét cổ mẫu như là sự kết tinh các kinh
nghiệm tinh thần phổ quát nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn nhân
13
loại. Cách tiếp cận huyền thoại học chú trọng tính lặp lại của những kiểu mẫu cổ
xưa để đáp ứng những mong muốn có tính hằng số của con người thuộc các nền
văn hóa cách biệt về không gian lẫn thời gian. Kết hợp cả hai hướng tiếp cận này,
các nhà nghiên cứu đã gặt hái những thành công ban đầu trong việc giải quyết các
câu hỏi về cổ mẫu liên quan đến tâm linh, văn hóa. Tuy nhiên, bản chất của cổ mẫu
vẫn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu thống nhất đồng thuận, thậm chí nhiều
cuộc tranh cãi về nó đã nổ ra trên các không gian học thuật uy tín.
1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội
Khi đề xuất lí thuyết mang tính đột phá của mình, Jung đã bộc lộ sự lúng túng,
mâu thuẫn qua rất nhiều cách thức khác biệt, phức tạp để xác định những gì là cổ
mẫu. Theo tổng hợp của nhà nghiên cứu tâm lí học Jon Mills, điều đó được biểu
hiện qua việc Jung đã đưa ra rất nhiều tên gọi khác nhau, thậm chí trái ngược về
archetype: “Jung gọi cổ mẫu là những ý tưởng bẩm sinh, hình thức, hình ảnh tập
thể, bản năng, tổ chức nhạy cảm, tưởng tượng, cảm xúc, mô hình hành vi và cường
độ định tính như tính chất bí ẩn. Ở những nơi khác trong Collective Works, ông gọi
chúng là những năng lượng tâm linh, thực thể, các lực lượng và cơ quan độc lập tự
tổ chức và có thể tự mình áp đặt một người chống lại ý chí của chính họ. Hơn nữa,
Jung cho rằng tâm trí độc lập với các cổ mẫu, có đặc tính siêu việt, tồn tại bên
ngoài không gian và thời gian do cấu trúc và sự hiện diện siêu nhiên của chúng.
Nhưng Jung cũng gọi cổ mẫu là các khái niệm, giả thuyết, mô hình trải nghiệm và
ẩn dụ khi ông quay về với các ý niệm triết học trước đây của mình dưới nguyên
tắc khoa học” [21,2]. Như vậy, theo Jon Mills, bên cạnh những đóng góp nhất định,
lí thuyết cổ mẫu của Jung vẫn bộc lộ tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học, thậm chí
chỉ đơn thuần là suy đoán lí thuyết. Những đề xướng mâu thuẫn về cổ mẫu của
Jung, do đó, đã dẫn đến những ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu về bản
chất của cổ mẫu.
Học giả Knox, với công trình Archetype, Attachment, Analysis: Jungian
Psychology and the Emergent Mind (Cổ mẫu, gắn bó, phân tích: Tâm lí học của
Jung và tâm thức hợp trội, 2003), đã cung cấp một cách diễn giải mới về cổ mẫu
dựa trên mô hình phát triển của tâm trí được cấu thành bởi ba yếu tố: trí não, bản
năng và nhận thức. Knox khẳng định rằng mô hình này cho biết cổ mẫu là một
phần của tâm lí tập thể, không có hình ảnh bẩm sinh trong bản thân chúng, nhưng
14
lại tạo ra các kiểu mẫu ý nghĩa được lặp lại thường xuyên [22]. Trong bài viết
Approaching Archetypes: Reconsidering Innateness (Tiếp cận cổ mẫu: Xét lại tính
bẩm sinh, 2010), Goodwyn xem xét tính bẩm sinh của cổ mẫu và dựa trên những
kết quả nghiên cứu di truyền học để chống lại ý tưởng tâm trí chứa những nội dung
bẩm sinh có ý nghĩa quan trọng [23]. Đến năm 2013, nhà nghiên cứu này đã xác
lập một mô hình cổ mẫu trên cơ sở thực nghiệm thay vì chỉ suy đoán lí thuyết trong
bài viết Recurrent Motifs as Resonant Attractor Atates in the Narrative Field: a
Testable Model of Archetype (Các motif lặp lại như là mô hình thu hút trong lĩnh
vực tự sự: một mô hình cổ mẫu thử nghiệm). Theo ông, cổ mẫu của Jung vẫn còn
gây tranh cãi khi giải thích về các motif thường xuyên lặp lại, do sự tồn tại của các
motif không chứng minh được sự hiện hữu của các cổ mẫu. Vì vậy, thách thức đối
với lí thuyết cổ mẫu đương đại không chỉ đơn thuần là giải thích sự tồn tại của các
motif tái xuất hiện, bởi lẽ điều này không bị tranh cãi, mà là chứng minh các cổ
mẫu hiện hữu và tạo ra các motif thường xuyên lặp lại. Goodwyn cho rằng các
motif trong mọi xã hội đều có thể nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực tự sự và
chứng minh cho sự xuất hiện của các cổ mẫu bẩm sinh [24]. Do đó, nghiên cứu
của Goodwyn đã đề xuất cách tiếp cận cổ mẫu theo hướng thực nghiệm.
Dưới ánh sáng của di truyền học và khoa học thần kinh, Roesler, trong bài viết
có tựa đề Are Archetypes Transmitted more by Culture than Biology? Questions
arising from Conceptualizations of the Archetype (Cổ mẫu được truyền thừa nhiều
hơn bởi văn hóa hay sinh học? Các vấn đề nảy sinh từ khái niệm cổ mẫu, 2012),
thừa nhận tính chất phổ quát trong khái niệm cổ mẫu, tuy nhiên, cho rằng chưa có
cơ sở khoa học nào để khẳng định mỗi cá nhân đều có thể được kế thừa các mô
hình biểu tượng phức tạp. Roesler gợi mở: “Có thể ký ức của nhân loại, vô thức
tập thể không có chỗ đứng trong sinh học, mà trong văn hóa và xã hội hóa. Nếu
chúng ta thừa nhận rằng việc truyền tải những cổ mẫu phụ thuộc nhiều vào quá
trình tương tác và văn hóa hơn Jung từng nghĩ, chúng ta có thể phát triển các khái
niệm giống như phức hợp văn hóa và kết nối chúng với nghiên cứu được đề cập
đến các cách truyền tải ngầm, một công việc vẫn còn phải được thực hiện. Nhận
thức ngày càng tăng trong các ngành khoa học rằng có các quá trình giao tiếp và
truyền tải ở cấp độ tiềm thức mang đến sự hỗ trợ đáng ngạc nhiên cho khái niệm
của Jung về lĩnh vực vô thức giữa các cá nhân. Theo nghĩa này, chúng ta không
- Xem thêm -