VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM MINH ÁI
CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC,
BIỂU HIỆN VÀ GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA NÓ
Chuyên ngành
Mã số
: Mĩ học
: 62.22.03.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Huyên
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM MINH ÁI
CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC,
BIỂU HIỆN VÀ GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA NÓ
Chuyên ngành
Mã số
: Mĩ học
: 62.22.03.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Huyên
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các nhận định và kết luận nêu trong luận án là trung thực và
chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
PHẠM MINH ÁI
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ..........................................................................................................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu về cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù khác
trong hệ thống phạm trù mĩ học .......................................................................................6
1.2. Tình hình nghiên cứu về biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong văn học
Việt Nam (sau năm 1975) ............................................................................................14
1.3. Tình hình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi .................................................21
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề đặt ra đối với luận án 23
Chƣơng 2. CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC ........................25
2.1. Bản chất và nội dung của cái bi ............................................................................25
2.2. Mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù mĩ học khác trong hệ thống ...............55
Chƣơng 3. BIỂU HIỆN CỦA CÁI BI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG VĂN HỌC
NGHỆ THUẬT ............................................................................................................68
3.1. Phƣơng thức biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong nghệ thuật .................68
3.2. Biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt Nam (sau năm 1975) .................71
3.3. Biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam (sau năm 1975) .............................85
Chƣơng 4. GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA CÁI BI ......................................................113
4.1. Giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát triển của con ngƣời và xã hội .............113
4.2. Giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học nghệ thuật ..................................132
KẾT LUẬN ...............................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình yêu cổ xƣa nhất và cũng vĩ đại nhất của con ngƣời chính là tình yêu cuộc
sống, yêu cái đẹp. Khát vọng chân chính của con ngƣời là vƣơn tới cuộc sống tốt đẹp.
Nhƣng vốn dĩ hành trình kiếm tìm hạnh phúc đi đến cuộc sống nhân văn là một cuộc đấu
tranh lâu dài và gian khổ mà không phải lúc nào chiến thắng cũng thuộc về những điều tốt
đẹp chân chính. Thực tế lịch sử loài ngƣời đã chứng minh cho tính biện chứng của sự phát
triển thông qua quá trình không ngừng giải quyết những xung đột, mâu thuẫn. Tất yếu
cuộc sống luôn là những xung đột nhƣng khi cuộc sống đã đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ
dù khó khăn đến đâu thì con ngƣời cũng sẽ nỗ lực tìm cách vƣợt qua. Cái bi và bi kịch vẫn
hiện hữu khách quan trong hành trình nỗ lực ấy khiến nhân loại vẫn không ngừng trăn trở
về nó.
Cái bi là một phạm trù cơ bản của mĩ học mang ý nghĩa nhân văn và triết lí sâu
sắc, một hiện tƣợng thẩm mĩ đặc biệt chỉ nảy sinh trong quá trình lao động và đấu
tranh cải tạo tự nhiên, xã hội của con ngƣời. Phạm trù cái bi cùng với cái đẹp, cái hài,
cái cao cả khái quát những mảng hiện thực thẩm mĩ cơ bản của con ngƣời. Từ thời
điểm thuật ngữ này ra đời, cho đến khi nó đƣợc thừa nhận là một phạm trù mĩ học
độc lập và đến tận ngày hôm nay, nội hàm của nó đã đƣợc nhiều học giả bàn đến với
những quan điểm khác nhau. Sự vận động ngày càng phức tạp của xã hội đòi hỏi
chúng ta cần nhìn nhận, xem xét biểu hiện cái bi trong cuộc sống và trong nghệ thuật
hết sức phong phú và đa dạng, đồng thời có cái nhìn mang tƣ duy phê phán với những
quan điểm khác nhau về phạm trù này. Vì vậy, nghiên cứu về cái bi - phạm trù cơ bản
của mĩ học là vấn đề cần đƣợc quan tâm đúng mức.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân
chủ, công bằng, bình đẳng là vô cùng tốt đẹp. Lâu nay, thƣờng tồn tại quan điểm phủ
nhận sự tồn tại của cái bi trong xã hội ta hoặc né tránh, không nói. Nhƣng nhƣ vậy không
có nghĩa là có thể thỏa mãn với hiện tại bởi lẽ vẫn còn những xung đột, mâu thuẫn,
những oan trái, đau khổ có thật của con ngƣời hiện diện trong xã hội hiện nay mà nếu ta
không dũng cảm và thẳng thắn thừa nhận, vạch ra để hành động thì hậu quả sẽ là khôn
lƣờng. Ngay trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đây là cuộc chiến đấu khổng lồ
chống lại những cái hƣ hỏng, kiến tạo những cái tốt đẹp. Con đƣờng đến mục tiêu lí
2
tƣởng ấy thật không bằng phẳng, dễ dàng, mà gập ghềnh, quanh co, nhiều rủi ro, bất
trắc; cũng không phải chỉ có thuận buồm xuôi gió mà phải trải qua không ít vấp váp,
sai lầm, lẽ phải và cái mới không phải bao giờ cũng chiến thắng dễ dàng, nhiều khi
phải trả giá bằng cay đắng. Vì lẽ đó, cùng với niềm vui thắng lợi, niềm tin về những
nhân tố mới mẻ, tốt tƣơi đang ngày càng nở rộ, chúng ta còn vô vàn trăn trở vì nhiều
điều cũ kĩ, hƣ hỏng vẫn đang tác oai tác quái trong đời sống xã hội. Chừng nào những
đấu tranh tốt - xấu, thiện - ác, chính - tà vẫn còn diễn ra gay gắt, thì chừng đó cái bi
vẫn còn cơ sở hiện diện. Vì thế nghiên cứu làm rõ về biểu hiện và giá trị của cái bi
trong cuộc sống và nghệ thuật là hết sức cần thiết.
Lí luận mĩ học Mác - Lênin đƣợc các học giả Liên Xô trƣớc đây xây dựng nên
đã trở thành khuôn mẫu, kim chỉ nam cho mĩ học và nghệ thuật nƣớc ta. Không thể
phủ nhận những tác động tích cực từ khối tri thức đồ sộ của lí luận mĩ học Liên Xô
đối với Việt Nam, đặc biệt là hệ thống thuật ngữ, khái niệm, phạm trù trong đó có cái
bi đã trở thành công cụ cho tƣ duy lí luận, nền tảng vững chắc cho nghiên cứu mĩ học.
Tuy nhiên “việc giới thiệu lí luận văn nghệ macxit của ta khá phiến diện đã làm tổn
hại đến một trào lưu lí thuyết về văn học nghệ thuật chứa đựng nhiều chân lí và sáng
tạo” [244, tr.643]. Khuynh hƣớng đối lập, khép kín, ít tiếp cận tƣ tƣởng học thuật
hiện đại, rập khuôn theo lí thuyết cũ, vận hành trong một khung tƣ duy khá chật hẹp
đã khiến sự giao lƣu lí thuyết và nghiên cứu mĩ học bị gián đoạn và dƣờng nhƣ không
đảm đƣơng nổi vai trò “đi trƣớc”, “phƣơng pháp luận” cho nghiên cứu văn học nghệ
thuật. Khung lí luận đó dƣờng nhƣ không bao chứa nổi những vấn đề thẩm mĩ của đời
sống đƣơng đại đặt ra. Vì vậy lí luận và nhận thức về cái bi trong lí luận mĩ học cần
có sự nỗ lực đổi mới và phát triển để đảm nhận đƣợc vai trò của mình.
Mảng văn học nghệ thuật phản ánh cái bi sau năm 1975 có một sự chuyển biến
rất mạnh mẽ trong phƣơng thức thể hiện. Sau chiến tranh, phản ánh cái bi trong văn
học là một yêu cầu chứa đầy tâm huyết và thử thách đối với các nghệ sĩ. Điều này do
văn học hoặc là chỉ phản ánh một chiều, máy móc, dung tục thực tại, phản ánh lại quan
niệm có sẵn; hoặc là việc dự báo tƣơng lai, dự báo những hiện tƣợng xấu, tiêu cực
trong xã hội thƣờng khiến cho nghệ sĩ bị buộc tội bôi đen, gieo rắc hoài nghi, mà chính
điều này đã khiến cho văn nghệ sĩ dè dặt, chƣa phát huy đƣợc sức sáng tạo dồi dào.
Phản ánh mảng thẩm mĩ cái bi trong văn học nhƣ thế nào là một vấn đề cần đƣợc giải
đáp về lí luận để giúp văn học hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, vừa giúp nhận
3
thức về hiện thực cuộc sống, vừa mang đến cho con ngƣời khát vọng Chân - Thiện Mĩ. Lịch sử nghệ thuật đã chứng minh rằng nền nghệ thuật của mỗi thời đại chịu ảnh
hƣởng rất lớn từ những thành tựu lí luận triết học và mĩ học. Bởi vậy nghiên cứu về cái
bi, làm rõ bản chất, biểu hiện và giá trị của nó trong nghệ thuật dƣới góc độ mĩ học là
điều cần thiết chỉ dẫn cho việc sáng tạo hình tƣợng cái bi mang tính thẩm mĩ cao.
Vấn đề cái bi không phải là mới. Đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc,
cái bi đã đƣợc nghiên cứu nhiều ở cả phƣơng diện lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, ở nƣớc
ta lâu nay, nghiên cứu mĩ học phần lớn hƣớng về cái đẹp, cái cao cả, cái bi chƣa thực sự
đƣợc quan tâm đúng mức mà chủ yếu vấn đề chỉ đƣợc trình bày với một dung lƣợng nhỏ ở
hệ thống nguyên lí chung hay rải rác ở một số khía cạnh đan xen vào các vấn đề khác. Cái
bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó chƣa trở thành đối
tƣợng nghiên cứu chuyên biệt và có hệ thống ở một luận văn, luận án nào.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề “Cái bi trong hệ thống phạm trù
mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích:Luận án là làm sáng rõ hơn bản chất thẩm mĩ của cái bi thông qua
việc luận giải các nội dung trong cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với các phạm trù
khác trong hệ thống nhƣ cái đẹp, cái cao cả, cái hài; nhận diện sự biểu hiện của cái bi
trong cuộc sống và trong văn học Việt Nam sau chiến tranh, từ đó rút ra những giá trị
thẩm mĩ của cái bi và đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về giá trị thẩm mĩ
của cái bi.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, phân tích một cách có
hệ thống các quan điểm về cái bi trong lịch sử mĩ học phƣơng Tây và phƣơng Đông,
trong đó có Việt Nam.
- Phân tích bản chất thẩm mĩ và các nội dung của cái bi và mối quan hệ giữa
cái bi với các phạm trù cơ bản khác trong hệ thống phạm trù mĩ học.
- Nhận diện và phân tích các biểu hiện cơ bản và sự chuyển biến, vận động
của cái bi với tƣ cách một hiện tƣợng thẩm mĩ trong đời sống và văn học nghệ thuật
Việt Nam sau chiến tranh.
- Khái quát một số giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với con ngƣời, xã hội và văn
học nghệ thuật.
4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là phạm trù mĩ học cái bi và quan hệ của nó
với các phạm trù mĩ học khác cũng nhƣ những biểu hiện và giá trị của cái bi.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án tiếp cận đối tƣợng và giải quyết nhiệm vụ của luận án trên cơ sở triết
học và mĩ học Mác – Lênin. Hệ thống phạm trù mĩ học rất đa dạng, phong phú, luận án
chỉ đi vào phân tích các khía cạnh quan hệ của cái bi với các phạm trù khách thể cơ bản
của mĩ học là cái đẹp, cái cao cả, cái hài và một số phạm trù phái sinh.
- Biểu hiện của cái bi trong đời sống và nghệ thuật nói chung bao trùm một
phạm vi vô cùng rộng lớn cả về không gian, thời gian và lĩnh vực. Trong nghệ thuật
thì văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt điển hình, dùng ngôn từ làm phƣơng
tiện sắc bén để đi sâu vào các ngóc ngách của cuộc sống và thân phận con ngƣời. Vì
vậy, tác giả chọn đi sâu nghiên cứu biểu biện và giá trị của cái bi trong phạm vi đời
sống và văn học Việt Nam sau chiến tranh (với mốc thời gian là từ 1975 trở lại đây).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phƣơng pháp luận biện chứng duy vật, đề tài sử dụng một số
phƣơng pháp sau:
- Phương pháp logic - lịch sử: Với phạm vi tƣ liệu trong suốt một tiến trình
lịch sử tƣ tƣởng triết học, mĩ học và nghệ thuật, ngƣời viết luôn ý thức đặt đối tƣợng
nghiên cứu trong cả cái nhìn lịch sử để thấy đƣợc logic vận động nội tại trong quan
niệm và biểu hiện của cái bi trong các thời kì lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật.
- Phương pháp hệ thống: Phƣơng pháp này giúp tác giả có cách tiếp cận hợp lí
để nhận diện bản chất thẩm mĩ của cái bi đặt trong hệ thống các phạm trù cơ bản của
mĩ học. Phạm trù cái bi không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ
với các phạm trù mĩ học khác, vừa thống nhất vừa khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này cho phép phân tích để
khái quát các tƣ tƣởng về cái bi trong lịch sử, trên cơ sở đó tổng hợp tạo thành hệ
thống quan điểm để làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện nhất.
- Phương pháp loại hình: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để nhận diện các
khuynh hƣớng trong các tác phẩm văn học sau chiến tranh, làm cơ sở cho việc phân
tích đặc điểm của cái bi biểu hiện trong văn học thời kì này.
- Phương pháp so sánh: Phƣơng pháp so sánh cho phép ngƣời viết nhận diện
sự tƣơng đồng và khác biệt trong quan niệm cũng nhƣ biểu hiện của cái bi ở phƣơng
5
Tây, phƣơng Đông và Việt Nam. Qua đó sẽ thấy những đặc thù trong quan niệm về
cái bi trong nền thẩm mĩ dân tộc. Phƣơng pháp này giúp làm rõ sự khác biệt của hai
lĩnh vực biểu hiện cơ bản của cái bi là trong cuộc sống và văn học nghệ thuật đồng
thời tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt về giá trị thẩm mĩ đem lại của cái bi trong
cuộc sống và trong nghệ thuật.
- Phương pháp liên ngành: Để thực hiện đề tài, ngƣời viết luôn có ý thức vận
dụng những thành tựu của triết học, mĩ học, lí luận và phê bình văn học nghệ thuật,
đạo đức học, tâm lí học và sử học để đạt đƣợc cái nhìn toàn diện nhất.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án:
- Với những kết quả nghiên cứu của mình, luận án góp phần làm phong phú,
hệ thống hóa quan niệm về cái bi, đánh giá, so sánh những quan niệm về cái bi ở
phƣơng Đông (Việt Nam) và phƣơng Tây. Trên cơ sở mĩ học Mác - Lênin và tiếp cận
một số thành tựu có giá trị của mĩ học đƣơng đại đƣa ra hệ thống lí luận về bản chất
và nội dung của phạm trù cái bi, cũng nhƣ mối quan hệ cuả cái nó với các phạm trù
khác trong hệ thống
- Luận án nỗ lực nhận diện và phân tích biểu hiện của cái bi trong đời sống và
văn học Việt Nam sau chiến tranh để thấy đƣợc sự vận động cũng nhƣ chuyển biến
của nó với tƣ cách là một hiện tƣợng thẩm mĩ cơ bản.
- Luận án cũng làm rõ đƣợc giá trị thẩm mĩ của cái bi trên hai phạm vi là sự
phát triển của xã hội và sự nâng cao nhận thức, hoàn thiện nhân cách con ngƣời.
Đồng thời, tác giả cũng phân tích những giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học
nghệ thuật.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lí luận: Với việc làm rõ bản chất, nội dung và vị trí của cái bi trong
hệ thống phạm trù mĩ học, nhất là biểu hiện và giá trị của nó trong đời sống và trong
văn học nghệ thuật, luận án đã làm sâu sắc và phong phú thêm lí thuyết phạm trù cái
bi nói riêng, mĩ học nói chung.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những ngƣời
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy mĩ học, triết học nghệ thuật, những ngƣời làm
công tác quản lí văn hóa nghệ thuật và những ai quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm bao
gồm 4 chƣơng, 11 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu về cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với những
phạm trù khác trong hệ thống phạm trù mĩ học
1.1.1. Những công trình về bản chất thẩm mĩ và nội dung cuả cái bi
Phạm trù cái bi đƣợc nhắc đến trong hầu hết các sách mĩ học. Đây là một
phạm trù mĩ học cơ bản có giá trị thẩm mĩ cao. Bởi thế các học giả có nhiều tranh
luận xung quanh phạm trù này nhƣng họ đều thống nhất trong việc thừa nhận cái bi là
một phạm trù mĩ học cơ bản.
Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học phương Tây:
Trong lịch sử phát triển tƣ tƣởng mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, hầu hết các
thời kì đều có những công trình mang dấu ấn về sự phát triển quan niệm về cái bi.
Tác phẩm đầu tiên cần đƣợc nhắc đến mang ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển lí
luận về cái bi là Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp). Trong tác phẩm này, Aritxtot thể hiện
những quan điểm sâu sắc về bản chất của cái bi mặc dù chỉ chủ yếu thông qua hình
thức nghệ thuật bi kịch.
Thời cận đại, tác phẩm Mĩ học của Heghen đƣợc coi là công trình nghiên cứu
toàn diện và sâu sắc về cái bi kể từ sau Nghệ thuật thơ ca của Aritxtot. Từ lí luận
xung đột, ông đã trình bày các xung đột bi kịch dƣới một hệ thống chặt chẽ và chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử quan niệm về cái bi. Trong Hiện tượng
học tinh thần, Bài giảng lịch sử triết học, Mĩ học, Heghen gọi bi kịch là “ngôn ngữ
cao cấp”, là mặt trăng của nghệ thuật và thâu tóm nó trong toàn bộ nghệ thuật. Trong
tác phẩm Triết học về nghệ thuật, Ph.Senlinh bàn nhiều về bản chất, kết cấu nội tại
của cái bi xảy ra trong cuộc đấu tranh giữa tự do và tất yếu. Quan điểm của Heghen
và Senlinh tuy còn mang yếu tố duy tâm nhƣng cũng chứa đựng nhiều yếu tố biện
chứng. Trecnusepxki thể hiện quan điểm đối lập với Heghen thể hiện trong Luận án
tiến sĩ Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực khi coi bi kịch không mang
tính tất yếu mà hoàn toàn là kết quả của cái ngẫu nhiên. Ở công trình này, Trecnusepxki
nêu quan điểm về cái đẹp là cực kì sâu sắc nhƣng về cái bi, ngoài ƣu điểm về tính nhân
dân thì dƣờng nhƣ lại mang nhiều hạn chế hơn so với quan niệm của Heghen.
7
Thời hiện đại, Karl Jaspers trong tác phẩm Bàn về cái bi đã thể hiện thực chất
của cái bi trong quan hệ thắng và bại của ông, chiến thắng không thuộc về kẻ thắng
mà thuộc về kẻ bại vì kẻ chiến thắng bề ngoài nhƣng hèn kém bên trong. Xét đến
cùng, thực chất không có gì chiến thắng thật sự khi so sánh với cái Siêu việt. Bi kịch dẫn nhập ngắn của Adrian Poole đã giải quyết đƣợc nhiều vấn đề phức tạp của cái bi,
nguồn gốc của cái bi. Sự ra đời của bi kịch của Nietzsche gợi mở con đƣờng đánh giá
các ý niệm về cái bi là phản ứng của hệ tƣ tƣởng tƣ sản trƣớc các mâu thuẫn xã hội
ngày càng trở nên gay gắt.
Triết học và mĩ học Phương Tây hiện đại (1992) của Nguyễn Hào Hải, Đỗ
Huy, Nguyễn Văn Huyên đã đề cập đến một số trào lƣu mĩ học phƣơng Tây hiện đại
để phát hiện ra những cái đƣợc và cái không đƣợc, cái cần tiếp thu và cái cần khƣớc
từ của các trào lƣu, khuynh hƣớng đó. Ở một góc độ nào đó thì công trình đã một
phần khắc phục đƣợc hai khuynh hƣớng cực đoan hoặc phủ nhận hoàn toàn hoặc tán
dƣơng thái quá trong nghiên cứu mĩ học phƣơng Tây hiện đại nói chung và cái bi
trong mĩ học phƣơng Tây hiện đại nói riêng. Cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái
Đỉnh (2005) và Triết học hiện sinh của Đỗ Minh Hợp (2010) khẳng định triết học
hiện sinh là sự phản ứng lại cuộc khủng hoảng nhân văn, dạy ta suy nghĩ về bi kịch
thân phận con ngƣời trong xã hội hiện đại.
Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học Phương Đông:
Cuốn Tư tưởng mĩ học Phật giáo của Thích Tâm Thiện cho rằng, Phật giáo
quan niệm về cái bi không quy ƣớc cho định mệnh hay chuyện số phận mà nó hiện ra
ở chỗ “Biết” và “Không biết”. Tác giả lí giải quan niệm đó qua câu chuyện “Đứa con
hoang” trong Kinh Pháp Hoa thể hiện mâu thuẫn khắc nghiệt giữa sự bần cùng và sự
giàu có - một mâu thuẫn rất điển hình dẫn đến những bi kịch trong xã hội Ấn Độ phân
chia đẳng cấp nặng nề. Bài viết Mĩ học của Phật giáo của Hoàng Thiệu Khang coi
Đức Phật là nhà mĩ học của thể nghiệm thẩm mĩ thông qua một chủ thể mang biện
chứng thẩm mĩ nội tại. Bài viết này đã tạo ra một cách tiếp cận mới với những vấn đề
xung đột bi kịch ở phƣơng Đông, đặc biệt trong mĩ cảm Phật giáo với những nét khác
biệt so với những quan niệm theo chuẩn của phƣơng Tây.
Trung Quốc có một nền lí luận mĩ học và văn học nghệ thuật cực kì phong phú
và đồ sộ không kém gì lĩnh vực sáng tác và ảnh hƣởng rất sâu sắc đến Việt Nam. Tuy
8
vậy, những tác phẩm ƣu tú của Trung Quốc nhƣ Nhạc kí của Công Tôn Ni Tử, Văn
phú của Lục Cơ, Văn tâm điêu long của Lƣu Hiệp, Thi phẩm của Chung Vinh, Tùy
viên thi thoại của Viên Mai còn ít đƣợc dịch ra tiếng Việt. Khâu Chấn Thanh - Lí
luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc là cuốn sách có tính phổ cập nhƣng
cũng không kém phần thú vị sâu sắc giới thiệu tƣơng đối có hệ thống về lí luận mĩ
học, văn học nghệ thuật Trung Quốc.
Bốn bài giảng mĩ học của Lí Trạch Hậu (2000) cũng có ít nhiều bàn về phạm
trù cái bi nhƣng còn mờ nhạt. Tác giả Chu Quang Tiềm trong hai cuốn sách Tâm lí
học bi kịch, Khoảng cách cuộc đời và bi kịch, hay tác giả Khấu Bằng Trình trong
cuốn Luận về tinh thần bi kịch của Trung Quốc cũng bàn về bản chất của phạm trù
cái bi. Những công trình này hình thành hai hƣớng nhận định khác nhau về sự tồn tại
của cái bi trong mĩ học và nghệ thuật Trung Quốc: Thứ nhất là quan điểm cho rằng
ngƣời Trung Quốc không có bi kịch đích thực vì khởi đầu thì bi kết thúc thì hoan hỉ,
đoàn tụ, thể hiện ở quan điểm của Vƣơng Quốc Duy trong Hồng lâu mộng bình luận
và tƣ tƣởng của Chu Quang Tiềm trong Tâm lí học bi kịch, Khoảng cách giữa cuộc
đời và bi kịch. Quan điểm này có những lí giải hợp lí nhƣng có phần cực đoan trong
kết luận. Thứ hai là quan điểm thừa nhận sự tồn tại cái bi trong mĩ học và nghệ thuật
Trung Quốc thể hiện qua tác giả Khấu Bằng Trình trong Luận về tinh thần bi kịch của
Trung Quốc. Quan điểm này thể hiện sự khách quan và toàn diện hơn trong đánh giá.
Các cuốn Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II) của Trƣơng Chính; Lịch sử
mĩ học Trung Hoa thời phong kiến của Phạm Quang Trung đã hệ thống hóa lịch sử tƣ
tƣởng thẩm mĩ Trung Hoa thời phong kiến qua các trƣờng phái triết học - mĩ học cơ
bản, trong đó phân tích quan điểm về cái bi trong mĩ học Trung Quốc.
Trong các bài: Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ thuật của người Nhật
do Phong Vũ dịch (1996), bài Mĩ học Kawabata Yasunari của Khƣơng Việt Hà (2006), bài
Mĩ học Mono No Aware và văn chương Nhật Bản của Lê Thị Thanh Tâm (2012) đề cập
đến khái niệm “Aware” (bi cảm) và “mono no aware” (nỗi buồn của sự vật). Đây là những
khái niệm hàm chứa gần nhƣ đầy đủ những tinh hoa và nghịch lí trọng yếu của tâm hồn
Nhật Bản, là khái niệm đƣợc cắt nghĩa một cách phức tạp nhất bao hàm nhiều sự đối
nghịch, mâu thuẫn tạo ra nhiều tranh biện trong giới học thuật Nhật Bản và thế giới, đồng
thời là nhân tố góp phần tạo nên sự phong phú của hệ thống lí luận mĩ học phƣơng Đông.
9
Những công trình trên giúp tái hiện một bức tranh tƣ tƣởng thẩm mĩ về cái bi ở
cả phƣơng Tây và phƣơng Đông để tác giả có thể khái quát mạch nguồn phát triển
quan niệm về cái bi trong lịch sử tƣ tƣởng mĩ học của nhân loại.
Các công trình bàn về cái bi trong mĩ học Việt Nam:
Có quan điểm cho rằng trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam không có cái
bi và cái hài hay bi kịch và hài kịch. Nhà nghiên cứu Trần Trí Trắc, khi bàn về cái bi,
cái hài trong nghệ thuật chèo cổ cho rằng, ở nghệ thuật truyền thống nói chung và
chèo cổ nói riêng “không thể có cái bi, cái hài theo đúng nguyên lí của mĩ học
phương Tây”, “ai gán ghép cho Chèo cổ thành loại hình có các thể tài bi kịch, hài
kịch là sai lầm, hoặc ở chèo cổ có sự kết hợp hài hòa đến tuyệt diệu giữa cái hài với
cái bi và thành một thuộc tính phẩm chất độc đáo của Chèo thì càng vô lí”. Ông đã
tìm cách lí giải cho vấn đề đó: “Cái sống và cái chết của người Đại Việt rất gần gũi
nhau trong văn hóa, cho nên, người Đại Việt... không xem cái chết là kẻ thù của cái
sống... mà là tìm thấy giá trị của cái chết trong cái sống, trong thực tại để được thăng
hoa cái chết của mình ở thế giới tâm linh…Như vậy, không thể có cái gọi là bi kịch,
hài kịch ở văn học nghệ thuật nói chung và ở Chèo cổ nói riêng...Ở Chèo cổ, không
có cái bi và cái hài, thậm chí, không có cả tính bi lẫn tính hài nữa. Vì không có cái bi
thì làm sao có tính bi, không có cái hài thì làm sao có tính hài?... Kết thúc có hậu đã
như một phương tiện phủ định quan niệm về cái bi với cái hài của Chèo cổ” (Trong
bài Bàn về cái bi cái hài trong chèo cổ đăng tải trên trang vnmusic.com.vn
ngày16/1/2013).
Nhà nghiên cứu Mịch Quang đã thể hiện quan điểm đối lập với quan điểm trên
trong cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc. Tác giả đã giới thiệu nền văn hóa nghệ thuật
của dân tộc ta qua việc liên kết chặt chẽ với các phạm trù: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
hậu, cái nhu, cái động. Đối tƣợng chính của công trình này là tƣ tƣởng mĩ học trong
nghệ thuật dân gian, chỉ lƣớt qua chứ không đi sâu vào mĩ học trong đời sống. Tác
giả rất quan tâm đến phạm trù cái bi trong các phạm trù mĩ học dân tộc và đặc biệt là
đã có những phát hiện sâu sắc về sự khác biệt giữa cái bi trong quan niệm thẩm mĩ
của văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc Việt Nam so với cái bi trong truyền thống mĩ
học phƣơng Tây. Tác giả đã đề cập tới sự vắng bóng cái bi tuyệt đối mà chỉ có cái bi
có hậu, bi hùng. Qua cách tiếp cận này, tác giả cũng đã nhắc nhở ngƣời nghiên cứu mĩ
học dân tộc tránh khỏi bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn phƣơng Tây và cả những tiêu
10
chuẩn quá cụ thể của dân tộc phƣơng Đông khác. Tác giả Mịch Quang đã mạnh dạn
phác họa một nền mĩ học ẩn chứa trong truyền thống nghệ thuật dân tộc, đƣợc bắt
nguồn trong sáng tạo nghệ thuật của ngƣời dân Việt Nam từ thuở xa xƣa còn lƣu truyền
đến ngày nay. Ông nêu lên các phạm trù mĩ học dân tộc gồm cái đẹp bắt nguồn từ quan
niệm dân gian. Tác giả kết luận nền mĩ học dân tộc ta không tồn tại cái bi tuyệt đối mà
chỉ có cái bi có hậu hoặc bi hùng, bi hài.
Tư tưởng mĩ học Hồ Chí Minh của Cù Huy Chử là công trình khái lƣợc những
di sản nghệ thuật của Hồ Chí Minh, bƣớc đầu luận giải những quan điểm mĩ học
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh từ đó nêu lên một số vấn đề lí luận về sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự khảo sát trên cho thấy, bàn về cái bi trong mĩ học dân tộc đã có một số
công trình, song vẫn là một khoảng trống cần đến những hƣớng đi sâu nghiên cứu.
Tác giả mong muốn có những đóng góp về mảng này trong luận án của mình.
Những công trình đề cập đến bản chất và nội dung của cái bi trên lập trường
mĩ học Mác – Lênin:
C.Mác và Ph.Ăngghen không để lại một tác phẩm nào có tính hệ thống bàn về
mĩ học. Tuy nhiên những quan điểm triết học và mĩ học của các ông đã làm cơ sở cho
các nhà mĩ học macxit xây dựng hệ thống của mình. Trong Bức thư gửi Latxan (1859),
bàn về vở bi kịch Phơrranxơ Phôn Dickinghen của Latxan, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thể hiện quan niệm về bản chất của bi kịch từ sự khái quát và giải thích theo quan điểm
duy vật lịch sử, nghiên cứu toàn diện các xung đột xã hội dẫn đến bi kịch và đƣa ra
những khuyến nghị về nguy cơ vi phạm những nguyên tắc căn bản của việc tôn trọng
hiện thực trong việc hoàn mĩ hóa các nhân vật trong những vở bi kịch cách mạng.
Phần lớn các công trình về mĩ học, giáo trình mĩ học của các nhà mĩ học
macxit của Liên Xô trƣớc đây đều dựa trên lập trƣờng chủ nghĩa duy vật lịch sử để
phân tích bản chất của cái bi. Trong đó đáng chú ý có: Nguyên lí mĩ học Mác - Lênin
của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (1963), Những phạm trù mĩ học cơ bản của
Iu.B.Bôrep
(1974),
Nguyên
lí
mĩ
học
Mác-Lênin
của
UI.A.Lukin
và
V.C.Xcacherosikop (1984), Tài liệu tham khảo mĩ học của B. Riwnicốp, M.B.
Khraptrenco (1984) với Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Cuốn Mĩ học cơ
bản và nâng cao, Mĩ học Mác-Lênin của M.F. Ôpxiannhicop (2001)…
11
Những công trình trên đã trình bày nguồn gốc, bản chất của cái bi trong hệ thống
nguyên lí chung của mình, mặc dù có đôi nét khác nhau trong cách tiếp cận nhƣng phần
lớn là thống nhất trên quan điểm mĩ học Mác - Lênin. Đây là những tài liệu rất quý báu
để giới nghiên cứu mĩ học trong nƣớc kế thừa để xây dựng hệ thống phạm trù mĩ học của
mình. Tuy nhiên, với sự biến đổi nhanh chóng của đời sống và lí luận, chúng ta dễ dàng
nhận thấy hạn chế của những quan niệm trên. Có khi quá nhấn mạnh đến nội dung đấu
tranh giai cấp, ngay cả bi kịch của cá nhân cũng phải tìm cách quy về những nguyên
nhân của vấn đề giai cấp. Điểm nhìn này khiến nhiều mâu thuẫn trong nội bộ chính
chúng ta, những bi kịch cá nhân trong những thực thể ngƣời tốt xấu đan xen phức tạp
chƣa đƣợc lí giải đúng mức. Những đánh giá có phần thiếu công bằng, khách quan đối
với các thành tựu mĩ học phƣơng Tây hiện đại. Trong Những phạm trù mĩ học cơ bản,
Bôrep đã có những nhận xét phủ nhận hoàn toàn các giá trị của cái bi trong mĩ học hiện
sinh, coi đó là cái phi bi kịch - thói tán dƣơng cái chết, niềm tuyệt vọng, thuyết giáo về
sự vô nghĩa của cuộc sống. Ông chỉ thấy ở đó những tiêu cực, bi quan, sa đọa mà không
nhận thấy những xung đột giằng xé trong sâu thẳm lƣơng tri, khát vọng sống của con
ngƣời muốn phản kháng lại hiện thực còn nhiều đen tối, đặc biệt là hiện thực chiến tranh
quá khốc liệt. Sau này, Những nhận xét về mĩ học của chủ nghĩa hiện sinh của nhà
nghiên cứu Vectxman là công trình có giá trị thể hiện cách tiếp cận khá khách quan, công
bằng và thấu đáo những quan điểm mĩ học đặc biệt là quan điểm về cái bi của các nhà
triết học hiện sinh.
Về các giáo trình mĩ học ở trong nước: Có thể kể đến các công trình của các
tác giả nhƣ sau: Mĩ học đại cương (1996), Giáo trình Mĩ học Mác - Lênin (1985) của
Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy; Giáo trình mĩ học của Hoài Lam (1991), Mĩ học và giáo dục
thẩm mĩ (1998), Mĩ học Mác - Lênin của Vũ Minh Tâm, Những nguyên lí cơ bản của mĩ
học Mác - Lênin của Nguyễn Văn Trung (1990), Giáo trình Mĩ học đại cương (2001)
của tác giả Nguyễn Văn Huyên và Đỗ Huy; Mĩ học - Khoa học về các quan hệ thẩm
mĩ của Đỗ Huy (2000); Giáo trình Mĩ học Mác - Lênin của Đỗ Huy, Vũ Trọng Dung
(2001); Mĩ học đại cương của Đào Duy Thanh (2002), Mĩ học Mác - Lênin (2003) của
Vĩnh Quang Lê, Mĩ học đại cương của Lê Ngọc Trà (2003), Giáo trình mĩ học Mác Lênin của Vũ Trọng Dung (2003); Mĩ học Mác - Lênin của Nguyễn Văn Đại (2006), Mĩ
học đại cương của Thế Hùng (2006), Mĩ học đại cương của Lê Văn Dƣơng (2007), Mĩ
học của Phạm Quang Trung (2010). Từ Giáo trình Đại cương về những khuynh hướng
12
cơ bản trong lịch sử Mĩ học, tác giả Đỗ Huy đã khái quát quá trình nghiên cứu mĩ học
trong đó có phạm trù cái bi ở những khuynh hƣớng mĩ học khác nhau trong lịch sử.
Lịch sử mĩ học của Đỗ Văn Khang cũng đã có những nét chấm phá về những quan
niệm về cái bi trong lịch sử tƣ tƣởng mĩ học, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật.
Ngoài các giáo trình mĩ học còn một số công trình đề cập đến khái niệm cái bi và bi
kịch: Từ điển triết học giản yếu, Lí luận văn học, Từ điển triết học, Thuật ngữ văn
học - mĩ học, Từ điển thuật ngữ văn học.
Ở nƣớc ta, số lƣợng giáo trình mĩ học là khá phong phú. Khảo sát các công
trình này cho thấy tuy cách tiếp cận cụ thể là có sự khác nhau, nhƣng về quan điểm
chung thì hầu hết đều dựa chủ yếu trên nền tảng quan điểm của mĩ học Mác - Lênin.
Tất cả các cuốn giáo trình này đều thống nhất thừa nhận cái bi là một phạm trù mĩ
học cơ bản và có quan điểm chung về bản chất, nguồn gốc của cái bi. Nhƣng trong
hầu hết những công trình này, dung lƣợng cũng nhƣ nội dung bàn về bản chất thẩm
mĩ của cái bi còn dừng lại ở sự khái lƣợc chung, dung lƣợng không đáng kể, chƣa đi
sâu vào phân tích những mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, tất nhiên và ngẫu
nhiên, cái chung và cái riêng trong cái bi để có thể đƣa ra sự nhận thức một cách toàn
diện và sâu sắc về phạm trù không dễ tiếp cận này.
Bản chất thẩm mĩ của cái bi trong khoa học mĩ học của Nguyễn Duy Cƣờng
(2013) là một công trình dành riêng bàn về phạm trù cái bi trong đó tác giả chủ yếu đi
vào giới thiệu lịch sử nghiên cứu phạm trù cái bi ở cả phƣơng Tây và phƣơng Đông
(Trung Quốc) hơn là đƣa ra những kiến giải mang tính hệ thống lí luận chặt chẽ về
bản chất thẩm mĩ của cái bi.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa cái bi và các phạm
trù mĩ học khác
Để có thể làm rõ hơn nội hàm cũng nhƣ những nội dung cụ thể của khái niệm
cái bi và phân biệt cái bi với tƣ cách một phạm trù mĩ học, cần phân tích mối quan hệ
giữa cái bi và các phạm trù cơ bản của mĩ học: cái đẹp, cái cao cả và cái hài. Trong
hầu hết các giáo trình mĩ học trong nƣớc đã nêu ở trên đều có bàn đến khía cạnh mối
quan hệ thẩm mĩ giữa cái bi và các phạm trù mĩ học khác (đặc biệt là cái đẹp) nhƣng
chỉ thể hiện ở những điểm nhỏ và khá mờ nhạt.
Trong Kỷ yếu hội nghị Cái anh hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác Lênin có nhiều ý kiến bàn luận về mối quan hệ giữa cái bi và cái anh hùng. Tuy nhiên phần
13
lớn các ý kiến ở đây nêu lên sự khác biệt giữa hai phạm trù này, chƣa thấy rõ mối quan hệ
bền chặt và sự giao thoa của hai phạm trù này, chẳng hạn: “cái hùng nào cũng là cái đẹp
nhưng chẳng cái hùng nào lại là cái bi cả”, “khi hành động anh hùng còn đang diễn ra thì
lúc này cái bi chưa xảy ra” [138, tr.81].
Từ xu thế dân chủ hóa đến đổi mới quan niệm về hiện thực trong văn học,
nghệ thuật đã dẫn tới sự thừa nhận cái bi, cái hài nhƣ hai phạm trù phải tồn tại
song song trong nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài
Văn học Việt Nam trước và sau 1975 - nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện thực (trích
trong Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb
Giáo dục, 2006) trực diện hơn khi đề cập đến những biểu hiện thẩm mĩ của văn
học đổi mới trong sự so sánh lịch sử. Tác giả đƣa ra định đề “Cái hài bên cái bi và
một giai đoạn mới của văn học” để khái quát đặc trƣng thẩm mĩ nổi bật của văn
học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng. Ông viết: “Thế nhưng dẫu toàn bộ
nền văn học mới đã chuyển sang âm điệu nghiêm trang, thì cuộc sống, trong lẽ tồn
tại bình thường của nó lúc nào cũng cần có cái hài và tiếng cười” [147, tr.96].
Ông cho rằng sự “nghiêm trang” của văn học cách mạng “dần dần trở thành
không tự nhiên”, bởi “cái cười, nhu cầu cười” là một nhu cầu bình thƣờng của
cuộc sống: “Nhu cầu trở lại bình thường ấy dường như đã diễn ra vào thập niên
cuối của thế kỉ XX, tính từ công cuộc đổi mới” [147, tr.96]. Phong Lê cũng đã nói
đến một “hệ thẩm mĩ mới”, và theo ông cái hài và cái bi chính là một cặp tạo nên
sự cân đối, hài hoà cho hệ thẩm mĩ mới ấy.
Cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc của Mịch Quang cũng có đề cập đến mối
quan hệ của cặp phạm trù này trong những hình thức nghệ thuật đặc thù của dân tộc.
Tác giả cũng bàn đến mối quan hệ giữa cái bi với cái anh hùng, cái bi với cái hài
trong nghệ thuật dân gian dân tộc. Nếu tuồng là nền sân khấu tiêu biểu cho cái bi
hùng thì chèo lại tiêu biểu cho cái bi hài.
Những công trình bàn về mối quan hệ giữa cái bi và những phạm trù mĩ học
khác trong hệ thống nêu trên còn chƣa thật sự đề cập sâu đến vấn đề này hoặc
nghiêng nhiều về biểu hiện mối quan hệ này trong nghệ thuật. Vì thế trong luận án
tác giả sẽ tiếp cận hệ thống để làm rõ mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù
mĩ học khác.
14
1.2. Tình hình nghiên cứu về biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong
văn học Việt Nam (sau năm 1975)
Hầu hết các sách dƣới dạng giáo trình hay ở hệ thống lí luận chung theo quan
điểm mĩ học Mác - Lênin đều ít nhiều đề cập đến vấn đề các lĩnh vực biểu hiện cụ thể
của cái bi. Mức độ chi tiết cụ thể có thể khác nhau nhƣng hầu hết đều nhìn nhận các
lĩnh vực biểu hiện của cái bi trên hai phƣơng diện chủ yếu: trong cuộc sống và trong
nghệ thuật.
1.2.1. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt
Nam (sau năm 1975)
Trong cuốn Mĩ học đại cương, Đỗ Văn Khang đã đƣa ra nhiều dạng thức biểu
hiện của cái bi trong đời sống nhƣ: bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trƣờng đen
tối, bi kịch của các nhân vật chết trƣớc bình minh, bi kịch của cái cũ, bi kịch của chính
cái xấu, bi kịch của sự nhầm lẫn, ngu dốt, bi kịch của những khát vọng con ngƣời.
Trong hầu hết các cuốn giáo trình mĩ học trong nƣớc đều đề cập đến biểu hiện của cái
bi trong cuộc sống ở những mức độ khác nhau song còn dừng lại ở lí luận chung chƣa
đi vào phân tích những biểu hiện cụ thể của cái bi trong đời sống xã hội hiện đại, đặc
biệt là ở Việt Nam.
Cuộc tranh luận về cái bi ở Việt Nam cuối những năm 60, 70 có hai luồng ý
kiến: Thứ nhất là quan điểm cho rằng ở nƣớc ta không còn mâu thuẫn đối kháng giai
cấp nữa cho nên không còn cơ sở cho sự xuất hiện của cái bi. Cũng trong Kỷ yếu hội
nghị Cái anh hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác - Lênin có nhiều ý kiến
cho rằng trong sự phát triển tốt đẹp của xã hội ta hiện nay, cái bi sẽ mất dần vị trí và
thay vào đó là sự lên ngôi của cái anh hùng, các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong đó có
Việt Nam không còn giai cấp đối kháng, không còn ngƣời áp bức, bóc lột ngƣời,
“điều này góp phần quan trọng vào việc làm cho cái bi đang phải nhường vị trí phạm
trù cơ bản nổi bật nhất cho cái hùng” [138, tr.83]. Theo lập luận của các tác giả, nội
dung chủ yếu của cái bi là đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Ở các nƣớc xã hội
chủ nghĩa vấn đề này đã đƣợc giải quyết cơ bản nên dần sẽ không còn cái bi. Ý kiến
này dƣờng nhƣ mang tính chủ quan, chƣa cảm nhận thật sự sâu sắc về những khó
khăn phức tạp trên con đƣờng mà dân tộc ta đang trải qua. Thứ hai là luồng ý kiến
cũng xuất phát từ thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay khẳng định
cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa thấp hèn vẫn chƣa
chấm dứt thì cái bi vẫn còn cơ sở để tồn tại.
15
Nhiều công trình đã đề cập đến những vấn đề còn tồn tại, những mâu thuẫn
thậm chí là xung đột vẫn còn diễn ra gay gắt trên nhiều mặt của đời sống xã hội nhƣ:
Xung đột xã hội: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt Nam của Võ Khánh Vinh,
Nguyễn Mạnh Kháng, Lê Văn Cƣơng, Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt
Nam hiện nay - Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Đắc Hiến (2008), Xung đột xã hội
về đất đai ở nông thôn thời kì đổi mới - Luận án tiến sĩ Xã hội học của Phan Văn Tân
(2001), Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục của Nguyễn Đình Tƣờng (Tạp chí Triết
học số 6 năm 2002), Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây dựng lối sống
mới ở nước ta hiện nay của Võ Văn Thắng (Tạp chí Triết học số 8 năm 2005), Công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ giác độ mâu thuẫn của quá trình phát
triển của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Triết học số 10 năm 2005), Thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam: mâu thuẫn và phương pháp giải quyết của Nguyễn Tấn
Hùng, Lê Hữu Ái (Tạp chí Triết học số 4 năm 2008); Mâu thuẫn giữa người với
người: một số nội dung cơ bản của Nguyễn Ngọc Hà (Tạp chí Triết học số 10 năm
2010). Đây là những công trình đề cập đến một khía cạnh nào đó về những mâu
thuẫn, xung đột đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay. Tuy nhiên, sự đề cập này chỉ ở
góc độ triết học, xã hội học chứ chƣa đề cập một cách trực diện về những mâu thuẫn
đang tồn tại trong xã hội có nguy cơ trở thành những bi kịch nếu chúng ta không nỗ
lực giải quyết. Dƣờng nhƣ về góc cạnh này, mảng lí luận còn khá dè dặt và chƣa thật
sự “nói hết”. Luận án mong muốn sẽ góp phần vào mảng lí luận này dƣới góc độ cái
bi mĩ học, nhận diện trực tiếp những biểu hiện xung đột đã, đang và sẽ có thể gây ra
bi kịch trong xã hội Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam
(sau năm 1975)
Văn học trong chiến tranh đƣợc nhìn nhận dƣờng nhƣ vắng bóng cái bi thuần
túy bởi một nhu cầu thẩm mĩ chính đáng trong thời đại của cái anh hùng. Không khó
lí giải về sự thiếu vắng này trong hoàn cảnh chiến tranh khi tất cả cùng hƣớng về
một mục tiêu: phải chiến đấu và chiến thắng. Đất nƣớc đã hòa bình gần 40 năm, sẽ
là có lỗi với quá khứ và thiếu trách nhiệm với tƣơng lai nếu chúng ta bỏ qua một sự
thật làm nên một phần bộ mặt của cuộc sống hôm qua và hôm nay. Nhà văn Hồ
Phƣơng bàn đến sự trở về của nguyên lí: “Văn học là nhân học” với sự khai thác cái
16
bi trong văn học nghệ thuật. Trong bài viết Những tìm tòi không mệt mỏi, ông cho
rằng “chính trong những bi kịch con người đã bộc lộ rõ hơn, đầy đủ và thật hơn, tất
cả bản lĩnh cũng như phẩm giá, qua những bi kịch ấy chúng ta mới thấy hết được
cái giá của chiến thắng” [158].
Sau năm 1975, vẫn còn những ý kiến băn khoăn về những hiện tƣợng “khác”
và “lạ” trong văn học phản ánh cái bi trong chiến tranh nhƣ quan điểm của Trần Hữu
Tá: “Việc một số nhà văn nghiêng về thể hiện “những số phận cá nhân” mà làm mờ
đi vận mệnh dân tộc” là hiện tượng cần uốn nắn” [174, tr.122]. Trong Văn xuôi về
chiến tranh - hai giai đoạn của sự phát triển, Đinh Xuân Dũng cho rằng từ khoảng
đầu thập kỉ 80 đến giữa thập kỉ 90, văn xuôi viết về chiến tranh đang tồn tại đồng thời
ba xu hƣớng: Giữ “tạng” viết cũ, nhìn méo chỉ thấy hiện thực bi thảm là duy nhất,
nhƣng khuynh hƣớng chính là “khám phá và đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất
trong chiến tranh và sau chiến tranh do sự tác động dai dẳng của chiến tranh trong
đời sống của từng cá nhân và toàn xã hội” [33, tr.95].
Trên Báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam (số 49
&50, ra ngày 5/12/1987), Nguyễn Minh Châu cho in bài phát biểu nổi tiếng Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Bài báo vừa là tuyên ngôn lí thuyết,
vừa thể hiện tinh thần đổi mới văn học hết sức triệt để của giới sáng tác. Nguyễn
Minh Châu kêu gọi Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa và đặt
vấn đề “khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp
nhận sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri các nhà văn” [16, tr.116]. Vấn
đề mà Nguyễn Minh Châu nêu ra đã nhận đƣợc sự hƣởng ứng từ đông đảo văn nghệ
sĩ. Có thể nói, từ cuối 1987, đối thoại với những giá trị đƣợc mặc định, với những
niềm tin quen thuộc đƣợc thừa nhận, tự do sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ không còn là
vấn đề quá nhạy cảm. Trong bầu không khí cởi mở dân chủ của đời sống văn học sẽ
tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo với quan niệm mới về nhà văn, đến sự thay
đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con ngƣời, đến sự thay đổi thi pháp thể
loại của các thế hệ nhà văn Việt Nam.
Có hai cuộc hội thảo lớn thu hút sự tham gia rất đông đảo của cả giới sáng tác,
lẫn giới nghiên cứu phê bình: Thứ nhất, xoay quanh đề tài về mối quan hệ giữa văn
nghệ và chính trị. Thứ hai, tập trung vào đề tài văn học phản ánh hiện thực. Văn học
- Xem thêm -