Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. liên hệ việt nam...

Tài liệu Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. liên hệ việt nam

.PDF
10
102
102

Mô tả:

1 BÀI THẢO LUẬN MÔN NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Nhóm 5 Thành viên:  ­ Nguyễn Thị Thảo Ngân (nhóm trưởng) ­ Lê Thị Phương Thảo ­ Trần Thị Hoàn ­ Thiều Thị Hường (thư ký) ­ Trần Thị Lan Hương ­ Hoàng Minh Nhật ­ Tạ Minh Anh ­ Mai Thị Ngoan ­ Trần Thị Huyền ­ Vũ Thị Thu Thúy ­ Nguyễn Thị Khánh Trinh 2 Đề  tài: Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài. Liên hệ  Việt  Nam. Bài làm: Lợi ích và bất lợi của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài I. 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Khái niệm Đầu tư  trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt  là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước   khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước   ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư  từ  một nước   (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)   cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ  để  phân biệt   FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư   lẫn tài sản mà người đó quản lý  ở  nước ngoài là các cơ  sở  kinh doanh. Trong   những trường hợp đó, nhà đầu tư  thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các   tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". b. Nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có  sự  khác nhau về năng suất  cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng  thêm một đơn vị  của yếu tố  sản xuất)của  vốn giữa các nước. Một nước thừa  vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có  năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ  dẫn đến sự  di chuyển dòng vốn  từ  nơi dư  thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản  xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như  vậy không có nghĩa là tất cả  những hoạt động nào có năng suất cận biên cao  3 mới được các Doanh nghiệp đầu tư sản xuất mà cũng có những hoạt động quan  trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ  vẫn tự  sản xuất cho dù hoạt động  đó cho năng suất cận biên thấp. Chu kỳ sản phẩm Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống  của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới;  giai   đoạn   sản   phẩm   chín   muồi;   giai   đoạn   sản   phẩm   chuẩn   hóa.   Akamatsu   Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở  nước   đầu   tư,   sau   đó   mới   được xuất   khẩu rathị   trường nước   ngoài.   Tại  nước nhập khẩu,  ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị  trường bản  địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để  thay thế  sản phẩm   nhập khẩu này bằng cách chủ  yếu dựa vào vốn, kỹ  thụât của nước ngoài(giai   đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị  trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn sản   phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình   thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai   đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ  phát triển của mình cũng là lúc thị  trường sản  phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp.  Ở  giai đoạn này, sản phẩm ít được cải   tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó   dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để  các nhà cung cấp  chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp  hơn. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia Stephen H. Hymes (1960, công bố  năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman  A. A. (1987) và một số  người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những  lợi thế  đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những  trở  ngại về  chi phí  ở  nước ngoài nên họ  sẵn sàng đầu tư  trực tiếp ra nước  ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có  các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế  đặc  thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế  lớn về  vốn và công  nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường   là thị trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này! Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư  trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để  tránh xung đột thương  mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do  4 Nhật Bản có thặng dư  thương mại còn các nước kia bị  thâm hụt thương mại  trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp   vào các thị  trường đó. Họ  sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ  và châu   Âu, để  giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ  Nhật Bản sang. Họ  còn đầu tư  trực tiếp vào các nước thứ  ba, và từ  đó xuất khẩu sang thị  trường Bắc Mỹ  và   châu Âu. Tiếp cận và chuyển giao công nghệ Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ  nước phát triển hơn sang nước kém phát  triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa.  Nhật Bản là nước  tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ  để  khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ,  các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng  các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không  chỉ  Nhật Bản đầu tư  vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có  chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư  trực tiếp ra nước  ngoài, trong đó có đầu tư  vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung   Quốc là Lenovo mua bộ  phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc  gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận  công nghệ  sản xuất máy tính  ưu việt của IBM. Hay việc  TCL (Trung Quốc)  trong   sáp   nhập   với   Thompson   (Pháp)   thành TCL­Thompson   Electroincs,  việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu  lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để  có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư  vào   những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước  ngoài lớn đầu tiên củaNhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của  Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. 2. Hình thức đầu tư a. Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua  sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới  ở  nước nhận đầu tư. Hình  thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. Mua lại và sáp nhập 5 Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có  vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể  đang hoạt động  ở  nước nhận đầu tư  hay  ở  nước ngoài) mua lại một doanh   nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới   tăng khối lượng đầu tư vào. b. Phân theo tính chất dòng vốn Vốn chứng khoán Nhà đầu tư  nước ngoài có thể  mua  cổ  phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do  một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào  các quyết định quản lý của công ty. Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể  dùng lợi nhuận thu được từ  hoạt động kinh  doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể  cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. c. Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào  ở  nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể  kém về  kỹ  năng nhưng giá   thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ  năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn   nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như  các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ  của   nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài  nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp  ở  nước   tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như  điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh   doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,điều kiện pháp lí v.v... Vốn tìm kiếm thị trường 6 Đây là hình thức đầu tư  nhằm mở  rộng thị  trường hoặc giữ thị trường khỏi bị  đối thủ  cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư  này còn nhằm tận  dụng các hiệp định hợp tác kinh tế  giữa nước tiếp nhận với các nước và khu  vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu   vực và toàn cầu. 3. Lợi ích của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư  trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế  VN từ  tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản  xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước   ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước góp phần thúc đẩy   chuyển giao công nghệ tiên tiến vào VN trong một số ngành kinh tế quan trọng   của đất nước như viễn thông, khí hòa dầu,tin học, ô tô..... Trước hết ta phải khẳng định là: Đầu tư  nước ngoài đem lại nhiều lợi ích cho   thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là những nước đang phát triển như VN. Đem lại nguồn vốn để  phát triển kinh tế: Trong các lí luận về tăng  trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế  muốn tăng trưởng nhanh hơn,nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn   trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ  muốn có cả  vốn từ nước  ngoài, trong đó có vốn FDI. VN là một trong những nước  đang phát  triển, vì vậy mà chúng ta rất cần ngồn vốn đầu tư  từ  nước ngoài.  Việc huy động, thu hút vốn từ nước ngoài sẽ giúp nước ta có ngồn   vốn để  sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, tận dụng và khai  thác hiệu quả  các nguồn lực của đất nước như: tài nguyên thiên  nhiên, khí hậu,… Khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chúng ta còn có thể  thu hút được khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới: điều đó góp  phần nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế trong nước, thu  hút được các chuyên gia nước ngoài vào làm việc, từ  đó tạo điều  kiện cho đội ngũ kĩ sư  trong nước có điều kiện học hỏi, trau dồi   kiến thức, kinh nghiệm tiến tới làm chủ công nghệ. 7 Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể  huy động được phần nào bằng” chính sách thắt lưng buộc bụng”.  Tuy nhiên, công nghệ  và bí quyết quản lí thì không thể  có được  bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp  một nước có cơ  hội tiếp thu công nghệ  và bí quyết quản lí kinh  doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và   bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ  biến các công  nghệ  và bí quyết quản lí đó ra cả  nước thu hút đầu tư  còn phụ  thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là  ở  các vùng kinh  tế   còn   kém   phát   triển:   từ   đó   góp  phần  nâng   cao   mức   sống   của  người dân, tránh lãng phí nguồn lực lao động  (nước ta lại là một  nước có cơ cấu dân số  trẻ có nguồn lực lao động dồi dào). Vì một   trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để  đạt  được chi phí sản xuất thấp, nên công ty có vốn đầu tư  nước ngoài  sẽ  thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ  phận dân cư  địa phương được cải thiện sẽ  đóng góp tích cực vào  tăng trưởng kinh tế  của địa phương. Thu nhập của một bộ  phận   dân cư  địa phương được cải thiện sẽ  đóng góp tích cực vào tăng  trưởng kinh tế  của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào  tạo các kĩ năng nghề nghiệp mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ  và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được công ty  cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kĩ năng cho  nước thu hút FDI. Không chỉ  có lao động thông thường mà cả  các   nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ  hội làm việc và được bồi  dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Ở  VN, bình quân trong thời kì 2005­2010 khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo việc làm thêm cho khoảng 16 vạn việc làm mỗi  năm. Ngoài ra khu vực kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo ra  khoảng vài triệu lao động gián tiếp trong 6 năm qua. 8 Giúp tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà Nước: Đối với nhiều  nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế  do các  xí nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách  quan trọng. FDI cũng đã giúp VN có một bước tiến lớn hơn vào các  thị  trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của VN. FDI  chiếm một tỉ lệ đáng kể  trong các ngành công nghiệp chủ  đạo của  VN, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong ngành may mặc   và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện Học   tập  được  kinh  nghiệm quản  lí, lãnh  đạo  điều  hành doanh  nghiệp công ti chuyên nghiệp của các nước tiên tiến hơn. Từ đó góp   phần nâng cao năng lực quản lí, điều hành của các nhà lãnh đạo  trong nước Tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, tăng khả  năng cạnh tranh  của doanh nghiệp trong nước: khi thu hút FDI từ  các công ty đa  quốc gia, không chỉ công ty có vốn đầu tư  của công ty đa quốc gia  mà ngay cả các công ty khác trong nước có quan hệ làm ăn với công  ty cũng sẽ  tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì  vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất   toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Tạo đà phát triển cho kinh tế  trong nước: việc Việt Nam đã công   nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày càng đóng  vai   trò   quan   trọng   trong   sự   phát   triển   của   Việt   Nam   trên   nhiều  phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả  năng thanh toán quốc  tế, phát triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế,…FDI   đã hỗ trợ VN một cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế  đối ngoại để  VN gia nhập ASEAN,   kí kết thỏa thuận chung với   EU, bình thường hóa và thỏa thuận thương mại song phương với   Mỹ. Trong những năm gần đây, vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã   tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, việc mở  cửa thị  trường vốn cũng đồng nghĩa với  việc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực, nhất là khi khả năng hấp thụ  9 vốn của nền kinh tế  Việt Nam là chưa cao. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài có   nhiều tác động tích cực, nhưng tác động đó không tự nhiên xảy ra. 4. Bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Mặc dù FDI đã mang lại nhiều lợi ích cho nước trực tiếp nhận đầu tư, nhưng   nó cũng có không ít những bất lợi gây thua thiệt  ảnh hưởng xấu cho họ. Trong   quá trình thu hút và quản lý FDI, các nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước   ngoài có thể phải đối điện với những bất lợi sau: Thứ  nhất, thực tiễn thế  giới cho thấy, dòng vốn đầu tư  này chỉ  thực sự  tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm  tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết  bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất   khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu  ngân sách cho nước chủ  nhà và giúp hạn chế  sức ép tăng tỷ  giá  tiền tệ  thực tế. Ngược lại, nếu thiên về  khuynh hướng kích  thích nền kinh tế  bong bóng, kích thích và thoả  mãn những tiêu  dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết  của nước tiếp nhận đầu tư, thì về  lâu dài, chúng sẽ  có hại cho   các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân  đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát  tương lai của đất nước. Thứ  hai, nếu việc chuyển giao công nghệ  (cả  phần “cứng” lẫn   phần “mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ  chuyển  giao những công nghệ  lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế  tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ  bị  tước bỏ  – đó là một   mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện  được tình trạng công nghệ, khả  năng xuất khẩu, mà còn phải   chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất  cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn  phải kể  thêm tình trạng phụ  thuộc một chiều vào đối tác nước  ngoài về  kinh tế  – kỹ  thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư  kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ  không  10 như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ  nhà bỏ  ra, cả  về  chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức  “một tiền gà, ba tiền thóc”. Thứ  ba, để  hấp thụ  được 1 USD đầu tư  nước ngoài, theo tính  toán của các chuyên gia thế  giới, nước tiếp nhận cũng phải có  sự  bỏ  vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn.   Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng lượng   cung tiền tệ  lẫn lượng  cầu hàng hoá và dịch vụ  tương  ứng.   “Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm  phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra. Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế­xã hội và môi trường tổng  hợp của các dự  án FDI, nhất là các dự  án dùng nhiều đất nông   nghiệp,   tạo   áp   lực   thất   nghiệp   và   là   nguồn   phát   thải,   gây   ô  nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự  án xây  dựng sân golf  ở  đồng bằng, vùng đất màu mỡ  và những dự  án   “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ  làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai. Thứ  năm,  các nước nhận đầu tư  có thể  phải tiếp nhận những   công nghệ  và kĩ thuật lạc hậu, từ  đó có thể  gây ra rất nhiều  những thiệt hại cho nước sở tại về môi trường, chất lượng sản   phẩm, chi phí sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên  thị  trường. Các chủ  đầu tư  nước ngoài thường tính giá cao hơn  hoặc tối thiểu bằng với mặt bằng giá quốc tế  cho các nhân tố  đầu vào như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… từ  đó gây ra  những thua thiệt cho nước nhận đầu tư. Nước nhận đầu tư phải  áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như giảm   thuế, miễn thuế,… từ  đó có thể  tạo ra những bất lợi cho các  doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước trong quá trình cạnh tranh.  Đôi khi các sản phẩm, hàng hóa được sản xuất và bán ra không  thích hợp đối với các nước kém phát triển. II. Liên hệ Việt Nam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất