Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lạm phát của việt nam từ 2004 đến nay - nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc p...

Tài liệu Lạm phát của việt nam từ 2004 đến nay - nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục

.PDF
10
135
85

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Tên đề tài:LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN   NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP   KHẮC PHỤC Sinh viên thực hiện: Lê Đức Minh Hiếu Lớp: 56KT1 Nha Trang, tháng 9 năm 2015 1 PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia  đều đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng   gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia   còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát   triển.  Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường.Nó  là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế  kỷ  XXI và đụng  chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không. Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế  hàng  hoá tiền tệ. Nó có  tính thường  trực,  nếu không thường  xuyên kiểm soát,   không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu  thì lạm phát có thể  xảy ra  ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế  độ xã hội nào. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế  thị trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay  để đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà. Cơ  chế  thị  trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự  đổi thay của  nền kinh tế  Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế  thị  trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận  cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế  cũng như  các doanh  nghiệp phải nhanh chóng để  tiếp cận, nắm bắt những vấn đề  của nền kinh  tế mới. Bên cạnh bao vấn đề  cần có để kinh doanh còn là những vấn đề  nổi  cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề  nổi cộm  ấy là lạm phát.  Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết  sức phức tạp đòi hỏi sự  đầu tư  lớn về  thời gian trí tuệ  mới có thể  mong   muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các  nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ  của chính phủ. Lạm phát  ảnh hưởng  toàn bộ  đến nền kinh tế  quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao  động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn   2 định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế  xã hội,   nâng cao đời sống nhân dân.  Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm,  nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và   chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát.  Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của  hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm   nhanh.  Bài viết này với đề tài: “LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN  NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC”.  Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt  thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn  hạn chế, chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp  để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn. PHẦN II : NỘI DUNG           I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1.  Định nghĩa lạm phát      Quan niệm cổ  điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền  vượt quá số  lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này  không giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế  giới từ những năm 70 hoặc  ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn   có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ  coi là lạm phát khi sự  tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ  dẫn đến coi thường  các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.     Một quan điểm phổ  biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện  tượng tăng  lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian.   Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá  cả chỉ tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán  ở  Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả  của những biến động  cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh   3 tế. Những trường hợp như  vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ  dẫn đến sự  cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.   Các nhà kinh tế  học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là  Milton Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả  tăng nhanh và   liên tục trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự  tăng lên của mức  giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của  lạm phát được thể  hiện  ở tính chất của sự  tăng giá đó: đó là sự  tăng giá với  tốc độ  cao và kéo dài. Chính sự  tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến  thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy,   cái gọi là tỷ  lệ  tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể  nghe trên đài, báo hay  vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng   trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể  chỉ là sự  thay  đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ  không kéo dài. Chỉ  khi  nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu   hiện của lạm phát cao.   2. Lạm phát được tính như thế nào?      Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự  thay đổi trong giá cả  của   một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường   4 dựa trên dữ  liệu được thu thập bởi các tổ  chức Nhà nước, mặc dù các liên   đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này).     Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa   ra một chỉ  số  giá cả  để  đo mức giá cả  trung bình, là mức giá trung bình của  một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ  lạm phát là tỷ  lệ  phần trăm mức tăng của  chỉ số này. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị  của  chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ  số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.   Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ  biến nhất chính là CPI – Chỉ  số  giá tiêu  dùng (consumer price index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá   và dịch vụ  khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch  vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng thông thường”.     Hiện nay, CPI của Việt Nam đo giá cả  của khoảng 400 loại hàng hoá, trong  khi đó để tính CPI ở Mỹ người ta điều tra tới 80.000 loại hàng hoá và dịch vụ.  Không những thế, CPI còn được tính riêng cho nhóm người tiêu dùng nông  thôn, thành thị, công nhân viên chức thành thị…   5 3. Phân loại lạm phát Căn cứ  vào tỷ  lệ  lạm phát, các nhà kinh tế  chia lạm phát thành 3 loại   khác nhau: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.  Lạm phát vừa phải   Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ  thấp, dưới 10% một năm. Chính phủ các nước luôn mong muốn duy trì một tỷ  lệ lạm phát nhất định ở mức độ vừa phải (lạm phát mục tiêu) vì nó mang lại  tác dụng tốt cho nền  kinh tế. Thông thường, mức lạm phát mục tiêu nằm  trong giới hạn của mức lạm phát vừa phải. Với mức lạm phát này, giá cả  tăng chậm đến nỗi người ta không cảm nhận là  đang có lạm phát và do đó  được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong trường hợp  này, dân chúng vẫn  còn tin vào giá trị đồng tiền. Lạm phát phi mã   Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số  trong vòng một năm (từ  10% đến 100%). Với mức lạm phát này, mức độ  tăng giá gây tác hại nghiêm  trọng   đối   với   nền kinh tế, thể  hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong  trường hợp này người  dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới   dạng phi tiền tệ. Việt Nam trong những năm của thập niên 80 rơi vào tình  trạng lạm phát này. Giá cả luôn luôn tăng ở mức 3 con số.   Siêu lạm phát  Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ  tăng giá trên ba con số  trong   vòng một năm.  Đồng tiền bị  mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm  ngập trong khối tiền để  tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết  sức khan hiếm. Trong trường hợp này, chức năng quan trọng đầu tiên của tiền  là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẵn nhưng không mua được  hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền bị mất giá  quá mức.  6 II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN 2015      1. Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam  Tốc độ  tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2010. Chi   tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ  5% năm 2000 lên trên 8% từ  sau  năm 2005. Tỉ  lệ  vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến   40% từ  năm 2004 đến nay (2007). Từ  đây các nhân tố  lạm phát được nuôi  dưỡng.  Đến hôm nay lạm phát quay trở  lại. Năm 2004 đã xuất hiện những   dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng   đã không có những giải pháp thoả  đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu  hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố  mạnh mẽ  “lạm phát không thể  đến mức hai con số”. Thực tế  cho thấy thì  lạm phát năm 2007 khoảng 12%, năm 2008 thi lên đến 22% một con số đáng   báo động cho một nền kinh tế  non trẻ  như  việt nam.Cùng với những biện  pháp kiềm chế  lạm phát bước sang năm 2009 lạm đã giảm chỉ  con 6%. Dự  báo mới nhất cho thấy, tăng trưởng kinh tế  của Việt Nam trong năm 2010 ở  mức 6%. Lạm phát có thể tăng từ  7% trong năm 2009 lên mức hai con số  do  tăng trưởng tín dụng mạnh trong thời gian gần đây. Giá hàng hóa thế giới cao  trở  lại cũng sẽ  tác động đến giá cả  trong nước. Bên cạnh nguy cơ  lạm phát  lên 2 con số. Đây là một bài toán đau đầu cho các nhà kinh tế làm sao để đạt   được các mục tiêu kinh tế đề ra. 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2015     Biểu đồ về thực trạng lạm phát ở VIỆT NAM trong 10 năm gần  đây 7  Giai đoạn từ năm 2004 đến 2008 Năm 2004: tỷ lệ lạm phát giảm từ giai đoạn 1998 đến năm 2000,đặc  biệt năm 2000 tỷ lệ lạm phát là 0,1% và năm 2001 là ­ 0,6%.Thế nhưng  lạm phát bắt đầu tăng lại từ năm 2002 và trở nên mạnh hơn vào đầu  năm 2004 với tỉ lệ lạm phát đạt mức 9,5%. Đây là con số cao nhất kể  từ năm 1995 đến 2004. Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng  đồng quốc tế  đánh giá cao về  tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư  nước   ngoài đổ  vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư  trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ  USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ  USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư  trong nền kinh tế. Dòng vốn  đầu tư  gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007  ước   tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện  trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD   (năm 2007 là 2 tỷ  USD, 2008 2.2 tỷ  USD). Kiều hối chuyển về  Vi ệt   Nam hàng năm từ  5­7 tỷ  USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị  thâm hụt  thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển  vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ  ngoại tệ  của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng  4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ  ngoại tệ  của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương  ứng   VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện  biện pháp Vô hiệu hóa   lượng tiền bơm vào nền kinh tế  do vậy tiền   trong nền kinh tế tăng lên. Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ  thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007  đạt 49.1%. Lạm phát là một trong bốn yếu tố  quan trọng nhất của mọi quốc gia   (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số  8 dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2  con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc   gia. Điều này dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính  phủ: làm suy vong nền kinh tế  quốc gia.Có sự  tác động mạnh tới đời   sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.  Sau 12 năm kiểm soát được lạm phát(1995­2007) thì tình hình lạm phát   hiện nay   ở  Việt   Nam lên  tới  mức  báo   động là  2 con  số,  vượt  qua   ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ  dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ. Lạm phát  trong năm 2011 sẽ không vượt quá 7% và chỉ trong quý một năm 2011,   lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%. Thực trạng này đã khiến mục tiêu  kìm chân lạm phát  ở  mức 7% của Quốc hội trở  thành một nhiệm vụ  bất khả  thi trong năm nay.  Chỉ  số  tăng trưởng  GDP hiện nay giảm  xuống rất thấp và lạm phát  ở  mức rất cao (trên 20%). Chỉ  số  tăng  trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng  của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng   trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề  ra từ kỳ họp cuối năm trước là   8,5­ 9%, Thủ  tướng Chính phủ  chỉ  đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy   nhiên, tăng trưởng kinh tế  quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ  của  quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát  năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ  số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba  lần cùng kỳ  và bằng gần ba phần tư  mức cả  năm 2007, đã vượt qua  mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về  kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về  tỷ  lệ  nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...     Nhà cầm  quyền trung ương cũng nhắm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng 7% cho năm  nay, so với 6.8% của năm 2010. Trong năm 2010, tỷ  lệ  lạm phát của   Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như  không có dấu hiệu khả quan hơn. Tín dụng dự trù chỉ  tăng 23% so với   năm ngoái. Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ  vào Việt Nam trong năm 2007 có thể  đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn  9 các dòng vốn khác có thể  đạt khoảng 8,9 tỷ  USD (12,7% GDP). Cùng  với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị  trường   chứng khoán cũng phát triển bùng nổ, giá cả  các mặt hàng phi lương  thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ  năm ngoái do tăng trưởng  kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở  Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát.Chỉ số  tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất   cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7%  mặc dù tốc độ  tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10   năm qua. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để  mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong  lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức  tăng 38%, đây là cuộc  lạm phát tiền tệ. Ngoài ra giá nguyên liệu, nhiên   liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…)  trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh  tế  nước ta phụ  thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến  90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị  trường trong  nước. Cuộc lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị  trường thế  giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình  quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo  cầu   về   lương   thực   trong   nước   cho   xuất   khẩu   tăng.   Mục   tiêu   tăng   trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề  ra từ kỳ họp cuối năm trước là   8,5­ 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tác động  lạm phát của Việt Nam năm nay 2011 là nhập khẩu lạm phát. Bởi vì tác  nhân của Việt Nam là tình trạng nhập siêu rất là lớn, mà trong đó các  yếu tố  về  hàng hóa nguyên liệu cơ  bản trên thế  giới dự  kiến gia tăng  trong năm nay. Theo đó Tổ  chức Lương nông Quốc tế  (FAO) công bố  chỉ số giá lương thực cuối năm 2010 là 214,7 điểm vượt qua mức 213,5   điểm thời gian khủng hoảng lương thực 2008. Giá ngũ cốc toàn cầu   tăng nhanh, ngoại trừ giá gạo vẫn đứng thấp hơn nhiều so với mức kỷ  lục. Giá đường tăng cao nhất trong vòng 30 năm gần đây, giá các loại  hạt có dầu và thịt cùng leo thang.Lạm phát được đẩy lên cao vì giá  10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất