Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm định hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Kiểm định hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
70
5
83

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ******* MẠC HOÀNG LUÂN KIỂM ĐỊNH HÀNH VI BẦY ĐÀN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ******* MẠC HOÀNG LUÂN KIỂM ĐỊNH HÀNH VI BẦY ĐÀN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN NGỌC ẢNH TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Kiểm định hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. T.P Hồ Chí Minh, ngày …. tháng …. năm 2013 Người cam đoan ii LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tài liệu và điều tra thu thập số liệu, đến nay luận văn tốt nghiệp cao học: “Kiểm định hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam” đã được thực hiện thành công. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lới cảm ơn chân thành tới: TS Nguyễn Ngọc Ảnh, người thầy kính mến đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn, động viên cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Ban giám hiệu, Viện đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh Tế TP.HCM đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này. TP Hồ Chí Minh, tháng …. năm 2013 Học viên iii MỤC LỤC Lời cam đoan……………………………………………………………….. i Lời cảm ơn………………………………………………………………….. ii Mục lục………………………………………………………………………iii Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………. v Danh mục các bảng ………………………………………………………... vi Danh mục các hình vẽ, đồ thị ……………………………………………...vii Giới thiệu…………………………………………………………………… 1 1. Lý do nghiên cứu đề tài …………………………………………………. 1 2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………...1 3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………... 1 4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………... 2 5. Những đóng góp của đề tài……………………………………………… 2 6. Kết cấu của đề tài……………………………………………………….. 3 Chương 1: Tổng quan về lý thuyết tài chính hành vi ……………………. 4 1.1 Tài chính hành vi là gì?………………………………………………... 4 1.2 Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi………………………..…4 1.2.1 Hành vi không hợp lý……………………………………………… 4 1.2.2 Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống………………………… 5 1.2.3 Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường…….. 5 1.3 Một số biểu hiện của hành vi không hợp lý……………………………. 6 1.3.1 Sự tự tin quá mức (Overconfidence)……………………………….. 6 1.3.2 Niềm tin vững chắc (Belief perseverance)………………………… 6 1.3.3 Lệch lạc do tình huống điển hình (representativeness heuristic)……..6 1.3.4 Sự bảo thủ (Conservatism)…………………………………………... 7 1.3.5 Sự phản ứng quá mức/quá thận trọng (Overreaction/Underreaction).. 7 1.3.6 Lý thuyết triển vọng (Prospect theory)……………………………….8 1.3.7 Sợ thua lỗ (Loss Aversion)………………………………………….. 9 1.3.8 Tài khoản tinh thần (Mental accounts)……………………………… 9 1.3.9 Không thích sự mơ hồ (Ambiguity aversion)……………………….. 10 1.3.10 Tâm lý bầy đàn…………………………………………………….. 10 1.4 Các trường hợp bất thường khác trên TTCK…………………………… 10 1.4.1 Hiệu ứng ngày trong tuần (Day-of-the-week effect)………………… 10 1.4.2 Hiệu ứng tháng trong năm (Monthly effect)………………………… 11 1.5 Các phương pháp phân tích tâm lý bầy đàn trên TTCK ……………….. 11 1.5.1 Tiếp cận hành vi bầy đàn dựa vào tương quan trong mẫu hình giao dịch 11 1.5.2 Tiếp cận hành vi bầy đàn sử dụng độ phân tán của tỷ suất sinh lợi…..12 Kết luận chương 1……………………………………………………………15 Chương 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay…… 16 2.1 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM……………………………. 16 2.1.1 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2004-200………... 16 2.1.2 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2006 …………….. 17 2.1.3 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2007…………….. 17 2.1.4 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2008…………….. 19 2.1.5 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2009…………….. 20 iv 2.1.6 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2010…………….. 21 2.1.7 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2011…………….. 23 2.1.8 Diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM năm 2012…………….. 24 2.1.9 Tóm tắt diễn biến thị trường chứng khoán TP.HCM…………….. … 26 2.2 Các hiện tượng bất thường trên thị trường chứng khoán VN…………… 27 2.3 Tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán Việt Nam…………….. 31 Kết luận chương 2…………….. …………….. …………….. …………….. 32 Chương 3: Mô hình và kết quả nghiên cứu.…………….. ……………… 34 3.1 Mô hình nghiên cứu…………….. …………….. …………….. ……… 34 3.2 Dữ liệu…………….. …………….. …………….. …………….. …….. 35 3.3 Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………35 3.4 Kết quả thực nghiệm…………….. …………….. …………….. ……… 37 3.4.1 Thống kê mô tả các biến quan sát……………..…………….. ……… 37 3.4.2 Kết quả hồi quy…………….. …………….. …………….. ………… 38 Kết luận chương 3…………….. …………….. …………….. …………….. 41 Chương 4: Các kiến nghị nhằm gia tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam.…………….. …………….. …………….. …….. 42 4.1 Một số giải pháp nhằm gia tăng tính hiệu quả của TTCK Việt Nam…… 42 4.1.1 Hạn chế tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường chứng khoán………. 42 4.1.2 Nâng cao tính minh bạch trên TTCK…………….. …………….. …. 44 4.1.3 Phát triển các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp…………….. …………. 46 4.1.4 Tăng cường tuyên truyền…………….. …………….. …………….. 47 4.1.5 Tăng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cá nhân…………….. ……. 48 4.1.6 Thành lập thị trường chứng khoán phái sinh…………….. ………… 49 4.2 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo…………….. ………. 50 4.2.1 Hạn chế của đề tài…………….. …………….. …………….. ……… 50 4.2.2 Hướng phát triển đề tài…………….. …………….. …………….. … 52 Kết luận chương 4…………….. …………….. …………….. …………….. 52 Kết luận…………….. …………….. …………….. …………….. ……….. 51 Tài liệu tham khảo…………….. …………….. …………….. …………….. 53 Phụ lục…………….. …………….. …………….. …………….. ………… 56 v BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT CP: Cổ phiếu. CTCK: Công ty chứng khoán. HASTC: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội - HNX. HOSE: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. NĐT: Nhà đầu tư. TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh. TTCK: Thị trường chứng khoán. UBCKNN: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. VNIndex: Vietnam Index (chỉ số thị trường chứng khoán của Việt Nam). vi DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1 Kết quả thống kê mô tả các biến Kết quả hồi quy hành vi bầy đàn cho toàn bộ dữ liệu ngày và Bảng 3.2 trong hai trường hợp thị trường tăng & giảm Kết quả hồi quy hành vi bầy đàn cho ba giai đoạn cụ thể của Bảng 3.3 thị trường 37 38 39 vii DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1 Hình 2.1 Hình 2.2 Hình 2.3 Hình 2.4 Hình 2.5 Hình 2.6 Hình 2.7 Hình 2.8 Hàm giá trị trong lý thuyết triển vọng Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2004- 2005 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2006 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2007 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2008 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2009 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2010 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2011 Thị trường chứng khoán Tp.HCM năm 2012 9 16 17 18 20 21 22 24 26 1 GIỚI THIỆU 1. Lý do nghiên cứu của đề tài Trong suốt những năm qua thị trường chứng khoán (TTCK) có biểu hiện biến động tăng giảm không ổn định. Có nhiều dẫn chứng cho thấy thị trường thiếu hiệu quả do những nhận định sai lệch của nhà đầu tư. Những người tham gia thị trường thường dựa vào tính xu thế của thị trường và hành vi của các nhà đầu tư khác để ra quyết định. Những phương pháp dự đoán dựa trên những phân tích kỹ thuật hay phân tích cơ bản để quyết định đầu tư dường như quá phi hiện thực ở các thị trường chứng khoán đang phát triển ngày nay, đặc biệt là TTCK Việt Nam. Điều đó khiến người ta nghĩ đến một lý thuyết khác có thể giải thích bổ sung cho các lý thuyết tài chính hiện đại, một lý thuyết mà có thể giải thích được các bất thường trong TTCK, đó là lý thuyết “Tài chính hành vi”. Tài chính hành vi là một lý thuyết kinh tế đòi hỏi phải hiểu và dự đoán được những bất thường trong hệ thống thị trường tài chính bằng cách hiểu được hành vi của con người và cơ chế tâm lý của họ khi đưa ra các quyết định tài chính. Đề tài: “Kiểm định hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam” sẽ phần nào lý giải được các bất thường đang tồn tại trên TTCK Việt Nam hiện nay. 2. Mục tiêu nghiên cứu Với những vấn đề được trình bày ở trên, mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu, giải quyết câu hỏi liệu thực sự có yếu tố tâm lý trong quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư và việc ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi có thể lý giải cho những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam được không. Để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm gia tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về việc ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi trên thị trường chứng khoán TP.HCM. Trong nghiên cứu định lượng, tác giả sử dụng số 2 liệu của sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM từ ngày 01/01/2004 đến ngày 31/12/2012. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp định lượng. Với số liệu trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM, tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến, phương pháp kiểm định giả thuyết thống kê và thống kê mô tả để thực hiện phân tích này. 4.1 Nguồn số liệu Số liệu là giá đóng cửa của các cổ phiếu trên sàn HOSE từ ngày 01/01/2004 đến ngày 31/12/2012, được thu thập từ trang wed của Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT (FPTS). Ngoài ra còn thu thập một số thông tin từ Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM, các trang Web Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê, các bài báo trong và ngoài nước, các báo cáo khoa học có liên quan, các tài liệu và các giáo trình chuyên ngành tài chính. 4.2 Phương pháp xử lý số liệu Phương pháp xử lý số liệu được tiến hành theo hai bước cụ thể sau: Nhập dữ liệu và xử lý số liệu thô: tác giả sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2007 để nhập dữ liệu, sau đó tiến hành xử lý số liệu ban đầu như kiểm tra tính hợp lý của dữ liệu, kiểm tra dữ liệu trống… Phân tích thống kê mô tả và phân tích kiểm định: từ dữ liệu đã được xử lý, tác giả sử dụng phần mềm Eview 6.0 để phân tích. 5. Những đóng góp của đề tài Đề tài góp phần đưa ra một bức tranh cụ thể về việc ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi vào thị trường chứng khoán Việt Nam, các hiện tượng tâm lý của nhà đầu tư (NĐT) có ảnh hưởng gì đến sự phát triển của TTCK. Từ đó làm cơ sở khoa học giúp cho các nhà quản lý TTCK Việt Nam tham khảo và có giải pháp đúng đắn, góp phần trong công tác xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho 3 các đề tài nghiên cứu tiếp theo về TTCK và cho các nghiên cứu khác có liên quan đến sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung. 6. Kết cấu của đề tài Chương 1: Tổng quan về lý thuyết tài chính hành vi. Chương 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Chương 3: Mô hình và kết quả nghiên cứu. Chương 4: Các kiến nghị nhằm gia tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam. 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI 1.1 Tài chính hành vi là gì? Tài chính hành vi là một lý thuyết tài chính vẫn còn mới và đang phát triển, nhằm tìm ra cách hiểu và dự đoán được các quyết định dựa trên tâm lý của NĐT trên thị trường tài chính. Tài chính hành vi kết hợp các kiến thức có được từ ngành tâm lý học và hành vi con người vào tài chính. - Tài chính hành vi là lĩnh vực nghiên cứu hành vi của các nhà đầu tư trên cơ sở những nguyên tắc tâm lý trong quá trình ra quyết định. - Tài chính hành vi cố gắng giải thích việc các nhà đầu tư tiếp nhận và phản ứng như thế nào với thông tin để ra quyết định đầu tư. - Các NĐT không phải luôn phản ứng “hợp lý” với thông tin nhận được trên thị trường. Tài chính hành vi nghiên cứu hành vi của các NĐT dẫn đến các trường hợp bất thường trên TTCK. 1.2 Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi. Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể đúng nếu trên thị trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba đều tồn tại, lý thuyết tài chính hành vi dự báo rằng việc định giá sai không những là tồn tại, mà còn là rất đáng kể và kéo dài. Ba điều kiện đó bao gồm: - Tồn tại hành vi không hợp lý. - Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống. - Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính. 1.2.1 Hành vi không hợp lý. Khác với quan điểm của tài chính truyền thống, tài chính hành vi cho rằng con người không hoàn toàn hợp lý, vì thế có thể dẫn đến việc định giá sai, làm cho tỷ suất sinh lợi và rủi ro của các tài sản lệch khỏi các dự báo của các lý thuyết và mô hình tài chính truyền thống. Để làm rõ những bất hợp lý này, các nhà kinh tế học quay trở lại với các chứng cứ về những lệch lạc phát sinh khi con người hình 5 thành niềm tin và sự ưa thích khi tiến hành các lựa chọn, những chứng cứ này được rút ra từ các cuộc thí nghiệm của các nhà tâm lý học nhận thức và được tổng kết trong tác phẩm “A Survey of Behavioral Finance” của Barberis Nicholas & Richard Thaler (2003). 1.2.2 Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống. Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng từ giao dịch của nhà đầu tư này lên giá cổ phiếu trên thị trường là không đáng kể (cho dù là một tổ chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ đơn độc một mình). Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ thống (nghĩa là một nhóm nhiều nhà đầu tư cùng có một hành vi không hợp lý như nhau) thì khi ấy việc định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu kéo dài. Lý thuyết tài chính hành vi cho rằng tính lệch lạc (bất hợp lý) trong hành vi là khá phổ biến đối với nhiều nhà đầu tư và do đó, nó tạo thành một dạng như chúng ta thường gọi là “hiệu ứng bầy đàn”. Hiệu ứng này khiến cho giá cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị thực của nó. 1.2.3 Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính. Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ hội để kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh chênh lệch giá sẽ điều chỉnh giá trên thị trường về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại định giá sai, mà lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để tận dụng các khoản lợi nhuận này thì như thế nào? Và tại sao lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá khi có định giá sai? Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi bao gồm các luận điểm sau. Barberis Nicholas & Richard Thaler (2003) chỉ ra rằng kinh doanh chênh lệch giá không thể xảy ra vì có những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và có thể kinh doanh chênh lệch giá hai tài sản đó, nhưng thực tế thì không như vậy mà các tài sản tương tự nhau có xu hướng biến động cùng chiều nhau. Do đó tạo ra rủi ro tăng thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá. Ngoài ra, chi phí giao dịch và tác động của những nhà đầu tư không hợp lý (gọi là noise trader risk) cũng ngăn cản điều này. Một mặt khác, khó mà xác 6 định được khi nào mức định giá sai đã đạt tới giới hạn trên hay dưới để điều chỉnh lại. Thực tế định giá sai có thể kéo dài rất lâu. Chính vì vậy, chúng ta đã từng thấy trong lịch sử nhiều vụ bong bóng giá ở Nhật (thập niên 1980), Đài Loan (1990), cổ phiếu công nghệ truyền thông của Mỹ (1999-2000), rồi gần đây là chứng khoán Trung Quốc và Việt Nam cũng bị xem là “quá nóng”. Tuy nhiên, rõ ràng là không hề có những điều chỉnh tức thời như người ta kỳ vọng, mà những vụ bong bóng này kéo dài nhiều năm (nhất là ở các nước châu Á đang phát triển). Đây là dấu hiệu của giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá. 1.3 Một số biểu hiện của hành vi không hợp lý 1.3.1 Sự tự tin quá mức (Overconfidence) Mọi người có vẻ quá tự tin vào kiến thức của họ và phán đoán sự việc thông qua những thông tin họ không thể hiểu hết được gọi là sự quá tự tin. Sự cả tin thái quá mà một người có càng lớn thì rủi ro càng cao. Đặc biệt điều này xuất hiện ở nơi mà người ta không được nhận thông tin một cách đầy đủ và chính xác. Barber và Odean (2001) còn công bố một kết quả thú vị là những nhà kinh doanh chứng khoán là nam giới thì quá tự tin nhiều hơn nữ giới, và nam giới càng thực hiện nhiều giao dịch thì kết quả càng tệ hại hơn nữ giới. 1.3.2 Niềm tin vững chắc (Belief perseverance) Con người mỗi khi đã hình thành một ý tưởng thì họ thường giữ lấy ý tưởng đó trong một thời gian dài (Lord, Ross & Lepper, 1979). Có ít nhất 2 ảnh hưởng của vấn đề này: Một là, họ không chủ động tìm kiếm các bằng chứng ngược lại niềm tin của họ. Hai là, nếu tìm thấy những bằng chứng như vậy thì họ xem xét các bằng chứng này với một thái độ nghi ngờ cao độ. 1.3.3 Lệch lạc do tình huống điển hình (representativeness heuristic) Kahneman và Tversky (1974) cho rằng, con người đánh giá xác suất xảy ra của những sự kiện trong tương lai dựa vào sự tương đồng với một tình huống điển hình nào đó trong quá khứ. Trong nhiều trường hợp, dựa vào tình huống điển hình giúp đưa ra quyết định đầu tư nhanh chóng, tuy nhiên dựa vào tình huống điển hình 7 có thể tạo ra một số lệch lạc như suy ra xu hướng thị trường trong tương lai dựa trên một giai đoạn ngắn gần đó mà xu hướng này không phải là quy luật chung. Và đặc biệt là người ta thường đề cao hiệu quả của những qui tắc đơn giản, gần gũi và dễ nhớ. Đây chính là vấn đề đã được nhà kinh tế học đạt giải thưởng Nobel năm 2002, Daniel Kahneman nghiên cứu trong tác phẩm “Thinking fast and slow”. Trong tác phẩm của mình, ông đã chứng minh rằng trong mỗi con người luôn luôn tôn tại hai hệ thống suy nghĩ. Hệ thống thứ nhất chính là làm theo những “lối mòn”, những kinh nghiệm tích lũy có được của bản thân và hệ thống thứ hai là suy nghĩ, phân tích cẩn thận tình huống để đưa ra quyết định. Nhưng không may là đa số đối tượng được khảo sát đều đi theo lối mòn của hệ thống thứ nhất. Khi không đạt được kết quả mong muốn thì họ mới bắt đầu nghĩ đến việc chuyển sang hệ thống thứ hai. Áp dụng cho trường hợp thị trường Việt Nam, các NĐT luôn cho rằng TTCK Việt Nam năm 2007 sẽ tiếp tục tăng điểm như giai đoạn năm 2006 thì đương nhiên sẽ cho rằng xác suất giá cổ phiếu còn lên nữa là cao hơn xác suất giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu nhìn cho một giai đoạn 2000-2006, người ta sẽ thấy thị trường lúc lên, lúc xuống, không phải lên mãi không ngừng, thì sẽ có đánh giá khác về xác suất tăng, giảm của thị trường. 1.3.4 Sự bảo thủ (Conservatism) Người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay đổi và gắn nhận định của mình với tình hình chung theo một giai đoạn dài hạn trước đó. Ví dụ là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho rằng kinh tế kém đi chỉ là tạm thời, dài hạn vẫn là đi lên, mà không nhận thấy có thể tin đó phát đi tín hiệu một chu kỳ suy thoái nhiêu năm bắt đầu. Hiệu ứng này (gắn với kinh nghiệm dài hạn) ngược lại với hiệu ứng lệch lạc do tình huống điển hình (đặt nặng vào các tình huống điển hình ngắn hạn). 1.3.5 Sự phản ứng quá mức/quá thận trọng (Overreaction/Underreaction) Phối hợp hai hiệu ứng lệch lạc do tình huống điển hình và bảo thủ có thể giúp giải thích hiện tượng phản ứng thái quá (overreaction) và phản ứng chậm (underreaction) trên TTCK. Ví dụ, khi ban đầu nhận được tin tức công bố của một 8 công ty cho thấy lợi nhuận giảm, người ta vẫn tin rằng đây chỉ là giảm tạm thời, và phản ứng chậm với thông tin này, nên giá cổ phiếu của công ty có tin tức xấu vẫn giảm chậm. Đến khi liên tục các quý sau, tình hình vẫn xấu, thì người ta đã “phát hiện” ra một tình huống điển hình mới: công ty này quí trước cũng kinh doanh kém, quí này cũng kinh doanh kém vậy nên bán tống cổ phiếu công ty này đi để tránh lỗ. Thế là mọi người đổ xô đi bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn đến phản ứng thái quá. 1.3.6 Lý thuyết triển vọng (Prospect theory) Các nhà đầu tư không thích các khoản lỗ và thường tự rèn luyện tinh thần của mình để hạn chế các tác động về mặt tâm lý. Xu hướng của họ là bán các cổ phiếu tăng giá hơn là các cổ phiếu giảm giá. Kahneman và Tversky (1979) thật đúng khi cung cấp rằng lý thuyết triển vọng mô tả cách những người đưa ra những quyết định hành xử khi đối đầu với sự lựa chọn không chắc chắn. Những bằng chứng thực nghiệm chỉ ra rằng mất mát thì được cân nặng gấp hai lần so với cái nhận được, lỗ 1 đồng thì người ta sẽ buồn gấp hai lần so với niềm vui của việc lãi được 1 đồng. Tính không cân xứng này được gọi là sự ghét rủi ro. Khi nhà đầu tư xem xét chứng khoán dựa trên chủ quan cá nhân, thì sự không ưa thích rủi ro trong khi đang có lợi nhuận sẽ dẫn tới việc họ bán chứng khoán đang tăng giá quá nhanh. Ngược lại, tìm kiếm rủi ro trong khi đang lỗ sẽ làm cho nhà đầu tư giữ chứng khoán quá lâu khi giá giảm với hy vọng rằng giá cuối cùng sẽ phục hồi. Lý thuyết triển vọng của Tversky và Kahneman (1979) cũng đưa tới hình dạng hàm giá trị không đối xứng, hàm này có dạng lõm bên phía lợi nhuận và lồi phía thua lỗ và có một điểm xoắn tại gốc tọa độ, điểm này gọi là điểm tham chiếu (reference point). Hàm giá trị có độ dốc lớn hơn đối với những mức giá trị nằm dưới điểm tham chiếu, nghĩa là đối với các mức giá trị nằm dưới điểm tham chiếu nhà đầu tư có xu hướng tìm kiếm rủi ro, nghĩa là họ sẵn sàng thực hiện các thương vụ đầu tư rủi ro hơn để tiến lên trên điểm tham chiếu. Trong khi đó đối với các mức giá trị nằm trên điểm tham chiếu, hàm giá trị có độ dốc giảm và lúc này nhà đầu tư ngại thua lỗ. 9 Hình 1.1: Hàm giá trị trong lý thuyết triển vọng Tversky và Kahneman (1979) 1.3.7 Sợ thua lỗ (Loss Aversion) Lý thuyết triển vọng có thể giúp giải thích hành vi bất hợp lý của nhà đầu tư đó là sự ngại thua lỗ. Ngại thua lỗ đề cập đến việc con người có xu hướng nhạy cảm với một sự giảm sút trong giá trị hơn là một sự gia tăng, vì thế nhà đầu tư thường có xu hướng nắm giữ các khoản lỗ (khoản đầu tư giảm giá) quá lâu nhằm hi vọng cuối cùng giá sẽ phục hồi và họ sẽ tránh được thua lỗ, trong khi đó lại bán những cổ phiếu tăng giá quá sớm. Hiệu tượng này cũng có thể được lý giải bằng hiệu ứng tự lừa dối, sợ rằng nếu bán mà bị lỗ thì sẽ cảm thấy bản thân ra quyết định đầu tư yếu kém. 1.3.8 Tài khoản tinh thần (Mental accounts) Chúng ta có xu hướng tách riêng các quyết định (mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau) vào các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng (mental accounts) và tối đa hóa lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra các quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm. Ví dụ: Một người đặt cược lần đầu thắng được 200 đồng, lần thứ hai thua 50 đồng. Anh ta nghĩ là lỗ 50 đồng ở lần đặt cược thứ 2 hay làm giảm 50 đồng cho khoản tiền thắng ở lần đặt cược thứ nhất? Đa số sẽ nghĩ là đã lỗ mất 50 đồng mà quên mất là mình vẫn còn lời 150 đồng. Tài khoản tinh thần dẫn đến các NĐT phân định không hợp lý lợi nhuận có được với vốn gốc của mình. Lợi nhuận có thể mất đi với nỗi đau tinh thần ít hơn vốn gốc bị mất đi. Cổ tức được sử dụng một cách dễ dãi hơn vốn gốc. 10 1.3.9 Không thích sự mơ hồ (Ambiguity aversion) Con người không thích những lựa chọn mà khả năng xảy ra không chắc chắn, đồng thời thích những lựa chọn đã quen thuộc. Ví dụ giá trị cổ phiếu của các công ty Mỹ chỉ chiếm 45% giá trị cổ phiếu toàn cầu, có đến 55% giá trị còn lại là của công ty các quốc gia khác nhưng các nhà đầu tư Mỹ nắm chưa đến 7% cổ phiếu của các công ty ngoài nước Mỹ trong danh mục đầu tư của họ (French và Poterba, 1991). 1.3.10 Tâm lý bầy đàn Hành vi bầy đàn xuất hiện khi con người đối đầu với ý kiến của một nhóm lớn, họ có xu hướng thay đổi hành động của họ. Họ đơn giản nghĩ rằng tất cả những người khác có thể không sai. Nhiều người tham gia trên thị trường tài chính chắc chắn cũng sẽ có người nghĩ rằng tiền tệ hay chứng khoán đang bị đánh giá không đúng với giá trị của nó, nhưng họ kìm lại không hành động theo đánh giá của bản thân mà đi theo xu hướng chung của số đông. Những người này có lẽ đơn giản cảm thấy rằng nó vô nghĩa khi đấu tranh với số đông. Hành vi bầy đàn có thể đóng một vai trò trong việc tạo ra đầu cơ bong bóng. Lý thuyết này cũng chỉ ra rằng những nhà đầu tư trong ngắn hạn gây ảnh hưởng nhiều lên giá chứng khoán hơn những nhà đầu tư dài hạn. Môt yếu tố quan trọng nữa của bầy đàn là truyền miệng. Những nhà đầu tư cá nhân, nói chung vẫn tin tưởng bạn bè, họ hàng và đồng nghiệp đối với các thông tin thị trường có độ tin cậy thấp hoặc không rõ nguồn gốc. 1.4 Các trường hợp bất thường khác trên TTCK 1.4.1 Hiệu ứng ngày trong tuần (Day-of-the-week effect) Theo lý thuyết này thì lợi nhuận vào một số ngày cao hơn một cách bất thường so với các ngày còn lại trong tuần. Cụ thể, lợi nhuận vào ngày thứ sáu cao hơn các ngày khác trong tuần, lợi nhuận vào ngày thứ hai thấp hơn các ngày khác trong tuần. Để kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần, một số nhà nghiên cứu đã sử dụng mô hình OLS sau: = + + + + + (1.1) 11 là lợi nhuận của cổ phiếu i là biến giả cho các thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu. Nguồn: Hakan Berument and Halil Kiymaz (2001) [25] 1.4.2 Hiệu ứng tháng trong năm (Monthly effect) Hiệu ứng tháng trong năm xuất hiện khi lợi nhuận vào một vài tháng nào đó trong năm cao hơn một cách bất thường so với các tháng còn lại. Cụ thể, lợi nhuận vào tháng Giêng thường cao hơn các tháng còn lại trong năm (hiệu ứng tháng Giêng – January effect). Phương pháp kiểm định có thể sử dụng phương pháp kiểm định tương tự như hiệu ứng ngày trong tuần. 1.5 Các phương pháp phân tích tâm lý bầy đàn trên TTCK Có nhiều phương pháp tiếp cận thực nghiệm trong nghiên cứu hành vi bầy đàn trên TTCK. Dưới đây, tác giả sẽ đề cập ba cách tiếp cận được các nghiên cứu quốc tế sử dụng để xem xét hành vi bầy đàn trên TTCK: 1.5.1 Tiếp cận hành vi bầy đàn dựa vào tương quan trong mẫu hình giao dịch: Lakonishok, Shleifer và Vishny là các tác giả đi tiên phong trong hướng tiếp cận này. Lakonishok, Shleifer và Vishny (1992) định nghĩa hành vi bầy đàn là xu hướng trung bình trong việc mua hoặc bán những chứng khoán cụ thể nào đó ở cùng một thời điểm của một nhóm các nhà quản lý tiền tệ. Cách tiếp cận này sử dụng thước đo H(i,t) = |p(i,t) - p(t)| - AF(i,t) để đánh giá hành vi bầy đàn với p(i,t)=B(i,t)/[ B(i,t)+S(i,t)], trong đó B(i,t) là số lượng các nhà quản lý tiền tệ mua ròng cổ phiếu i trong quý t; [S(i,t)] là số lượng các nhà quản lý tiền tệ bán ròng cổ phiếu i trong quý t; p(i,t) là tỷ lệ các nhà quản lý mua trong quý so với tổng tất cả các nhà quản lý mua và bán; p(t) là trung bình của p(i,t) và AF(i,t) là nhân tố điều chỉnh, AF(i,t)= E[|p(i,t)– p(t)|]. Theo thước đo này, bầy đàn sẽ không xuất hiện khi H(i,t) nhỏ và gần về 0. Thước đo để đánh giá hành vi bầy đàn của Lakonishok, Shleifer và Vishny (1992) gặp phải khiếm khuyết đó là chỉ sử dụng số lượng các nhà đầu tư ở bên mua
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất