Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khuynh hướng chính trị của báo chí mỹ (qua khảo sát các bài xã luận của new york...

Tài liệu Khuynh hướng chính trị của báo chí mỹ (qua khảo sát các bài xã luận của new york times và wall street journal từ 2009 đến 2012)

.DOC
25
1153
90

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Đề tài Khuynh hướng chính trị của báo chí Mỹ (qua khảo sát các bài xã luận của New York Times và Wall Street Journal từ 2009 đến 2012) được thực hiện vì những lý do chính sau đây. Thứ nhất, Mỹ là quốc gia có nền báo chí phát triển. Các nhà lập quốc hi vọng rằng báo chí sẽ thực hiện tốt chức năng giám sát để bảo đảm nền dân chủ. Vấn đề đặt ra là các CQBC có khả năng thống nhất lý tưởng và lợi ích hay không? Các CQBC có khách quan, công bằng, trung lập như họ luôn tuyên bố không? Thứ hai, NYT và WSJ là hai CQBC tiêu biểu cho nền báo chí Mỹ. Hai CQBC này có phạm vi và khả năng ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị và xã hội nước Mỹ. Thứ ba, XL có vị trí quan trọng trên báo chí Mỹ nói chung, trên WSJ và NYT nói riêng. Bài XL trình bày quan điểm của các CQBC này về các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội quan trọng. Thứ tư, nghiên cứu KHCT bằng phương pháp thực nghiệm là một hướng nghiên cứu quan trọng hiện nay. Theo đó, việc một CQBC ủng hộ hay phản đối một đảng chính trị cần được chứng minh bằng những bằng chứng xác thực và cụ thể. Các TPBC là nguồn tư liệu quan trọng để tìm kiếm những bằng này. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài phân tích nội dung các bài XL của NYT và WSJ về các vấn đề đối nội trong thời gian từ năm 2009 đến 2012 nhằm xác định các biểu hiện định tính và định lượng về KHCT của NYT và WSJ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về viết XL và đề xuất xây dựng quan điểm chính trị đúng đắn cho nhà báo và hình thành bản sắc cho CQBC. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, hệ thống hoá khái niệm KHCT, phân tích các yếu tố tác động đến KHCT đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa chính trị và báo chí để làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu. Thứ hai, tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thể loại XL trên báo chí Mỹ để chỉ ra đặc trưng của thể loại này về mục đích, đối tượng phản ánh, cấu trúc và ngôn ngữ. Thứ ba, phân tích nội dung các bài XL của NYT và WSJ để xác định những biểu hiện định tính và định lượng về KHCT của 2 CQBC này. 2 Thứ tư, đúc rút những vấn đề cơ bản về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của KHCT đối với nhà báo và CQBC trong việc tạo ra khả năng thuyết phục và định hướng nhận thức cho công chúng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các bài XL chính trị, kinh tế và xã hội của NYT và WSJ. Các bài XL tập trung vào các vấn đề đối nội: chính sách thuế, bảo hiểm y tế và thất nghiệp từ năm 2009 đến 2012. Đây là những vấn đề lớn và nóng trong nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng thống Barack Obama. Những vấn đề này vốn đã có từ thời Tổng thống George W. Bush nhưng trở nên nóng bỏng hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ bắt đầu từ năm 2008. Những tranh luận giữa đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ tập trung nhiều vào những vấn đề này. 4. Câu hỏi nghiên cứu Các nhà chính trị và chủ sở hữu các CQBC Mỹ luôn tuyên bố, báo chí Mỹ là khách quan, trung lập, công bằng và phi chính trị. Họ phủ nhận tính khuynh hướng trong hoạt động báo chí và tuyệt đối hoá tính khách quan của báo chí tư sản. Tuyên bố này cần được kiểm chứng trong thực tế và bằng thực tế. Ở Mỹ, đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau. Hai đảng này thống nhất về lợi ích quốc gia nhưng khác nhau về chủ trương và chính sách, đặc biệt là các chính sách đối nội. Vấn đề chính sách gì và chính sách cho ai thực chất phản ánh cuộc đấu tranh giữa các nhóm lợi ích và các đảng chính trị. Câu hỏi quan trọng đặt ra: Báo chí có thể trung lập giữa các lợi ích đó không? Báo chí có đứng ngoài cuộc đấu tranh để giành và giữ các lợi ích đó không? Việc nghiên cứu các bài XL của NYT và WSJ sẽ góp phần kiểm chứng và trả lời các câu hỏi: NYT và WSJ có KHCT không? Có đúng là, NYT ủng hộ đảng Dân chủ và phản đối đảng Cộng hoà không? Ngược lại, WSJ có ủng hộ đảng Cộng hoà và phản đối đảng Dân chủ không? 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên lý về mối quan hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể về sự vật, hiện tượng. 5.2. Phương pháp thu thập thông tin Thông tin liên quan đến các khái niệm chính của đề tài sẽ được thu thập và hệ thống hoá từ sách, báo và tạp chí. 5.3. Phương pháp thu thập các bài XL 3 Các bài XL được thu thập từ cơ sở dữ liệu trực tuyến Factiva tại địa chỉ http://www.factiva.com. Bằng việc sử dụng cơ sở dữ liệu Factiva, tác giả đã chọn được các bài XL về các chủ đề: BHYT, thuế và thất nghiệp của NYT và WSJ từ 1-1-2009 đến 31-12-2012. Chủ đề NYT WSJ Chính sách thuế 175 94 Bảo hiểm y tế 174 114 Thất nghiệp 247 144 Tổng cộng 596 352 5.4. Phương pháp chọn mẫu Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống theo bước nhảy k, tác giả đã chọn ra 50 bài XL cho từng chủ đề của mỗi báo. Tổng cộng 300 bài XL của cả 2 CQBC được chọn để làm mẫu nghiên cứu. ∑ bài XL theo từng chủ đề k= 50 5.5. Phương pháp phân tích nội dung văn bản Phương pháp phân tích nội dung văn bản định lượng và định tính được sử dụng để thực hiện đề tài. Đây là 1 trong 3 phương pháp chủ yếu để nghiên cứu KHCT của báo chí bên cạnh phương pháp điều tra xã hội học và phỏng vấn. 5.6. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Tác giả nghiên cứu các bài phỏng vấn trưởng ban XL của NYT và WSJ nhằm tìm hiểu nhận thức, quy trình và phương thức sáng tạo bài XL. 6. Cơ sở lý thuyết của đề tài Đề tài được triển khai trên nền tảng của Lý thuyết về khuynh hướng chính trị tư tưởng trong báo chí; Lý thuyết xây dựng chương trình nghị sự và Lý thuyết về ảnh hưởng chính trị - xã hội của báo chí. 7. Khung lý thuyết của đề tài Khuynh hướng của NYT và WSJ được xác định căn cứ vào các biểu hiện định lượng và định tính. Các biểu hiện này được khai thác và hệ thống hoá từ các bài XL với sự hỗ trợ của các công cụ nghiên cứu. Biểu hiện định lượng Mô tả Hình ảnh Tổng thống Số lần được đề cập Vai trò được đề cập Hướng được đề cập Chính sách của chính quyền Loại chính sách được đề cập Đánh giá về chính sách Giải pháp Số lượng giải pháp Đối tượng được đề xuất giải pháp 4 Biểu hiện định tính Quan điểm chủ đạo của CQBC Hệ thống quan điểm theo vấn đề Giọng điệu Sự tương đồng của giải pháp với chính sách của đảng Cộng hoà/Dân chủ Mô tả Ủng hộ đảng Cộng hoà Ủng hộ đảng Dân chủ Phản đối đảng Cộng hoà Phản đối đảng Dân chủ Bảo hiểm y tế Chính sách thuế Tình trạng thất nghiệp Mềm mỏng/Tích cực Châm biếm/Phê phán 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá lý thuyết về KHCT của báo chí, luận án làm rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khuynh hướng chính trị đối với nhà báo và cơ quan báo chí; sự cần thiết phải có quan điểm chính trị đúng đắn trong hoạt động báo chí nhằm định hướng nhận thức và hành động cho công chúng đồng thời xây dựng bản sắc của cơ quan báo chí. Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận cho việc định hướng hoạt động báo chí trong thực tiễn. Đây là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà báo, giảng viên và sinh viên báo chí về thể loại xã luận và KHCT của báo chí nói chung và của báo chí Mỹ nói riêng. 9. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 4 chương, 12 tiết. 5 TỔNG QUAN KHCT của báo chí là chủ đề được cả các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước quan tâm. Đây là vấn đề mang tính bản chất của báo chí và có sự khác biệt căn bản về quan điểm giữa báo chí vô sản và báo chí tư sản. Trong khi báo chí vô sản coi tính khuynh hướng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí thì báo chí tư sản phủ nhận tính khuynh hướng và tuyệt đối hoá tính khách quan của báo chí. Trên thực tế luôn tồn tại sự khác biệt cơ bản, thậm chí đối lập giữa quan điểm của các nhà nghiên cứu và các chủ sở hữu báo chí, các nhà báo. Các chủ sở hữu CQBC tư sản phủ nhận tính khuynh hướng. Họ cho rằng, báo chí độc lập với chính trị và tính khách quan là nguyên tắc tuyệt đối. Trong bài XL “Chủ sở hữu mới” đăng ngày 1-82007 sau khi ông trùm truyền thông Rupert Murdoch mua tờ WSJ từ gia đình Bancroft, ban biên tập tờ báo khẳng định, việc đổi chủ sở hữu không ảnh hưởng gì đến sự độc lập và khách quan của tờ báo vì ban biên tập “kiên định những nguyên tắc và chuẩn mực nhất quán mà chúng tôi đã duy trì hơn một trăm năm.” NYT cũng đưa ra tuyên bố hùng hồn không kém về tính khách quan và nhất quán trong cung cấp thông tin và tin tức. Adolph Ochs, người sáng lập và chủ sở hữu đầu tiên của NYT từng khẳng định, tờ báo sẽ hoạt động “không sợ hãi và không thiên vị.” Trong bài trả lời phỏng vấn độc giả ngày 17-9-2007, Andrew Rosenthal, Trưởng ban XL của NYT cho rằng, “bảo thủ” hay “cấp tiến” chỉ là cái nhãn mà người ta gán cho các CQBC. Đối với bất kỳ CQBC nào, uy tín xã hội vừa là mục tiêu phấn đấu vừa là động lực cho sự phát triển. Ban biên tập của WSJ công nhận, “sự độc lập của ban biên tập nâng cao triển vọng cho thành công kinh tế. Ấn phẩm càng đáng tin cậy, nó càng có nhiều độc giả và nhà quảng cáo.” Tuyên bố về các nguyên tắc cốt lõi gắn liền với việc xây dựng uy tín của CQBC đối với công chúng trong bối cảnh niềm tin của công chúng vào tính khách quan và công bằng của báo chí giảm sút. Tuy nhiên, những tuyên bố này mang tính đương nhiên và chỉ có thể được kiểm chứng qua thực tế hoạt động của CQBC. Đây là lý do tại sao các nhà nghiên cứu báo chí nỗ lực hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu KHCT và tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm về khuynh hướng của báo chí nhằm đưa ra những bằng chứng xác thực và thuyết phục. Là 2 CQBC lớn của Mỹ, NYT và WSJ trở thành đối tượng của nhiều nghiên cứu về khuynh hướng. Ví dụ, nghiên cứu Khuynh hướng báo chí và chính trị: Cách báo chí định hình các vấn đề tranh cãi (Press Bias and Politics: How the Media Frame Controversial Issues) do giáo sư Jim A. Kuypers, Viện Bách khoa Virginia thực hiện năm 2002; nghiên cứu Đo lường khuynh hướng của báo chí (A Measure of Media Bias) của Tim Groseclose, Đại học California (Los Angeles) và Jeffrey Milyo, Đại học 6 Missouri (2005) và nghiên cứu Yếu tố nào thúc đẩy khuynh hướng? Dẫn chứng từ các nhật báo Mỹ (What Drives Media Slant? Evidence from US Daily) do Matthew Gentzkow và Jesse M. Shapiro thực hiện năm 2006. Bên cạnh đó, một số tác giả khác cũng nghiên cứu khuynh hướng của báo chí Mỹ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Có thể kể tên một số nghiên cứu của các tác giả:  Riccardo Puglisi (2004) trong nghiên cứu New York Times: Hành vi chính trị của một cơ quan báo chí (Being the New York Times: the Political Behaviour of a Newspaper) đã phân tích dữ liệu của NYT từ năm 1946 đến năm 1994. Từ đó, ông rút ra kết luận, “Trong các cuộc bầu cử tổng thống, NYT tập trung hơn vào các chủ đề thuộc lợi thế lâu dài của đảng Dân chủ như quyền dân sự, y tế, việc làm và phúc lợi xã hội khi tổng thống đương nhiệm là đảng viên Cộng hoà”  Dave D’Alessio và Mike Allen (2000) trong nghiên cứu Khuynh hướng trong bầu cử tổng thống (Media Bias in Presidential Elections) cho rằng, báo chí Mỹ có khuynh hướng đảng phái, thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử tổng thống khi báo chí ủng hộ ứng cử viên này trong khi phản đối ứng cử viên kia.  Robert M. Entman (2007) trong nghiên cứu Làm rõ khuynh hướng: Truyền thông trong sự phân phối quyền lực (Framing Bias: Media in the Distribution of Power) chỉ ra 3 hướng hình thành khuynh hướng. Theo ông, khuynh hướng trong báo chí xuất hiện khi (1) tin tức bóp méo hoặc phản ánh sai hiện thực; (2) tin tức thiên vị một bên thay vì đối xử với hai bên một cách công bằng và (3) nhà báo có thái độ và động cơ tạo ra những nội dung thiếu khách quan. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu Mỹ quan tâm kiểm chứng tuyên bố của các CQBC về tính khách quan và công bằng. Phân tích nội dung TPBC được coi là một trong những hướng tiếp cận quan trọng để nghiên cứu khuynh hướng của báo chí, đặc biệt khi việc phỏng vấn hay điều tra xã hội học đối với nhà báo trở nên khó khăn. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm đã thực hiện về khuynh hướng của NYT và WSJ hoặc không tập trung vào duy nhất hai tờ báo này hoặc tập trung vào các cuộc bầu cử tổng thống hoặc sử dụng mẫu nghiên cứu từ trước năm 2007 trước khi WSJ có sự chuyển biến lớn về sở hữu. Trong khi các nhà nghiên cứu Mỹ đề cao nghiên cứu thực nghiệm về khuynh hướng của báo chí, các nhà nghiên cứu Xô Viết và Việt Nam thiên về nghiên cứu lý luận và tổng hợp. Những nhà lý luận báo chí vô sản đặt tính khuynh hướng trong mối liên hệ với bản chất, vai trò và mục đích chính trị của báo chí. Theo đó, báo chí không chỉ thông tin mà còn tham gia và gây ảnh hưởng đến các quá trình chính trị. Các nhà lý luận báo chí Việt Nam coi tính khuynh hướng là một trong những nguyên tắc hàng đầu, bao trùm và xuyên suốt hoạt động báo chí. Theo đó, việc nhận 7 thức đúng đắn tính khuynh hướng của báo chí giúp nhà báo xác định mục đích nghề nghiệp và định hướng hoạt động một cách đúng đắn. Cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu trong nước chịu ảnh hưởng nhất định của lý luận báo chí Xô Viết. GS.TS. Tạ Ngọc Tấn là một trong những nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu và lý giải KHCT của báo chí. Trong cuốn sách Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, TS. Tạ Ngọc Tấn đã đề cập KHCT của báo chí phương Tây, báo chí Mỹ và biểu hiện của khuynh hướng chính trị - tư tưởng. Tác giả khẳng định rằng, “Khuynh hướng chính trịtư tưởng tồn tại trong báo chí như một hiện tượng khách quan, không thể phủ nhận. Nó được biểu hiện trong từng tác phẩm, trong từng sản phẩm báo chí cụ thể một cách tế nhị.” Đây là tiền đề quan trọng để chúng tôi thực hiện nghiên cứu về khuynh hướng của NYT và WSJ thông qua phân tích nội dung các bài XL của hai tờ báo này. Quan điểm của ông được làm rõ trong một số nghiên cứu khác như cuốn Cơ sở lý luận báo chí và bài viết Báo chí Mỹ trong đời sống chính trị - xã hội. Điểm chung trong cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu trong nước là sự nhất trí về sự tồn tại của KHCT trong báo chí. GS. Hà Minh Đức (2000) cho rằng, tính khuynh hướng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và hoạt động báo chí nói riêng. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong hoạt động báo chí và góp phần tạo nên sự hấp dẫn của báo chí. PGS.TS. Nguyễn Văn Dững (2012) trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí góp phần làm rõ hơn các biểu hiện của khuynh hướng. Ông cho rằng, sự ủng hộ hay phản đối, khen ngợi hay phê phán của CQBC đối với vấn đề, chính sách nhất định luôn gắn liền với lập trường chính trị của CQBC đó. Tác giả Nguyễn Mạnh Hà (2012) trong cuốn Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí đề cập khuynh hướng của báo chí như yếu tố thu hút, gắn kết và định hướng công chúng. Ông cho rằng, “Tính khuynh hướng là thuộc tính của báo chí” đồng thời chỉ ra 3 căn cứ để xác định khuynh hướng của báo chí: chủ sở hữu của CQBC; tôn chỉ của CQBC và góc độ, nội dung thông tin trong TPBC. Tiếp cận từ lĩnh vực chính trị, TS. Lưu Văn An và một số tác giả khác (2008) cho rằng, việc xây dựng khuynh hướng của báo chí là hoạt động có chủ đích của giai cấp lãnh đạo nhằm giành và giữ quyền lực chính trị. Theo đó, các CQBC có thể định hướng thông tin nhằm tạo ra dư luận xã hội theo mong muốn của mình. Dư luận xã hội này đến lượt nó sẽ tác động đến các nhà cầm quyền, buộc họ điều chỉnh, thay đổi hoặc chấm dứt chính sách cụ thể. Ngoài ra, có thể nêu ra một số bài viết và nghiên cứu của các tác giả trong nước về khuynh hướng của báo chí như: 8  Báo chí dưới góc nhìn thực tiễn của PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ (2013): Tác giả cho rằng, báo chí vô sản cần thực hiện tốt tính khuynh hướng hay tính Đảng.  Kỷ yếu Báo chí và truyền thông đại chúng – Đào tạo và bồi dưỡng trong thời kỳ hội nhập của Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2005): Kỷ yếu tập hợp bài viết về các nguyên tắc cơ bản của báo chí vô sản và bản chất của báo chí tư sản.  Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông của Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (1995): Các tác giả cho rằng, hoạt động báo chí không tách rời đời sống chính trị. Như vậy, việc nghiên cứu các tài liệu trong nước về KHCT của báo chí cho thấy, đây là chủ đề quan trọng trong lý luận và thực tiễn báo chí. Các nhà khoa học tiếp cận khuynh hướng của báo chí trên nhiều bình diện và góc độ khác nhau. Trong đó, những luận điểm sau đây đặc biệt đáng quan tâm và là cơ sở quan trọng cho việc triển khai nghiên cứu khuynh hướng của báo chí bằng phương pháp phân tích nội dung. Thứ nhất, các CQBC Mỹ tuyên bố luôn khách quan, công bằng và trung lập. Tính chân thực của tuyên bố này không thể được coi như lẽ đương nhiên mà cần được kiểm chứng trong thực tế bằng chính TPBC của họ. Tuyên bố về tính khách quan, công bằng có thể nhằm che đậy mục đích chính trị thực sự của họ. Hơn nữa, họ phủ nhận sự tồn tại của khuynh hướng trong hoạt động báo chí. Việc nguỵ trang, phủ nhận KHCT nhằm bảo đảm rằng, CQBC tiếp tục duy trì được lợi nhuận từ niềm tin của công chúng. Thứ hai, biểu hiện của KHCT tập trung trong TPBC. Đó có thể là sự ủng hộ, phản đối, khen ngợi hay phê phán của CQBC về các chính sách. Đó cũng có thể là quan điểm và sự đánh giá của CQBC về các vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào trong nước tiến hành phân tích nội dung TPBC của các CQBC Mỹ để xác định rõ những biểu hiện này. Thứ ba, biểu hiện của KHCT thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm chính luận. Khuynh hướng của báo chí được biểu hiện ở các mức độ đậm nhạt khác nhau trong các loại TPBC khác nhau. Vì thế, việc tập trung làm rõ KHCT qua phân tích các tác phẩm chính luận có thể mang lại những kết quả rõ ràng hơn so với các loại tác phẩm báo chí khác. KHCT của báo chí là vấn đề cốt lõi của báo chí trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, do đó, nó trở thành chủ đề nghiên cứu đặc biệt quan trọng. Việc nghiên cứu về khuynh hướng của báo chí Mỹ càng có ý nghĩa trong việc kiểm chứng những tuyên bố của các CQBC Mỹ về tính khách quan, trung lập, phi chính trị. Nghiên cứu khuynh hướng bằng phương pháp phân tích nội dung TPBC là mảnh đất rất cần được khai phá khi các nghiên cứu dạng này hầu như chưa được thực hiện ở Việt Nam. 9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỀ TÀI 1.1. Khuynh hướng chính trị 1.1.1. Khái niệm KHCT trong báo chí KHCT quy định phương hướng thông tin, phản ánh thái độ ủng hộ hay phản đối của chủ thể báo chí đối với những vấn đề và sự kiện cụ thể. Nó gắn liền với mục đích chính trị của CQBC. Do đó, quan điểm, lập trường và đánh giá trong TPBC là những biểu hiện quan trọng của KHCT. Thứ nhất, bản chất chính trị của hoạt động báo chí quy định tính khuynh hướng của báo chí. Thứ hai, KHCT thể hiện nhận thức, tình cảm, quan điểm và thái độ chính trị - xã hội của chủ thể báo chí đối với các sự kiện và vấn đề thời sự. Thứ ba, KHCT được thể hiện tập trung trong các TPBC. 1.1.2. Biểu hiện của KHCT trong tác phẩm báo chí Biểu hiện của KHCT trong TPBC có thể mang tính định lượng hoặc tính định tính. KHCT trong TPBC được thể hiện chủ yếu ở (1) sự lựa chọn đề tài, (2) sự lựa chọn chi tiết thông tin, (3) sự lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt, (4) trích dẫn ý kiến, (5) đề xuất giải pháp và chính sách trong bài XL và (6) tuyên bố quan điểm của CQBC. Thứ nhất, bản thân sự lựa chọn đề tài là một biểu hiện của KHCT trong TPBC. Các CQBC có xu hướng thông tin về vấn đề này nhưng không thông tin về vấn đề khác hoặc thông tin nhiều về vấn đề này nhưng thông tin ít về vấn đề khác. Thứ hai, sự lựa chọn và sắp xếp chi tiết là biểu hiện vi mô của KHCT. Chi tiết là các bộ phận tinh vi cấu thành TPBC. Trên thực tế, việc phát hiện và lựa chọn chi tiết không chỉ phụ thuộc vào khả năng quan sát mà còn cả mục đích của nhà báo. Thứ ba, sự lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt cũng là biểu hiện quan trọng của KHCT. Trong tiếng Anh cũng như trong tiếng Việt đều có những từ gần nhau về nghĩa nhưng mang sắc thái hoàn toàn khác nhau. Việc sử dụng từ này mà không sử dụng từ kia cho biết thái độ, quan điểm của nhà báo. Thứ tư, việc trích dẫn ý kiến hoặc dẫn lời trong TPBC là dấu hiệu giúp nhận biết KHCT. Các CQBC có xu hướng trích dẫn ý kiến của những nhân vật có quan điểm gần với quan điểm của mình. Số lần và tính chất của trích dẫn cho biết CQBC nghiêng về phía nào. Thứ năm, các giải pháp và chính sách được đề xuất trong TPBC, đặc biệt là trong các bài XL cho biết rõ KHCT của CQBC. Các giải pháp và chính sách này cho biết rất nhiều về việc người viết đang đứng trên lập trường nào và tại sao lại có lập trường đó. 10 Thứ sáu, những tuyên bố quan điểm của CQBC là biểu hiện quan trọng về khuynh hướng. Những tuyên bố này cho biết lập trường, chính kiến, sự ủng hộ hoặc phản đối của CQBC đối với vấn đề, chính sách và quyết định. 1.1.3. Các yếu tố chi phối KHCT trong báo chí KHCT hình thành dưới sự tác động tổng hợp của các yếu tố khác nhau. Các yếu tố này có thể tồn tại bên trong hoặc bên ngoài CQBC, trong số đó yếu tố con người và quan hệ kinh tế - chính trị của CQBC có vai trò quan trọng.  Chủ sở hữu và tổng biên tập Với tư cách là người lãnh đạo, chủ sở hữu và tổng biên tập của CQBC đóng vai trò vạch ra định hướng thông tin và tuyển chọn con người để hiện thực hoá định hướng thông tin đó.  Nhà báo Nhà báo có vai trò quan trọng trong việc hiện thực hoá định hướng thông tin đó. Lao động của nhà báo không diễn ra trong một môi trường chân không, phi chính trị mà nó chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, bao gồm: thế giới quan của nhà báo, quy luật nhận thức có tính lựa chọn và định hướng thông tin của chủ sở hữu CQBC.  Công chúng của cơ quan báo chí Với tư cách là người tiếp nhận thông tin, công chúng có vai trò quan trọng đối với bất kỳ CQBC nào. Công chúng là người có quyền đánh giá năng lực và công nhận uy tín của CQBC.  Mối quan hệ kinh tế của cơ quan báo chí Mối quan hệ kinh tế cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến KHCT của CQBC. Nó bao gồm quan hệ của CQBC với các nhà quảng cáo, nhà tài trợ và các tập đoàn kinh tế khác. Các mối quan hệ này không chỉ dựa trên nhu cầu thông tin mà còn xuất phát từ lợi ích chính trị - kinh tế của mỗi bên.  Quan hệ giữa cơ quan báo chí và đảng phái chính trị Mối quan hệ giữa CQBC và đảng phái chính trị là mối quan hệ hai chiều. CQBC cung cấp thông tin cho các nhà chính trị, giúp các nhà chính trị hoạch định chính sách và ra quyết định. Ngược lại, những chính sách và quyết định mà họ đưa ra có thể ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến CQBC. 1.1.4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khuynh hướng chính trị  Đối với cơ quan báo chí Khuynh hướng của báo chí là hiện tượng khách quan, gắn liền với việc khẳng định lập trường, quan điểm của CQBC. Đến lượt nó, lập trường và quan điểm này quy định sự đánh giá và thái độ của CQBC đối với các vấn đề, sự kiện. Sự ủng hộ hay phản đối của CQBC đối với một chính sách hay quyết định có cơ sở của nó. Việc khẳng định KHCT không làm tổn hại mà ngược lại tăng thêm uy tín cho CQBC. 11  Đối với nhà báo Nhà báo cần nhận thức sâu sắc về khuynh hướng của CQBC mà họ phục vụ để đưa ra quan điểm chính trị đúng đắn trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Năng lực nhận thức hiện thực khách quan và nghiệp vụ của nhà báo ảnh hưởng đến tính đúng đắn của quan điểm. Chỉ khi họ thực sự tin vào sự đúng đắn của quan điểm, họ mới có thể đưa ra những lý lẽ xác đáng và vững vàng.  Đối với công chúng báo chí Công chúng cần ý thức về KHCT để tiếp nhận thông tin một cách khôn ngoan. Bên cạnh đó, công chúng cần tìm hiểu các quan điểm đa dạng từ các CQBC khác nhau để hiểu đúng và đủ về bản chất vấn đề trước khi quyết định ủng hộ hay phản đối một chính sách, một ứng cử viên hay một sự nghiệp. 1.2. Xã luận và xã luận trên báo chí Mỹ 1.2.1. Xã luận theo quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước XL là bài báo có ý nghĩa chính trị quan trọng. Nó cho biết quan điểm, lập trường chính trị của CQBC trước các vấn đề và sự kiện thời sự. Đối tượng phản ánh của XL là các vấn đề và sự kiện chính trị - xã hội quan trọng. Tính chất quan trọng của vấn đề góp phần tạo nên tầm cỡ của XL. Mục đích của XL là định hướng nhận thức và hành động cho công chúng thông qua việc phân tích, luận giải và bình luận về vấn đề và sự kiện. 1.2.2. Xã luận theo quan niệm của các nhà nghiên cứu ngoài nước XL là kết quả của việc phân tích và luận giải tin tức. Trong khi tin tức cung cấp thông tin đơn thuần, XL định hướng nhận thức và hành động cho công chúng. XL mang tính hiện thực, gắn với những vấn đề và sự kiện gây tranh cãi trong dư luận xã hội. XL không chỉ phân tích, luận giải về vấn đề và sự kiện mà còn khuyến khích sự trao đổi trong xã hội. Mục đích cuối cùng của XL là khiến công chúng tán thành quan điểm của CQBC. XL trên báo chí Việt Nam và XL trên báo chí Mỹ có khá nhiều điểm tương đồng. Sự tương đồng thấy rõ nhất ở những điểm sau (1) bản chất và chức năng của XL; (2) đối tượng của bài XL và (3) mục đích của bài XL. 1.2.3. Lịch sử phát triển của xã luận trên báo chí Mỹ  Trong thế kỷ XIX Thời kỳ này tính từ khi nước Mỹ giành được độc lập cho tới khoảng cuối thế kỷ XIX. Trong thời kỳ này, XL xuất hiện dưới dạng các bài luận bày tỏ ý kiến. Từ năm 1833 – 1900, XL bước vào một giai đoạn phát triển mới gắn liền với sự phổ biến của báo chí giá rẻ. Trong thời kỳ này, XL về các vấn đề xã hội và con người trở nên rất thịnh hành.  Trong thế kỷ XX 12 Trong thế kỷ XX, hai xu hướng lớn ảnh hưởng mạnh mẽ đến thể loại XL trên báo chí Mỹ. Xu hướng thứ nhất là sự phát triển của các CQBC như các doanh nghiệp vì lợi nhuận. Xu hướng thứ hai là sự chuyên nghiệp hoá nghề báo. Trong giai đoạn này, một số cuốn tài liệu hướng dẫn viết XL được xuất bản, góp phần xây dựng các chuẩn mực về thể loại. Xã luận và viết xã luận, Xã luận – Nghiên cứu về tính hiệu quả là hai tác phẩm tiêu biểu được xuất bản vào những năm 1920.  Trong giai đoạn hiện nay Từ cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, thể loại XL trên báo chí Mỹ đã được định hình rõ nét. Chức năng, cấu trúc và nguyên tắc sáng tạo của thể loại đã được xác lập. Các cuốn sách giáo trình đưa ra các hướng dẫn chi tiết về phương thức sáng tạo tác phẩm. Thế nhưng, vị trí và vai trò của XL có phần suy giảm hơn so với thời kỳ trước. 1.3. Tổng quan về các vấn đề khảo sát BHYT, chính sách thuế và thất nghiệp là 3 vấn đề nổi bật trong đời sống chính trị Mỹ từ năm 2009 đến 2012. Đây là thời kỳ nước Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc chưa từng có kể từ những năm 1930. 1.3.1. Bảo hiểm y tế Luật cải tổ hệ thống y tế mặc dù đã được Quốc hội thông qua nhưng những tranh cãi giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà về Luật cải tổ hệ thống y tế không những không chấm dứt mà còn căng thẳng hơn. Đảng Cộng hoà kêu gọi Toà án tối cao tuyên bố điều khoản về nghĩa vụ mua BHYT là “vi hiến” đồng thời bác bỏ hoàn toàn đạo luật. Đảng Dân chủ tuyên bố sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ đạo luật này. 1.3.2. Chính sách thuế Là vấn đề xuyên suốt nền chính trị Mỹ, chính sách thuế luôn gây ra tranh cãi gay gắt giữa đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ. Nó liên quan trực tiếp đến sự vận hành của nền kinh tế và ngân sách của chính phủ. Trong các cuộc bầu cử tổng thống, chính sách thuế được các ứng cử viên sử dụng như chiến lược quan trọng để thu hút cử tri. 1.3.3. Tình trạng thất nghiệp Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ từ năm 2008 đã gây ra tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng kéo dài. Đảng Cộng hoà cho rằng, tình trạng thất nghiệp tăng cao và kéo dài là do các chính sách kém hiệu quả của chính quyền Obama. Đảng Dân chủ cho rằng, tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng là không thể tránh khỏi khi nền kinh tế suy thoái. Tiểu kết Chương 1 Không chỉ mang tính nghiệp vụ đơn thuần, hoạt động báo chí còn mang tính chính trị. Bản chất chính trị của hoạt động báo chí quy định tính khuynh hướng của báo chí. Đến lượt nó, khuynh hướng của báo chí quy định phương hướng thông tin, phản ánh thái độ ủng hộ hay phản đối của chủ thể báo chí đối với những vấn đề và sự kiện cụ thể. 13 Biểu hiện của KHCT trong TPBC có thể mang tính định lượng hoặc tính định tính. KHCT trong TPBC được thể hiện chủ yếu ở (1) sự lựa chọn đề tài, (2) sự lựa chọn chi tiết thông tin, (3) sự lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt, (4) trích dẫn ý kiến, (5) đề xuất giải pháp và chính sách trong bài XL và (6) tuyên bố quan điểm của CQBC. XL là bài báo quan trọng trong một số báo, là tiếng nói chung của ban biên tập tờ báo. Nó thể hiện quan điểm bao trùm và xuyên suốt số báo đó. Các vấn đề, sự kiện thời sự có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế, chính trị và xã hội là đối tượng phản ánh của bài XL. CHƯƠNG 2: XÃ LUẬN CỦA NEW YORK TIMES VÀ WALL STREET JOURNAL 2.1. Vai trò và quy trình sáng tạo 2.1.1. Vị trí và vai trò của xã luận NYT và WSJ đề cao vai trò của XL trong việc phân tích, đánh giá, bình luận các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội quan trọng. Các bài XL trước hết làm cho những vấn đề khó hiểu trở nên dễ hiểu với công chúng bình thường, từ đó, định hướng nhận thức và hành động cho họ. 2.1.2. Người viết xã luận Những thành viên ban XL của cả NYT và WSJ đều là các phóng viên, biên tập viên nhiều kinh nghiệm. Họ có trình độ học vấn, lĩnh vực chuyên môn, kinh nghiệm công tác, xuất thân… rất đa dạng. Nhiều người trong số các thành viên này từng giành được những giải thưởng báo chí quan trọng như Pulitzer. Đứng đầu ban XL của cả hai tờ báo đều là những nhà báo kỳ cựu, từng trải qua các lĩnh vực và vị trí công tác khác nhau. 2.1.3. Quy trình viết bài xã luận Các bài XL của NYT và WSJ được viết theo quy trình tương đối thống nhất với sự tham gia của cá nhân từng người viết và trưởng ban XL. Quy trình này bao gồm các bước: (1) lựa chọn chủ đề, (2) thảo luận chủ đề và xác định quan điểm, (3) viết và biên tập bài XL và (4) biên tập bản thảo trước khi xuất bản. 2.2. Phân loại xã luận 2.2.1. Phân loại theo mục đích XL có thể được chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận của mỗi nhà nghiên cứu. Căn cứ vào mục đích, có thể chia XL thành 4 loại: phân tích; thuyết phục; ca ngợi và phê phán.  Phân tích: XL cung cấp thông tin về vấn đề, sự kiện phức tạp nhằm giúp công chúng hiểu được bản chất và ý nghĩa của vấn đề, sự kiện đó. Nó cung cấp thông tin nền, dự báo xu 14 hướng và đưa ra đánh giá. XL có thể giải thích cho công chúng về 1 chính sách mới bằng việc cung cấp thông tin về sự hình thành của chính sách, những tranh luận về chính sách và tác động của chính sách đối với các bên liên quan.  Thuyết phục: XL hướng tới việc tác động đến nhận thức của công chúng, khiến họ ủng hộ hoặc phản đối một chính sách, quyết định hay ứng cử viên nào đó. Trong nhiều trường hợp, đối tượng thuyết phục của bài XL là các nhà hoạch định chính sách. Không chỉ phân tích vấn đề, bài XL còn đưa ra những lý do hoặc trình bày sự cần thiết phải tiến hành hoặc chấm dứt một chính sách.  Ca ngợi: Là bài báo bày tỏ quan điểm, XL có thể khen ngợi một cá nhân hoặc tổ chức với lý do chính đáng. Loại XL này thường được NYT và WSJ sử dụng vào thời điểm của cuộc bầu cử tổng thống để khen ngợi ứng cử viên hoặc khi đảng chính trị, chính trị gia mà họ ủng hộ đạt được thành tích nào đó. Bài XL nhấn mạnh ý nghĩa, lợi ích của hành động, quyết định hoặc làm nổi bật kết quả, thế mạnh của ứng cử viên.  Phê phán: Đối tượng phê phán của bài XL có thể là một cá nhân, đảng chính trị hoặc một dự luật, chính sách mới. Phương thức lập luận mà bài XL sử dụng là phân tích, làm rõ nền tảng không phù hợp, những điểm bất hợp lý hay những hậu quả dự kiến của chính sách. Mục đích của việc phê phán bao gồm: gợi ý điều chỉnh dự luật, chính sách; gây sức ép đối với cá nhân, đảng chính trị và kêu gọi sự ủng hộ đối với một chính sách, cá nhân phù hợp hơn. 2.2.2. Phân loại theo lĩnh vực Căn cứ vào lĩnh vực, có thể chia XL thành 3 loại chính: chính trị; kinh tế và xã hội. Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối và khái quát vì trên thực tế một bài XL có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.  Chính trị Các bài XL chính trị của NYT và WSJ thường đề cập đến những vấn đề như hoạt động của chính phủ; mối quan hệ giữa chính phủ với Quốc hội và Toà án tối cao; sự tranh cãi, cạnh tranh giữa đảng Dân chủ với đảng Cộng hoà; chính sách của chính phủ đối với các vấn đề đối ngoại hay quyết định của tổng thống về các vấn đề đối nội…  Kinh tế Các bài XL về kinh tế chiếm tỷ lệ tương đối lớn trên NYT và WSJ. Từ năm 2009 đến 2012, các bài XL đề cập đến các vấn đề kinh tế nổi cộm: việc giải cứu các tập đoàn kinh tế; cải tổ hệ thống tài chính; chính sách thuế đối với tầng lớp thượng lưu; ngân sách chính phủ và các chính sách phục hồi kinh tế của chính phủ…  Xã hội 15 Các bài XL của NYT và WSJ về chủ đề xã hội không phổ biến bằng các bài XL về chủ đề chính trị và kinh tế. So với các bài XL về 2 chủ đề còn lại, bài XL của NYT về chủ đề xã hội chiếm 12% trong khi bài XL của WSJ chỉ chiếm 0,7%. Chủ đề xã hội có thể liên quan đến tình trạng thất nghiệp, hôn nhân đồng giới và giáo dục… 2.2.3. Phân loại theo chủ đề Chủ đề của các bài XL là các vấn đề và sự kiện thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Đây là những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn và được công chúng quan tâm. Phân loại theo chủ đề là cách phân loại cụ thể hơn của phân loại theo lĩnh vực. 2.3. Đặc điểm xã luận của NYT và WSJ 2.3.1. Tít bài xã luận Tít bài XL có chức năng thông báo nhanh về chủ đề của bài viết và thu hút sự chú ý của người đọc. Căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp, có thể chia tít bài XL của NYT và WSJ thành 4 dạng: tít danh từ, tít động từ, tít hoàn chỉnh và tít chính phụ.  Tít danh từ Là loại tít có cấu trúc dạng một danh từ hoặc cụm danh từ. Tít dạng này thông báo ngắn gọn và khái quát cho người đọc về chủ đề của bài XL. Để tăng thêm nội dung thông tin, tít danh từ thường sử dụng hình thức liên kết 2 danh từ bằng liên từ “và” theo dạng “Danh từ A và Danh từ B”. Đây là dạng tít phổ biến nhất trong các bài XL của NYT và WSJ. Cụ thể, 79,3% các bài XL của WSJ sử dụng tít danh từ so với 59,3% của NYT.  Tít động từ Loại tít này bắt đầu bằng một động từ nguyên thể hoặc phái sinh trong tiếng Anh. Tít động từ phù hợp với những bài XL kêu gọi giải pháp hoặc thôi thúc hành động. Dạng tít này không được sử dụng nhiều trong các bài XL của NYT (10,7%) và WSJ (8,7%).  Tít hoàn chỉnh Tít hoàn chỉnh có cấu trúc của câu khẳng định đầy đủ chủ vị hoặc câu hỏi. Đây cũng không phải là dạng tít phổ biến trong các bài XL của NYT và WSJ. Nó phù hợp với những bài XL có tính chất lý giải và phân tích nguyên nhân. Ưu điểm của tít hoàn chỉnh là cung cấp thông tin đầy đủ về chủ đề và nội dung chính của bài XL.  Tít chính phụ 20/150 bài XL của NYT sử dụng dạng tít này trong khi WSJ không sử dụng. Tít gồm 2 phần, trong đó phần đầu nêu chủ đề và phần còn lại bổ sung thông tin chi tiết về chủ đề. Phần mở đầu thường có cấu trúc cụm danh từ hoặc động từ trong khi phần còn lại là câu đầy đủ. So với 3 dạng tít ở trên, tít chính phụ cung cấp đầy đủ thông tin hơn cả nhưng dài hơn. 2.3.2. Cấu trúc 16 Cấu trúc của các bài XL trên NYT và WSJ khá giống với cấu trúc của bài luận học thuật trong tiếng Anh. Các bài XL về cơ bản tuân thủ nguyên tắc thông tin quan trọng đặt trong đoạn mở đầu. Việc khảo sát các bài XL của NYT và WSJ cho thấy, hai CQBC này sử dụng 4 loại cấu trúc chủ yếu.  Cấu trúc 1- Giới thiệu vấn đề, đưa ra quan điểm của mình, trình bày và phản bác quan điểm đối lập, khẳng định quan điểm của mình Cấu trúc này nhấn mạnh quan điểm của CQBC. Quan điểm đối lập có được đề cập đến một cách giới hạn (thường chỉ trong một đoạn) để làm nổi bật quan điểm chính. Bài XL theo cấu trúc này thường nhằm phân tích và thể hiện sự ủng hộ của CQBC đối với chính sách cụ thể.  Cấu trúc 2 - Giới thiệu vấn đề, đưa ra quan điểm đối lập, phản bác quan điểm đối lập, khẳng định quan điểm của mình Cấu trúc này tập trung vào việc làm rõ và phản bác quan điểm đối lập. Phần lớn dung lượng bài XL dành cho việc trình bày và phản đối quan điểm đối lập. Đây là cơ sở để tạo ra sự tương phản và khẳng định quan điểm của CQBC. Cấu trúc này phù hợp với những bài XL phê phán chính sách.  Cấu trúc 3 - Giới thiệu vấn đề, trình bày mặt này của vấn đề, trình bày mặt kia của vấn đề, đưa ra quan điểm của mình Đây là cấu trúc cân bằng, trong đó CQBC trình bày các mặt khác nhau hoặc đánh giá các lựa chọn khác nhau để đi đến kết luận của mình. Cấu trúc này thường được sử dụng khi CQBC phân tích lợi ích và hậu quả; ưu điểm và hạn chế của chính sách hoặc đánh giá ứng cử viên này và ứng cử viên kia.  Cấu trúc 4 - Giới thiệu vấn đề, phân tích vấn đề, đưa ra quan điểm của mình Cấu trúc này không bao gồm quan điểm đối lập. Bài XL đi sâu phân tích và mổ xẻ vào một vấn đề, sự kiện nhằm cung cấp cho công chúng hiểu biết sâu sắc, từ đó thuyết phục công chúng theo quan điểm của CQBC. 2.3.3. Cách thức trình bày và triển khai ý Các bài XL của NYT và WSJ khai thác số liệu, ví dụ hoặc câu trích dẫn để trình bày, làm rõ và chứng minh ý. Trong đó, phần lớn các bài XL sử dụng kết hợp hai hoặc cả ba cách. Kết quả phân tích các bài XL cho thấy, sử dụng số liệu là cách thức trình bày ý phổ biến nhất trong các bài XL của NYT và WSJ. 97/150 bài XL của NYT; 125/150 bài XL của WSJ sử dụng số liệu để trình bày ý.  Số liệu 89,3% các bài XL của NYT và 95,3% các bài XL của WSJ sử dụng số liệu để trình bày và triển khai ý. Số liệu được khai thác từ các nguồn: báo cáo của chính phủ, báo cáo của Quốc hội, nghiên cứu độc lập hay tin tức báo chí. Nguồn số liệu ảnh 17 hưởng trực tiếp đến tính tin cậy và tính khách quan của số liệu. Số liệu được sử dụng để cung cấp thông tin, phác thảo tình hình và làm rõ luận điểm.  Trích dẫn Phát ngôn của các chính trị gia, các nhà kinh tế và các nhân vật có ảnh hưởng được trích dẫn trong các bài XL của NYT và WSJ. Số bài XL sử dụng trích dẫn của WSJ nhiều hơn số bài của NYT: 85,3% so với 68,7%. Trích dẫn có thể ở dạng câu đầy đủ, cụm từ hoặc được diễn đạt lại ý nhân vật.  Ví dụ Bên cạnh việc sử dụng số liệu và trích dẫn, các bài XL của NYT và WSJ còn sử dụng các ví dụ để cụ thể hoá các luận điểm quan trọng. Ví dụ có thể là một trường hợp cụ thể, một chi tiết trong một kế hoạch hay một cộng đồng đang gặp khó khăn… Tiểu kết Chương 2 XL là thể loại quan trọng trên báo chí Mỹ, đặc biệt là trên NYT và WSJ. Bài XL của NYT và WSJ tập trung vào các sự kiện, vấn đề có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội. XL của NYT và WSJ có hình thức và cấu trúc giống bài luận học thuật trong tiếng Anh. XL của NYT và WSJ thường sử dụng các số liệu, các câu trích dẫn và ví dụ để làm rõ, chứng minh hoặc khẳng định quan điểm. Chúng có thể được sử dụng theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho một đảng phải chính trị, một tổ chức hoặc một cá nhân. Mục đích cuối cùng của XL là khiến công chúng ủng hộ, tán thành và hành động theo quan điểm mà CQBC đưa ra. Sức hấp dẫn của XL nằm ở cách CQBC trình bày và bảo vệ quan điểm của mình. Tính thuyết phục của XL nằm ở cách CQBC đưa ra các lập luận và lý lẽ cụ thể để chứng minh sự hợp lý trong quan điểm. 18 CHƯƠNG 3: BIỂU HIỆN ĐỊNH LƯỢNG VỀ KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ CỦA NEW YORK TIMES VÀ WALL STREET JOURNAL 3.1. Hình ảnh của Tổng thống Obama 3.1.1. Số lần đề cập và vai trò của tổng thống Với tư cách là người đưa ra những quyết định và ban hành chính sách quan trọng, Tổng thống Barack Obama được đề cập nhiều lần trong 1 bài và trong nhiều bài XL của NYT và WSJ. 64% các bài XL của NYT và 72,6% các bài XL của WSJ đề cập đến Tổng thống Obama. Trong các bài XL của NYT, Tổng thống Barack Obama xuất hiện với vai trò người ra quyết định đúng đắn và có phát ngôn phù hợp nhiều hơn vai trò người ra quyết định sai lầm và có phát ngôn không phù hợp. Ngược lại, ông Obama được đề cập nhiều hơn với tư cách người đưa ra quyết định sai lầm trong các bài XL của WSJ. Theo đó, tổng thống là người phải chịu trách nhiệm về tình hình không khả quan hoặc không có khả năng cải thiện tình hình như tình trạng thất nghiệp. 3.1.2. Hướng đề cập tổng thống Việc tổng thống được đề cập theo hướng nào và trong vai trò gì là biểu hiện quan trọng về KHCT của CQBC. Cùng một phát ngôn hay quyết định của tổng thống có thể được đánh giá khác nhau. Nhìn chung, các bài XL của NYT và WSJ đề cập đến Tổng thổng Obama theo 3 hướng tích cực, tiêu cực hoặc trung tính. Các bài XL của NYT thường thể hiện hình ảnh của ông Obama một cách tích cực. 45/96 (46,9%) bài XL của NYT đề cập Tổng thống Obama theo hướng khen ngợi và ủng hộ; 37 bài thể hiện quan điểm trung lập. Trong khi đó, hình ảnh của Tổng thống Obama trong các bài XL của WSJ khá tiêu cực. 71/109 (65%) các bài XL của WSJ đề cập tổng thống theo hướng phê phán, phản đối. 3.2. Chính sách của chính quyền liên bang 3.2.1. Các loại chính sách được đề cập Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là hai loại chính sách được đề cập nhiều nhất trong các bài XL của NYT và WSJ. Điều này phù hợp với thực tế 300 bài XL được khảo sát tập trung vào các vấn đề đối nội như BHYT, chính sách thuế và thất nghiệp. 3.2.2. Đánh giá về sự phù hợp của chính sách 19 Kết quả phân tích định lượng cho thấy, 86,3% các bài XL của NYT đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là phù hợp. Chỉ 2,7% các bài XL của NYT đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là không phù hợp. Điều này cho thấy, NYT có xu hướng ủng hộ các chính sách của chính quyền liên bang. Trong khi đó, 97,5% các bài XL của WSJ cho rằng, các chính sách của chính quyền liên bang là không phù hợp. Không có bài XL nào của WSJ đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là phù hợp. 3.3. Giải pháp đưa ra trong bài XL 3.3.1. Số lượng giải pháp NYT không chỉ có nhiều bài XL đưa ra giải pháp hơn mà còn thể hiện thái độ kiên quyết hơn đối với việc thực hiện các giải pháp này. Trong khi đó, cách WSJ sử dụng từ ngữ đưa ra giải pháp có phần nhẹ nhàng và có tính chất khuyến nghị nhiều hơn. 3.3.2. Đối tượng hướng tới và sự phù hợp của giải pháp NYT đưa ra giải pháp phù hợp với đảng Dân chủ trong khi WSJ đưa ra giải pháp phù hợp với đảng Cộng hoà. 41% các bài XL của NYT đưa ra giải pháp gần với chính sách của đảng Dân chủ trong khi 53,3% bài XL của WSJ đưa ra giải pháp gần với chính sách của đảng Cộng hoà. Tiểu kết Chương 3 Tác giả đã dựa vào các bằng chứng mang tính định lượng để xác định khuynh hướng của NYT và WSJ. Các biểu hiện định lượng bao gồm sự thể hiện hình ảnh Tổng thống Obama, đánh giá về chính sách của chính quyền liên bang và giải pháp đề xuất. Tổng thống Obama được thể hiện với vai trò người ra quyết định đúng đắn và có phát ngôn phù hợp nhiều hơn trong các bài XL của NYT so với các bài XL của WSJ. Trong khi đó, ông được thể hiện với vai trò người ra quyết định sai lầm và có phát ngôn không phù hợp nhiều hơn trong các bài XL của WSJ so với các bài XL của NYT. Các chính sách kinh tế và xã hội của chính quyền liên bang được đề cập trong các bài XL của NYT và WSJ. Kết quả phân tích định lượng cho thấy, 86,3% các bài XL của NYT đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là phù hợp. Chỉ 2,7% các bài XL của NYT đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là không phù hợp. Trong khi đó, 97,5% các bài XL của WSJ cho rằng, các chính sách của chính quyền liên bang là không phù hợp. Không có bài XL nào của WSJ đánh giá các chính sách của chính quyền liên bang là phù hợp. Việc có đưa ra giải pháp hay không, đưa ra giải pháp cho đảng nào và giải pháp đó phù hợp với chính sách của đảng nào là những biểu hiện quan trọng về khuynh hướng. Cụ thể, có đến 51/100 bài XL của NYT đưa ra giải pháp cho chính quyền liên 20 bang trong khi chỉ có 14/45 bài XL của WSJ đưa ra giải pháp cho chính quyền liên bang. 41% các bài XL của NYT đưa ra giải pháp gần với chính sách của đảng Dân chủ trong khi 53,3% bài XL của WSJ đưa ra giải pháp gần với chính sách của đảng Cộng hoà. CHƯƠNG 4: BIỂU HIỆN ĐỊNH TÍNH VỀ KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ CỦA NEW YORK TIMES VÀ WALL STREET JOURNAL 4.1. Quan điểm chủ đạo của NYT và WSJ 4.1.1. NYT ủng hộ đảng Dân chủ, phản đối đảng Cộng hoà Kết quả khảo sát 150 bài XL của NYT về 3 chủ đề: BHYT, chính sách thuế và thất nghiệp cho thấy, NYT có xu hướng phản đối đảng Cộng hoà và ủng hộ đảng Dân chủ. NYT có đến 66/150 bài XL (44%) thể hiện quan điểm phản đối đảng Cộng hoà. Kết quả này được củng cố bởi thực tế không có bài XL nào của NYT thể hiện quan điểm ủng hộ đảng Cộng hoà. 4.1.2. WSJ ủng hộ đảng Cộng hoà, phản đối đảng Dân chủ Kết quả khảo sát 150 bài XL của WSJ về 3 chủ đề: BHYT, chính sách thuế và thất nghiệp cho thấy, WSJ có xu hướng phản đối đảng Dân chủ và ủng hộ đảng Cộng hoà. Kết quả này sẽ được làm rõ hơn với việc so sánh quan điểm của NYT và WSJ theo từng vấn đề tiếp theo. WSJ có đến 97/150 bài XL (65%) thể hiện quan điểm phản đối đảng Dân chủ. Kết quả này được củng cố bởi thực tế không có bài XL nào của WSJ thể hiện quan điểm ủng hộ đảng Dân chủ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất