Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khóa luận tốt nghiệp giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn...

Tài liệu Khóa luận tốt nghiệp giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần autoid

.PDF
68
102
83

Mô tả:

CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƢU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan về vốn lƣu động trong doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệ vốn lưu động: Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài TSCĐ còn phải có các TSLĐ tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của TSLĐ khác nhau. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp sản xuất TSLĐ được cấu thành bởi hai bộ phận là TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông. TSLĐ sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu...và tài sản ở khâu sản xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, chi phí chờ phân bổ... Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa chưa được tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng TSLĐ nhất định. Do vậy, để hình thành nên TSLĐ, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư vào loại tài sản này, số vốn đó được gọi là vốn lưu động. Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nên TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình doanh của doanh nghiệp được thực hiên thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại sau một chu kỳ kinh doanh. 1.1.2. Đặc điể của vốn lưu động Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, vì vậy giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định sự vận động của vốn lưu động, hình thái giá trị của tài sản lưu động như sau: Do các doanh nghiệp sản xuất hoạt động theo phương thức T - H - SX - H‟ - T‟ nên hình thái ban đầu của vốn lưu động là tiền tệ rồi chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, nguyên vật liệu được đưa vào chế tạo thành sản phẩm hoặc bán thành phẩm. Kết thúc quá trình vận động, sau khi sản phẩm đã được tiêu thụ vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ. Như vậy vốn lưu động luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của vốn lưu động là khác 1 nhau. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp thương mại thì phương thức vận động của vốn là T – H – T‟. Do vậy bắt đầu quá trình vận động vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá và kết thúc lại trở về hình thái tiền tệ chứ không qua giai đoạn sản xuất, chế biến. Như vậy, chúng ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn lưu động được phân bổ khắp cả trong và ngoài doanh nghiệp. Nó có liên quan đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp và những đối tượng ngoài doanh nghiệp. Vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn lưu động vận động thường xuyên và nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động biến đổi từ hình thái này qua hình thái khác và sau đó sẽ chuyển về hình thái ban đầu. Qua quá trình vận động, vốn lưu động không chỉ biến đổi về hình thái, mà quan trọng hơn nó còn tạo nên sự biến đổi về giá trị. Những thông tin về sự biến đổi này rất cần thiết cho sự tìm ra phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, mặt khác việc thu hồi vốn lưu động sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh có tác dụng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp vì có thể thu hồi vốn lưu động thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành mua sắm vật tư, thiết bị, trang trải nợ nần phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, vốn lưu động chuyển toàn bộ, một lần giá trị vào giá trị sản phẩm, khi kết thúc quá trình sản xuất, giá trị hàng hóa được thực hiện và vốn lưu động được thu hồi. Trong quá trình sản xuất, vốn lưu động được chuyển qua nhiều hình thái khác nhau qua từng giai đoạn. Các giai đoạn của vòng tuần hoàn đó luôn đan xen với nhau mà không tách biệt riêng rẽ. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý vốn lưu động có một vai trò quan trọng. Việc quản lý vốn lưu động đòi hỏi phải thường xuyên nắm sát tình hình luân chuyển vốn, kịp thời khắc phục những ách tắc sản xuất, đảm bảo đồng vốn được lưu chuyển liên tục và nhịp nhàng. Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của doanh nghiệp. Vòng luân chuyển của vốn lưu động được thể hiện qua sơ đồ tổng quát sau. 2 Thang Long University Library Sơ đồ 1.1: Chu trình kinh doanh vốn lƣu động Mua vật tư Sản xuất Vốn bằng tiền Vốn dự trữ SX Hàng hóa Vốn trong SX Sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm (Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp) Vốn lưu động bằng tiền, ở dạng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản tương đương tiền… Khi doanh nghiệp sử dụng tiền để mua sắm nguyên, vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm đầu vào...Vốn bằng tiền chuyển sang vốn vật tư hàng hóa dự trữ. Vốn dự trữ sản xuất này khi tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm sẽ biểu hiện tiếp tục ở dạng vốn sản xuất dưới hình thức: sản phẩm đang chế tạo, thành phẩm… Khi thành phẩm được tiêu thụ, vốn vật chất trở về hình thái vốn bằng tiền ban đầu kết thúc một vòng luân chuyển VLĐ và bắt đầu vòng luân chuyển mới… Quá trình trên được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kì và được gọi là quá trình tuần hoàn và chu chuyển của VLĐ. Trong thực tế, quá trình vận động của VLĐ diễn biến phức tạp hơn nhiều bởi vì ngoài các giai đoạn cơ bản như trên, VLĐ có khi còn phải chuyển hoá qua một hoặc nhiều giai đoạn trung gian như: công nợ phải thu của người mua chưa trả tiền, công nợ phải trả của người bán đã nhận tiền nhưng chưa giao hàng, các khoản tiền tạm ứng cho nhân viên chưa được thanh toán, các khoản vốn phải thu khác… Trong quá trình vận động, các giá trị của VLĐ có thể được biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế khác nhau. Khi VLĐ được đầu tư vào chu kì sản xuất kinh doanh, giá trị của VLĐ được biểu hiện qua chi phí biến đổi (như chi phí nguyên vật liệu, chi phí cho lao động trực tiếp, chi phí thuê ngoài chế biến, hoa hồng bán hàng…) Khi VLĐ được hoàn lại, một phần giá trị VLĐ được biểu hiện qua doanh thu bán hàng sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. 1.1.3. Phân loại vốn lưu động Trong doanh nghiệp, vấn đề tổ chức và chi phí quản lý VLĐ là vấn đề quan trọng trong việc sử dụng VLĐ. VLĐ có mặt trong toàn bộ quy trình sản xuất kinh doanh, quy trình vận động và chuyển hoá của VLĐ vô cùng phức tạp. Tài sản lưu động có thể luôn được chuyển từ hình thái này sang hình thái khác. Để quản lý VLĐ tốt cần thực hiện phân loại VLĐ. Dựa vào vai trò của VLĐ trong quá trình sản xuất ta phân chia 3 VLĐ thành 2 loại trong mỗi loại dựa theo công dụng lại được chia thành nhiều khoản vốn cụ thể : 1.1.3.1. Phân loại theo hình thái biểu hiện của vốn lưu động Theo tiêu thức này thì vốn lưu động bao gồm: - Vốn vật tƣ hàng hoá: là các khoản VLĐ có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, hàng hoá…Xem xét cụ thể hơn: + Vốn về nguyên liệu và vật liệu chính: là giá trị các loại vật tư dự trữ sản xuất mà khi tham gia vào sản xuất chúng cấu thành thực thể của sản phẩm. + Vốn nhiên liệu: là giá trị các loại nhiên liệu dữ trữ dùng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. + Vốn về công cụ dụng cụ: là giá trị của công cụ dụng cụ đủ tiêu chuẩn dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh + Vốn về sản phẩm dở dang đang chế tạo: là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất – kinh doanh đã bỏ ra cho các loại sản phẩm trong quy trình sản xuất. + Vốn về chi phí trả trước: là loại chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất – kinh doanh nên chưa thể tính hết vào giá thành sản phẩm của một số kỳ tiếp theo như: chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, mua bán, lắp đặt trang thiết bị sản xuất kinh doanh. - Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: là các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn. + Vốn bằng tiền: tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc có thể dùng để trả nợ khi cần thiết. Vậy nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp cần phải có một khối lượng tiền nhất định để có thể chi trả cho các chi phí phát sinh. + Các khoản phải thu: chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng mà khách hàng nợ trong quá trình bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ dưới hình thức bán trước thu tiền sau. Trong một số trường hợp mua sắm vật tư, doanh nghiệp còn phải ứng trước một khoản tiền nhất định cho nhà cung cấp từ đó phát sinh các khoản tạm ứng. Phân loại theo tiêu chí này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét và đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.1.3.2. Phân loại theo nguồn hình thành Nguồn VLĐ của doanh nghiệp gồm vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay: 4 Thang Long University Library - Vốn tự có gồm: + Nguồn vốn pháp định gồm: nguồn vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho đơn vị (vốn cấp lần đầu và cấp bổ sung đối với doanh nghiệp nhà nước), nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do các cổ đông đóng góp đối với công ty cổ phần hoặc vốn pháp định của chủ xí nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân. + Nguồn vốn tự bổ sung: hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (thông qua các quỹ khuyến khích phát triển sản xuất), các khoản chênh lệch giá hàng hoá tồn kho. + Nguồn vốn liên doanh, liên kết gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động... - Vốn coi như tự có: do phương pháp kế toán hiện hành có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động, người ta coi như là vốn tự có. Khoản này có: tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, chi phí trích trước chưa đến hạn phải chi có thể sử dụng và các khoản nợ khác. - Nguồn vốn đi vay: để bảo đảm kịp thời thanh toán với ngân hàng trong khi chưa bán được hàng hoặc sự không khớp trong thanh toán, các doanh nghiệp phải thường xuyên có liên hệ với các tổ chức tín dụng để vay tiền. Nguồn vốn đi vay là một nguồn quan trọng, tuy nhiên vay dưới các hình thức vay khác nhau có tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay khi bán được hàng. 1.1.4. Vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động inh doanh của doanh nghiệp Để tiến hành sản xuất, ngoài TSCĐ như máy móc, thiết bị, nhà xưởng... doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra VLĐ còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp. VLĐ còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. 5 VLĐ cũng là yếu tố giúp cho các nhà đầu tư có thể nhận định về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Lượng tiền bị tồn đọng trong hàng tồn kho hoặc lượng tiền mà khách hàng còn đang nợ của doanh nghiệp cho dù đó vẫn là các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vì vậy nếu một công ty không hoạt động ở mức hiệu quả cao nhất định (Ví dụ: thu hồi nợ chậm) thì điều này sẽ biểu hiện ra ngoài bằng sự gia tăng trong VLĐ. Có thể nhận thấy điều này rõ ràng hơn nếu so sánh VLĐ của công ty qua từng thời kỳ việc thu hồi nợ chậm có thể là dấu hiệu cho thấy những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động của công ty. VLĐ còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi nhuận. Do đó, vốn lưu động đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra. 1.1.5. Kết cấu vốn lưu động và những nhân tố ảnh hưởng đến ết cấu vốn lưu động Kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần VLĐ chiếm trong tổng số VLĐ tại một thời điểm nhất định. Việc nghiên cứu kết cấu VLĐ giúp chúng ta thấy được tình hình phân bổ VLĐ và tìm mọi biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong từng điều kiện cụ thể. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu VLĐ cũng không giống nhau. Thông qua phân tích kết cấu VLĐ theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về VLĐ mà mình quản lý và sử dụng. Mặt khác, thông qua việc thay đổi kết cấu VLĐ của doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý, sử dụng VLĐ của từng doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm: - Các nhân tố về mặt sản xuất: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức quá trình sản xuất, tay nghề, cán bộ công nhân viên - Các nhân tố về việc cung ứng nguyên nhiên liệu và tiêu thụ sản phẩm: Phụ thuộc lớn vào mối quan hệ giữa đơn vị được cung ứng, thể hiện ở: + Khoảng cách giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp: khoảng cách giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp càng gần thì việc dự trữ công cụ, nguyên liệu càng thấp. + Uy tín: cơ sở cung cấp nguyên vật liệu có uy tín, đảm bảo về thời gian cũng như chất lượng nguyên liệu thì doanh nghiệp sẽ giảm được việc phải dự trữ quá nhiều nguyên vật liệu, tỷ trọng phải dự trữ sẽ thấp và ngược lại. 6 Thang Long University Library + Đặc điểm sản phẩm: nếu là sản phẩm mới tung ra thị trường thì không nên dự trữ nhiều và ngược lại. + Ngoài ra còn ảnh hưởng bởi mức độ tin cậy của bạn hàng, quy mô hợp đồng ký kết, trình độ tổ chức sản xuất và marketing sản phẩm… - Các nhân tố về mặt thanh toán: đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp. + Phương thức thanh toán hợp lý, đồng bộ không mất nhiều thời gian sẽ tạo thuận tiện cho khách hàng, giúp giảm tỷ trọng các khoản phải thu. + Chấp hành kỷ luật thanh toán, thực hiện hợp đồng thanh toán tốt hay chưa tốt, lựa chọn hình thức thanh toán như thế nào cũng ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ, nếu lựa chọn hình thức thanh toán bằng chuyển khoản thì kết cấu vốn sẽ nghiêng về tiền gửi tại ngân hàng… - Các nhân tố về mặt quản lý: có vai trò quan trọng trực tiếp quyết định đến hiệu quả sử dụng và kết cấu của vốn lưu động, đồng thời nó cũng tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Các nhân tố về mặt sử dụng: Quá trình mua vật tư không phù hợp với quy trình công nghệ hoặc vật tư không đủ tiêu chuẩn chất lượng không thu hồi được phế liệu. Điều này có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. - Nhân tố về lạm phát: Do tác động của nền kinh tế luôn tồn tại lạm phát, nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của vật tư hàng hoá sẽ làm cho giá trị vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm theo tốc độ trượt giá của tiền tệ. - Nhân tố về rủi ro: Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, bình đẳng cạnh tranh và với sức mua thị trường là có hạn thì sẽ luôn tồn tại những rủi ro về thua lỗ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các rủi ro về thiên tai có thể xảy ra dẫn đến sự thâm hụt về vốn cho doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và kết cấu vốn của doanh nghiệp. Vậy doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình, điều kiện sản xuất kinh doanh cụ thể của mình để kiếm chế bớt bất lợi, phát huy ưu thế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 1.2. Quản lý vốn lƣu động trong doanh nghiệp. 1.2.1. Yêu cầu đối với công tác quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp Trong cơ chế hiện nay, việc quản lý vốn kinh doanh là rất cấp thiết đối với doanh nghiệp bởi vì quản lý vốn là khâu quan trọng giúp cho doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Đối với vốn lưu động cũng vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì phải quản lý tốt vốn lưu động và ta cần chú ý đến những vấn đề sau: 7 Thứ nhất, tính toán lượng VLĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó lên kế hoạch huy động vốn hiệu quả, đảm bảo một lượng VLĐ tối thiểu cho quá trình sản xuất kinh doanh liên tục. Tránh tình trạng dự trữ nhiều gây ứ đọng vốn, làm lãng phí nguồn lực, tăng chi phí cho doanh nghiệp. Thứ hai, lựa chọn hình thức huy động VLĐ thích hợp đáp ứng nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, ưu tiên khai thác tối đa nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Tính toán huy động vốn bên ngoài như vay ngân hàng, phát hành trái phiếu... một cách hợp lý để giảm chi phí và đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Thứ ba, đề ra những giải pháp an toàn và phát triển VLĐ. Tuy mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng trước hết phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu cho doanh nghiệp đạt được lợi nhuận là phải bảo toàn VLĐ. Thứ tƣ, đánh giá phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp, có những biện pháp khắc phục kịp thời khi nguồn VLĐ của doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Thứ năm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh và xu thế hội nhập với thế giới. Như vậy, quản lý tốt VLĐ sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời áp dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Từ đó, tạo ra khả năng để doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí giá thành sản phẩm. 1.2.2. Chính sách quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp Nguyên tắc tài trợ: là huy động nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn, huy động nguồn dài hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Nhưng trong thực tế mỗi doanh nghiệp lại thực hiện những chiến lược quản lý vốn phù hợp với tình hình của doanh nghiệp họ. Có ba chiến lược quản lý vốn trong doanh nghiệp là: - Chiến lƣợc quản lý vốn mạo hiểm Chiến lược này dùng một phần của NVNH tài trợ cho TSDH. Khi theo đuổi chiến lược này thì doanh nghiệp mất chi phí thấp, dễ huy động và thời gian quay vòng của tiền ngắn nhưng rủi ro về khả năng thanh toán của doanh nghiệp lại cao và tính tự chủ thấp. 8 Thang Long University Library Sơ đồ 1.2 : Chiến lƣợc quản lý vốn mạo hiểm Trị giá TSLĐ không thường xuyên nguồn vốn ngắn hạn TSLĐ thường xuyên Tài sản dài hạn Nguồn vốn dài hạn Thời gian - Chiến lƣợc quản lý vốn thận trọng Doanh nghiệp dùng một phần NVDH tài trợ cho TSNH. Khi theo đuổi chiến lược này doanh nghiệp mất chi phí sử dụng vốn cao hơn, thời gian quay vòng của tiền lâu hơn, nhưng bù lại rủi ro thanh toán thấp. Sơ đồ 1.3: Chiến lƣợc quản lý vốn thận trọng Trị giá TSLĐ không thường xuyên Nguồn vốn ngắn hạn TSLĐ \ thường xuyên Tài sản dài hạn Nguồn vốn dài hạn Thời gian - Chiến lƣợc quản lý vốn dung hòa Chiến lược này dùng NVNH tài trợ cho TSNH, dùng nguồn vốn dài hạn tài trợ cho TS dài hạn. Khi doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này thì lợi nhuận tạo ra cao hơn chiến lược quản lý vốn thận trọng và ít chịu rủi ro hơn so với chiến lược quản lý mạo hiểm. 9 Sơ đồ 1.4: Chiến lƣợc quản lý vốn dung hòa Trị giá TSLĐ không thường xuyên Nguồn vốn ngắn hạn TSLĐ thường xuyên Nguồn vốn dài hạn Tài sản dài hạn Thời gian 1.2.3. Nội dung cơ bản của công tác quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp 1.2.3.1. Quản lý vốn bằng tiền Tiền là loại tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền nhất định. Vốn bằng tiền của doanh nghiệp gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp, tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi thường xuyên phải có một lượng tiền tương ứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ở trạng thái bình thường. Vốn bằng tiền là một loại tài sản có tính linh hoạt cao và cũng dễ là đối tượng của hành vi tham ô, gian lận, lợi dụng. Một trong những yêu cầu của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp là phải làm cho đồng vốn đầu tư vào kinh doanh không ngừng vận động và sinh lời. Chính vì thế việc quản lý vốn bằng tiền là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của việc quản lý vốn bằng tiền bao gồm: - Xác định số dƣ tiền mặt mục tiêu: Số dư tiền mặt mục tiêu bao gồm sự đánh đổi giữa chi phí cơ hội của việc nắm giữ quá nhiều tiền mặt và chi phí giao dịch của việc nắm giữ quá ít tiền mặt. William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quản lý tiền mặt chính thức liên kết giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch (C*). Mô hình của ông có thể được dùng để tính toán mức số dư tiền mặt mục tiêu và được xác định bằng công thức: 2*T*F C*O = K 10 Thang Long University Library Trong đó: C*: Số dư tiền mặt mục tiêu. T: Tổng nhu cầu về tiền mặt trong một chu kỳ. F: Chi phí một lần giao dịch. K: Lãi suất trên thị trường. Như vậy, nếu doanh nghiệp giữ số tiền mặt ở mức quá thấp, doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán, do đó có thể doanh nghiệp phải bán các tài sản lưu động có tính thanh khoản cao thường xuyên hơn là nếu giữ số tiền mặt cao hơn, điều đó sẽ làm cho chi phí giao dịch tăng lên. Ngược lại, chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt sẽ tăng lên, khi số tiền mặt giữ lại tăng. Do đó, nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải xác định được số dư tiền mặt mục tiêu hay nói cách khác chính là sự cân đối giữa chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt và chi phí giao dịch sao cho tổng chi phí là tối thiểu. - Hoạch định ngân sách tiền mặt: là một kế hoạch ngắn hạn cho sử dụng tiền và nguồn thu tiền mặt của doanh nghiệp được tính trên cơ sở tuần, tháng, quý. Dự đoán nhu cầu chi tiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các hoạt động đầu tư trong tương lai. Đồng thời xem xét các nguồn thu tiền mặt từ hoạt động kinh doanh, đi vay và các nguồn khác. Dự đoán nguồn thu tiền mặt bao gồm thu nhập từ hoạt động kinh doanh, nguồn đi vay và các nguồn khác, trong các nguồn thu kể trên, nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh coi là quan trọng nhất, nó được dự đoán dựa trên cơ sở doanh số bán ra và phần trăm doanh số được thanh toán tiền mặt dự kiến trong kỳ. Dự đoán nhu cầu chi tiêu bao gồm các khoản chi cho sản xuất kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các khoản chi cho hoạt động đầu tư theo kế hoạch của doanh nghiệp, các khoản chi trả lãi, nộp thuế và các khoản chi khác. Trên cơ sở so sánh nhu cầu chi tiêu, doanh nghiệp có thể thấy được mức thặng dư hay thâm hụt ngân quỹ. Từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi ngân sách như tăng tốc độ thu hồi công nợ hoặc giảm tốc độ xuất quỹ nếu có thể thực hiện được, hoặc khéo léo sử dụng các khoản nợ đến thời hạn thanh toán. - Đầu tƣ tiền nhàn rỗi: các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn quản lý tài chính ngắn hạn và giao dịch của mình thông qua ngân hàng và trung gian. Có các loại chứng khoán có khả năng chuyển đổi, có tính thanh khoản cao được mua bán trên thị trường tiền tệ. Doanh nghiệp khi có một lượng tiền nhàn rỗi trong thời gian ngắn có thể đầu tư nhằm tăng khả năng sinh lời và không làm phát sinh chi phí cơ hội. Khi lượng tiền mặt trong doanh nghiệp giảm xuống thấp hơn mức cho phép, doanh nghiệp có thể chuyển đổi các loại chứng khoán này thành tiền mặt và ngược lại. Để thực hiện các nội dung quản lý tiền mặt nói trên doanh nghiệp có thể sử dụng 11 các biện pháp như:  Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt  Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt Trong đó tăng tốc độ thu hồi tiền mặt có thể được thực hiện thông qua việc khuyến khích khách hàng thanh toán sớm với việc áp dụng chính sách chiết khấu đối với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn, quy định phương thức thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng tổ chức theo dõi và đôn đốc thu hồi công nợ. Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt là việc thay vì dùng tiền thanh toán sớm các hoá đơn mua hàng, người quản lý tài chính có thể trì hoãn việc thanh toán trong phạm vi thời gian và các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự suy giảm vị thế tín dụng của doanh nghiệp thấp hơn những lợi ích cho việc thanh toán chậm mang lại. 1.2.3.2. Quản lý các khoản phải thu Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để khuyến khích người mua, doanh nghiệp thường áp dụng phương thức bán chịu đối với khách hàng. Điều này có thể làm tăng thêm một số chi phí do việc tăng thêm các khoản nợ phải thu của khách hàng như chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro...Đổi lại doanh nghiệp cũng có thể tăng thêm được lợi nhuận nhờ mở rộng số lượng sản phẩm tiêu thụ. Quy mô các khoản phải thu chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như sau: Thứ nhất, khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ bán chịu cho khách hàng. Thứ hai, sự thay đổi theo thời vụ của doanh thu: đối với các doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ, trong những thời kỳ sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu thụ lớn, cần khuyến khích tiêu thụ để thu hồi vốn. Thứ ba, thời hạn bán chịu và chính sách tín dụng của mỗi doanh nghiệp: đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có đặc điểm sử dụng lâu bền thì kỳ thu tiền bình quân thường dài hơn các doanh nghiệp ít vốn, sản phẩm dễ hư hao, mất phẩm chất, khó bảo quản. Khoản phải thu là những sản phẩm dịch vụ đã được doanh nghiệp bán và gửi hóa đơn cho khách hàng và đang chờ khách hàng thanh toán. Quản lý khoản phải thu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các khoản phải thu bị thu trậm trễ, dòng tiền trong doanh nghiệp không đủ để tái đầu tư, sản xuất tiếp sẽ gây ra hiện tượng đình trệ, gia tăng các chi phí, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ đối mặt với nhiều rủi ro. Nhưng mặt khác, chính sách bán chịu giúp đẩy mạnh doanh thu và thu hút được khách hàng, do vậy hầu hết các doanh nghiệp vẫn chấp nhận sự có mặt của các khoản phải thu 12 Thang Long University Library Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng những chính sách tín dụng dành cho những khách hàng riêng biệt nhằm tận dụng những ưu điểm của chính sách và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra  Các bƣớc xây dựng chính sách tín dụng: Bước 1: Xác định chính sách bán chịu Xây dựng chính sách bán chịu cần quan tâm đến một số tiêu thức sau: - Quy mô sản phẩm hàng hóa, dịch vụ dự kiến tiêu thụ - Chiết khấu thanh toán - Giá bán của sản phẩm, dịch vụ cho chính sách bán chịu Ngoài những nhân tố tác động trực tiếp, cấu thành nên chính sách phải thu, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến yếu tố bên ngoài như chính sách bán chịu của đối thủ, tình hình tài chính doanh nghiệp… Bước 2: Phân tích năng lực của khách hàng Phƣơng pháp xác định rủi ro cho từng khách hàng đƣợc xác định nhƣ sau Điểm tín dụng = 4  A + 11  B + 1  C Trong đó: A: Khả năng thanh toán lãi của khách hàng B: Khả năng thanh toán nhanh C: Số năm hoạt động Sau đó từng khách hàng sẽ được sắp xếp vào các nhóm rủi ro khác nhau dựa trên kết quả thu được theo bảng sau: Bảng 1.1. Bảng phân nhóm rủi ro khách hàng Biến số Trọng số Điểm tín dụng Nhóm rủi ro Khả năng thanh toán lãi 4 Lớn hơn 47 1 Khả năng thanh toán nhanh 11 40-47 2 Số năm hoạt động 1 32-39 3 24-31 4 Nhỏ hơn 24 5 Bước 3: Quyết định tín dụng Công việc cuối cùng cần hoàn thành trước khi đưa ra quyết định là xem xét các khoản tín dụng mà khách hàng đề nghị, đánh giá chỉ tiêu NPV Quyết định tín dụng khi xem xét 1 phƣơng án: NPV = CFt - CF0 k 13 CF0 = VC CFt = [S   S  ( ACP ) 365 (1- VC) - S  BD - CD]  (1 - T) Trong đó: CFt: Dòng tiền sau thuế mỗi kỳ CF0: Giá trị mà doanh nghiệp đầu tư vào khoản phải thu khách hàng. k: Tỷ lệ thu nhập yêu cầu VC: Dòng tiền ra biến đổi tính theo tỷ lệ % trên dòng tiền vào. S: Dòng tiền vào dự kiến hàng năm ACP: Thời gian thu tiền trung bình (ngày) BD: Tỷ lệ nợ xấu trên doanh thu (%) CD: Dòng tiền ra tăng thêm của bộ phận tín dụng cho việc quản lý và thu các khoản phải thu khách hàng. T: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ kết quả thu được, quyết định đưa ra dựa trên nguyên tắc giá trị hiện tại ròng NPV > 0 : cấp tín dụng NPV = 0 : bàng quan NPV < 0 : từ chối cấp tín dụng 1.2.3.3. Quản lý hàng tồn kho Hàng tồn kho là những tài sản mà doanh nghiệp lưu trữ để sản xuất hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, hàng tồn kho dự trữ thường ở 3 dạng: - Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ - Các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm - Các thành phẩm, hàng hoá chờ tiêu thụ Tuỳ theo các ngành nghề kinh doanh mà tỷ trọng các loại tài sản dự trữ trên có khác nhau. Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất – kinh doanh tiến hành được bình thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loại các hậu quả tiếp theo. Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn của dây chuyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được chia ra những công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. 14 Thang Long University Library Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm ba bộ phận như trên nhưng thông thường trong quản lý vấn đề chủ yếu được đề cập đến là bộ phận thứ nhất, tức là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với các doanh nghiệp thương nghiệp (chuyên kinh doanh hàng hoá) thì dự trữ nguyên vật liệu cũng các nghĩa là dự trữ hàng hoá để bán. Quản lý hàng tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý các hoạt động nhằm vào nguyên vật liệu, hàng hoá đi vào, đi qua và đi ra khỏi doanh nghiệp. Quản lý hàng tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan trọng bởi vì nếu dự trữ không hợp lý sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, hiệu quả kém. Việc quản lý hàng tồn kho có hiệu quả phải đạt được 2 mục tiêu sau: - Mục tiêu an toàn: Đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một khối lượng hàng hóa dự trữ đủ để đảm bảo sản xuất và bán ra thường xuyên, liên tục. - Mục tiêu kinh tế: Đảm bảo chi phí cho dự trữ là thấp nhất. Để kết hợp hài hoà giữa hai mục tiêu này, nhà kinh tế Ford. W. Harris đã đề xuất mô hình EOQ (Economic Order Quantity Model) áp dụng trong quản lý hàng tồn kho để tối thiểu hoá chi phí hàng tồn kho và tối đa hoá an toàn trong cung ứng, đã được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng. Mô hình này giả thiết rằng: - Một lượng hàng hoá như nhau được đặt tại mỗi thời điểm đặt hàng lại. - Các nhà quản lý chỉ quan tâm tới chi phí bảo quản và chi phí đặt hàng là những chi phí chịu ảnh hưởng bởi số lượng hàng tồn kho. Theo lý thuyết về mô hình này thì số lượng hàng đặt hiệu quả là: 2*S*O EOQ = Q* = C Trong đó : EOQ: Số lượng hàng đặt hiệu quả. S: Tổng nhu cầu về hàng lưu kho trong một năm O: Chi phí một lần đặt hàng C: Chi phí bảo quản một đơn vị hàng hoá trong năm Vậy mức dữ trữ trung bình tối ưu là: Q*/2 Theo giả thuyết của mô hình thì nhu cầu và thời gian đặt hàng là xác định. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, dự trữ an toàn được sử dụng như là một lớp đệm chống lại sự gia tăng bất thường của nhu cầu hay thời gian mua hàng hoặc tình trạng không sẵn sàng cung cấp. Dự trữ an toàn là mức tồn kho hay dữ trữ tồn kho ở mọi thời điểm, ngay cả khi lượng tồn kho được xác định theo mô hình EOQ. Vậy dự trữ trung bình tối ưu thực tế là: 15 Q* + Dự trữ an toàn thực tế 2 Như vậy, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động là 2 vấn đề không thể tách rời nhau, nếu quản lý tốt thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ cao và ngược lại. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động doanh nghiệp phải quản lý vốn lưu động một cách khoa học, có hiệu quả. 1.2.3.4. Quản lý TSNH khác Tài sản ngắn hạn khác bao gồm: các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn... Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, theo yêu cầu của bên đối tác, khi vay vốn, thuê mượn tài sản hoặc mua bán đấu thầu làm đại lý... doanh nghiệp phải tiến hành cầm cố, ký quỹ, ký cược. Việc kiểm kê tài sản ngắn hạn hàng tháng, năm nhằm báo cáo cho người quản lý biết được số lượng tài sản hiện có, tình hình quản lý, hiệu quả sử dụng của từng tài sản để đưa ra những quyết định như sửa chữa, nâng cấp, điều chuyển hay thay thế tài sản phù hợp với năng lực tài chính, chính sách đầu tư của doanh nghiệp hay chính sách quản lý tài sản Nhà nước hiện hành, thực hiện quản lý tốt hơn công tác quản lý tránh thất thoát làm mất, gây hư hỏng, thiếu hụt trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Nhằm kiểm soát toàn bộ tài sản của doanh nghiệp hiện đang nắm giữ, để tránh tình trạng thất thoát mất mát… Kiểm tra, kiểm kê tất cả các bộ phận phòng ban bệ thuộc công ty. 1.3. Hiệu quả sử dụng vốn lƣu động trong doanh nghiệp 1.3.1. Khái niệ hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp Đặc trưng cơ bản nhất của VLĐ là sự luân chuyển liên tục trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh và chuyển toàn bộ giá trị một lần vào sản phẩm trong chu kỳ kinh doanh. Do vậy khi đánh giá về hiệu quả sử dụng VLĐ, người ta sẽ chủ yếu đánh giá về tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm sẽ nói lên tình hình hoạt động, mua sắm, dự trữ, sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay không tốt, các khoản nguyên nhiên vật liệu dự trữ hợp lý hay không hợp lý, các khoản phí trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không tiết kiệm. Ngoài mục tiêu sử dụng cho mua sắm, dự trữ, VLĐ còn được sử dụng trong thanh toán. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng VLĐ còn thể hiện ở khả năng đảm bảo lượng VLĐ cần thiết để doanh nghiệp có đủ khả năng thực hiện các khoản thanh toán. Đảm bảo đầy đủ VLĐ trong thanh toán sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tự chủ hơn trong kinh doanh, vừa tạo uy tín với bạn hàng và khách hàng. 16 Thang Long University Library Nói một cách ngắn gọn, hiệu quả sử dụng VLĐ là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ và năng lực quản lý VLĐ của doanh nghiệp, đảm bảo VLĐ được luân chuyển ở tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp luôn duy trì ở tình trạng tốt và mức chi phí vốn bỏ ra là thấp nhất. 1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp Điểm xuất phát của quá trình SXKD của mỗi doanh nghiệp là phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có vốn sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cao mới chính là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp. Với mục đích đó thì việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác quản lý tài chính. Trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được nhà nước cấp phát và cho việc sử dụng vốn có hiệu quả được đặt lên hàng đầu. Từ khi nền kinh tế có sự chuyển đổi về cơ chế, các doanh nghiệp nhà nước cùng tồn tại song song với các thành phần kinh tế khác trong một nền kinh tế thị trường, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải năng động hơn, tìm kiếm và mở rộng sản xuất, phải tự chủ về tài chính. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải liên tục đổi mới nâng cao công tác tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp có hiệu quả, nếu không làm tốt được việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn và các khoản vay cho vốn thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng bị ăn mòn vốn, việc kinh doanh bị phá sản. Trên thực tế trong những năm qua, rất nhiều doanh nghiệp phải đối diện với vấn đề nan giải của sự “đói vốn”. Tuy vậy, điều đáng lo ngại và đáng nói hơn đó là việc họ đã và đang sử dụng VLĐ của mình đã thật sự đem lại hiệu quả chưa. Bởi vì việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ sẽ đưa lại cho doanh nghiệp những lại ích to lớn, cụ thể là: - VLĐ được sử dụng cho sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả cao thì năng lực sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Vì vậy không ngừng tiết kiệm trong việc sử dụng VLĐ sẽ từng bước hạ chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, tăng doanh thu, từ đó đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. - Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ chính là góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển VLĐ, làm cho vốn quay được nhiều vòng hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn từ một đồng vốn bỏ ra. Thêm vào đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ cũng làm góp phần rất lớn vào việc giảm đi chi phí huy động những nguồn vốn có chi phí cao vào sử dụng, từ đó giúp giảm tối đa được chi phí sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 17 - VLĐ được sử dụng hợp lí, có hiệu quả còn góp phần cải thiện tình hình thanh toán cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng chi trả cho các khoản nợ vay. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn của ngân hàng hay các đối tượng khác để bù đắp phần thiếu hụt của đơn vị mình dẫn đến một thực trạng là riêng số tiền lãi phải trả hàng năm đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì những lí do trên mà mỗi doanh nghiệp phải tiến hành thường xuyên phân tích tình hình sử dụng VLĐ thông qua các chỉ tiêu như vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ…Cho đến nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu và tính tất yếu khách quan của nó trong việc nâng cao sức cạnh tranh và góp phần làm tăng mức doanh thu cho doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả, hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nhằm phát huy được những mặt mạnh, giảm thiểu những mặt tiêu cực tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt được các nhân tố tác động đó. - Nhóm các nhân tố khách quan:  Các chính sách vĩ mô: Chính sách kinh tế của nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế, vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước là người hướng dẫn kiểm soát và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. Sự thay đổi trong chế độ chính sách đều có tác động tốt hoặc xấu đối với doanh nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng VLĐ thì các chính sách thuế, chính sách tín dụng của Nhà nước sẽ có tác động rất lớn. Lãi suất và thuế suất thay đổi sẽ có thể làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cần nắm bắt và am hiểu luật pháp để từ đó tạo lợi ích cho mình từ những sự ưu tiên.  Lạm phát: Do tác động của nền kinh tế có lạm phát hoặc thiểu phát, sức mua của đồng tiền bị giảm sút dẫn đến sự tăng giá của các loại vật tư hàng hoá…Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản thì sẽ làm cho VLĐ bị mất theo tốc độ trượt giá của tiền tệ  Sự tiến bộ của khoa học công nghệ: Ngày nay, khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhiều phát minh mới ra đời thay thế những cái cũ, lạc hậu. Công nghệ có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng VLĐ. Công nghệ mới sẽ làm rút ngắn thời 18 Thang Long University Library gian VLĐ bị ứ đọng trong sản xuất, tăng thêm vòng quay cho nó. Vì vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến việc áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm hiện đại hoá trang thiết bị, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không tiếp cận kịp thời với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để đổi mới trong thiết bị, sản phẩm thì sẽ có nguy cơ dẫn doanh nghiệp tới tình trạng làm ăn thua lỗ do sản phẩm làm ra không còn thích ứng, phù hợp với nhu cầu thị trường.  Nhu cầu tiêu dùng: Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng VLĐ và nó càng có ý nghĩa hơn trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng dư cung ở tất cả mọi ngành, mọi lĩnh vực, cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Nếu như cầu tiêu dùng lớn, doanh thu tiêu thụ cao, doanh nghiệp sẽ tận dụng được tối đa công suất của VLĐ, giảm tối thiểu thời gian ứ đọng vốn. Ngược lại, những biến động bất lợi về nhu cầu sẽ gây nên ứ đọng vốn lớn, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Vậy nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành phân tích thị trường xác định đúng đắn mức cầu về sản phẩm, hàng hoá và xem xét đến các yếu tố cạnh tranh. Đồng thời căn cứ vào tình hình hiện tại, doanh nghiệp tiến hành chọn phương án kinh doanh thích hợp nhằm tạo ra lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường. - Nhóm các nhân tố chủ quan: ngoài các nhân tố khách quan còn có rất nhiều nhân tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ, cũng như tới toàn bộ quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp như:  Con người: có thể nói con người luôn đóng vai trò quan trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì trình độ quản lý, năng lực chuyên môn cũng như việc ra những quyết định sáng suốt sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tối ưu khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt.  Việc xây dựng chiến lược và phương án kinh doanh: các chiến lược và phương án kinh doanh phải được xác định trên cơ sở tiếp cận thị trường cũng như phải có sự phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của nhà nước. Đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị trường, đồng thời hạ giá thành thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của VLĐ, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại.  Trình độ và khả năng quản lý: trong điều kiện nền kinh tế thị trường trình độ và khả năng quản lý giữ một vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý và sản xuất để có hiệu quả thì bộ máy tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất phải gọn nhẹ, đồng bộ và nhịp nhàng với nhau. 19 Ngược lại nếu trình độ tổ chức quản lý còn non kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư, hàng hoá, sử dụng lãng phí TSLĐ, hiệu quả sử dụng VLĐ thấp. Trên đây là một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần xem xét quy mô, loại hình của doanh nghiệp mình mà nghiên cứu xem xét sự ảnh hưởng của từng nhân tố để tìm ra mặt còn hạn chế trong việc tổ chức quản lý sử dụng VLĐ của doanh nghiệp, nhằm đưa ra những biện pháp cải thiện giúp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. 1.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp 1.3.4.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động chung - Số vòng quay VLĐ Doanh thu thuần Số vòng quay VLĐ = VLĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của VLĐ thực hiện trong một thời kỳ nhất định. Nó cho biết một đồng VLĐ bình quân bỏ ra có thể tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Việc tăng vòng quay VLĐ có ý nghĩa kinh tế rất lớn, giúp doanh nghiệp giảm được lượng VLĐ không cần thiết trong kinh doanh, từ đó giảm vốn vay và hạ thấp chi phí sử dụng vốn. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. - Khả năng sinh lời của vốn lƣu động Lợi nhuận sau thuế Sức sinh lời của = vốn lưu động Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn lưu động dùng vào hoạt động SXKD của DN sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là tốt góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. - Hệ số đảm nhiệm của vốn lƣu động Vốn lưu động bình quân Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Doanh thu thuần Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động phản ánh để được một đồng doanh thua thuần thì cần phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng thấp thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn lưu động tiết kiệm được càng lớn. Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì chỉ tiêu này thường nhỏ và với cùng một 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất