LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi; các số liệu và trích dẫn
trong luận án là hoàn toàn trung thực, chính xác.
Nghiên cứu sinh
Trần Đức Thắng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Các công trình nước ngoài và trong nước liên quan đến đề tài
1.2.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP QUỐC PHÒNG VỚI
KINH TẾ Ở BỆNH VIỆN QUÂN Y 175 VÀ KINH
NGHIỆM THỰC TIỄN
2.1.
Một số vấn đề chung về kinh tế, quốc phòng, kết hợp kinh tế
với quốc phòng
2.2.
Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến kết hợp quốc
phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175
2.3.
Kinh nghiệm kết hợp Quốc phòng với kinh tế ở một số bệnh
viện quân đội và bài học rút ra cho Bệnh viện Quân y 175
Chương 3 THỰC TRẠNG KẾT HỢP QUỐC PHÒNG VỚI KINH TẾ
Ở BỆNH VIỆN QUÂN Y 175
3.1.
Ưu điểm và hạn chế trong kết hợp quốc phòng với kinh tế ở
Bệnh viện Quân y 175 thời gian qua
3.2.
Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần
tập trung giải quyết từ thực trạng kết hợp quốc phòng với kinh
tế ở Bệnh viện Quân y 175
Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP QUỐC
PHÒNG VỚI KINH TẾ Ở BỆNH VIỆN QUÂN Y 175
THỜI GIAN TỚI
3.1.
Quan điểm kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y
175 thời gian tới
3.2.
Giải pháp kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y
175 thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
5
10
10
22
27
27
37
52
75
75
98
123
123
130
155
157
158
Chữ viết đầy đủ
An ninh nhân dân
Bảo vệ Tổ quốc
Bảo hiểm y tế
Bênh viện Quân y 175
Bộ quốc phòng
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Dịch vụ y tế
Kết hợp quốc phòng với kinh tế
Kết hợp quân dân y
Kinh tế - xã hội
Khoa học - công nghệ
Kinh tế - quốc phòng
Liên hợp quốc
Lực lượng vũ trang
Quốc phòng, an ninh
Chữ viết tắt
ANND
BVTQ
BHYT
BVQY 175
BQP
CNXH
CNH, HĐH
DVYT
KHQPVKT
KHQDY
KT - XH
KH - CN
KT - QP
LHQ
LLVT
QP, AN
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1.
Thống kê số lượng bệnh nhân khám tại Bệnh viện Quân y 175
75
Bảng 3.2.
giai đoạn 2013 - 2017.
Thống kê số lượng bệnh nhân điều trị tại bệnh viện 175 giai
77
Bảng 3.3.
đoạn 2013 - 2017.
Thống kê số lượng bệnh nhân cấp cứu tại bệnh viện 175
giai đoạn 2013 - 2017.
78
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Kết quả thu dịch vụ y tế của BVQY 175.
Thống kê công tác đào tạo của Bệnh viện 175 giai đoạn 2013 - 2017
Thống kê số lượng đề tài nghiên cứu của Bệnh viện 175
80
81
85
Bảng 3.7.
giai đoạn 2013 - 2017.
Kết quả nghiệm thu các đề tài nghiên cứu của Bệnh viện 175
Bảng 3.8.
Bảng 3.9.
giai đoạn 2013 - 2017.
Kết quả hoạt động chuyên môn của Trung tâm y tế Trường Sa
Kết quả thực hiện xây dựng cơ bản của Bệnh viện quân y 175
86
92
Bảng 3.10.
giai đoạn 2013 - 2017.
103
Kết quả phân tích chất lượng đảng viên của Đảng bộ Bệnh
viện Quân y 175 qua các năm.
114
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là vấn đề có
tính quy luật khi xã hội còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nó nảy sinh
từ mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh, quốc phòng; mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là phương thức có hiệu quả nhằm vừa nâng cao
tiềm lực kinh tế vừa tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc gia.
Ở Việt Nam, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế
đã được cha ông ta tiến hành từ rất sớm và trong nhiều thời kỳ đã có tư tưởng
kết hợp vượt trước thời đại. Từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng đến nay,
Đảng ta luôn quan tâm đến việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng
với kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế ở nước ta được thực
hiện trên tất cả các ngành, các lĩnh vực, các địa phương và được tiến hành cơ
bản lâu dài từ trong quy hoạch, kế hoách đến tổ chức triển khai thực hiện
chương trình, dự án phát triển của các ngành, các cấp, các địa phương, các
lĩnh vực của đất nước. Đảng ta khẳng định: việc kết hợp kinh tế với quốc
phòng không chỉ là một nội dung của đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa [36, tr58], mà còn là một chính sách lớn về kinh tế, xã hội. Theo đó
“Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế theo một phương
hướng cơ bản, lâu dài, đồng thời có dự kiến trước để kịp điều chỉnh cho phù
hợp khi xảy ra biến động bảo đảm đánh thắng quân thù… Công tác quy hoạch
phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất, xây
dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm
tạo ra một thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc
phòng trong cả nước và trong từng địa phương” [37, tr 76].
Y tế là một ngành dịch vụ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân và bộ đội. Do đó việc kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế trong lĩnh vực y tế luôn là một nội dung quan trong
6
trong đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng ta. Hiện nay chúng ta
đã có “Chương trình Kết hợp quân-dân y” (gọi tắt là Chương trình y tế Số 12
hình thành từ cuối năm 1990 và chính thức triển khai thực hiện từ giữa năm
1991). Đây là chương trình kết hợp giữa y tế quân đội và y tế dân sự trong
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và bộ đội, góp phần xây dựng tiềm lực quốc
phòng của đất nước. Đây là một chương trình có tầm chiến lược, tính khoa học
và thực tiễn cao, kế thừa được truyền thống và kinh nghiệm của ngành Quân y
và dân y trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược. Chương trình không chỉ giải quyết những vấn đề nổi cộm, quan trọng và
phù hợp với tình hình lúc đó, mà còn mang lại hiệu quả và đáp ứng được
những yêu cầu bức thiết hiện nay cũng như lâu dài. Với mục tiêu chiến lược
nhằm: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn ngành y tế, cả quân y và dân y
phục vụ sức khoẻ nhân dân và lực lượng vũ trang trong thời bình; chuẩn bị sẵn
sàng và đối phó có hiệu quả khi có chiến tranh và các tình huống cần thiết
khác. Sau hơn 15 năm thực hiện, Chương trình KHQDY đã thu được những
thành tựu rất quan trọng. Chương trình KHQDY đã bám sát các định hướng
chiến lược của Đảng và Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của công tác y tế, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. KHQDY đã góp phần quan trọng
vào xây dựng tiềm lực y tế - quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân. Điều
đáng chú ý nữa là Chương trình KHQDY trở thành một động lực quan trọng
thúc đẩy tiến trình và chất lượng xây dựng lực lượng y tế dự bị động viên.
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về kết hợp kinh tế
với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, những năm qua Bệnh viện Quân y
175 đã thực hiện tốt nội dung kết hợp trong khám và chữa bệnh cho bộ đội và
nhân dân, kết hợp trong nghiên cứu ứng dụng các thành tựu y tế, trong đào tạo
nguồn nhân lực y tế... Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện kết
hợp kinh tế với quốc phòng ở Bệnh viện Quân Y 175 trong thời gian vừa qua
vẫn còn nhiều bất cập cần phải khắc phục. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
7
kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với y tế nảy sinh chưa được giải
đáp kịp thời trên cả phương diện nhận thức, quản lý và tổ chức thực hiện,
như: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân viên của Bệnh viện về kết hợp
quốc phòng với kinh tế còn chưa đầy đủ; nội dung và phương thức kết hợp
còn nhiều vấn đề chưa thống nhất, chậm đổi mới so với sự phát triển của tình
hình; kết hợp trong khám chữa bệnh cho nhân dân và bộ đội nhiều mặt còn
hạn chế; việc phối kết hợp giữ các lực lượng trong nghiên cứu, ứng dụng
thành tựu ý tế chuyên sâu chưa chặt chẽ; công tác giáo dục, đào tạo cán bộ y
tế cho quân đội và dân sự chưa phát huy hết tiềm năng... Vì vậy, đề tài “Kết
hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175” mà nghiên cứu sinh lựa
chọn là vấn đề thời sự có ý nghĩa lý luận và thực tiến sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất quan điểm, giải pháp kết hợp
quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về kết hợp quốc phòng với kinh tế ở
Bệnh viện Quân y 175: làm rõ quan niệm, phân tích nội dung và những nhân
tố tác động đến kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
- Nghiên cứu kinh nghiệm kết hợp quốc phòng với kinh tế ở một số
bệnh viện quân đội và rút ra bài bọc cho Bệnh viện Quân y 175.
- Đánh giá đúng thành tựu, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân và những mâu
thuẫn cần tập trung giải quyết từ thực trạng kết hợp quốc phòng với kinh tế ở
Bệnh viện Quân y 175.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa việc kết hợp
quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175 trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Kết hợp quốc phòng với kinh tế trong lĩnh
vực y tế của quân đội.
8
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện
Quân y 175 trên các nội dung: khám chữa bệnh cho nhân dân và bộ đội; trong
nghiên cứu ứng dụng thành tựu y tế; trong đào tạo nguồn nhân lực y tế; trong
xây dựng ý tế cơ sở.
- Về không gian : Nghiên cứu tại Bệnh viện Quân y 175.
- Về thời gian: Các số liệu được nghiên cứu từ năm 2013 đến năm 2017
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng,
của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế nói chung, trong lĩnh vực y tế nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên cơ sở khảo sát thực tế của nghiên
cứu sinh, các báo cáo hàng năm của Bệnh viện Quân y 175; tài liệu thống kê
và báo cáo tổng kết của các bộ, ban ngành có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Đây là phương
pháp được sử dụng trong toàn bộ nội dung của luận án, nhằm xây dựng cơ sở
lý luận, thực tiễn, đề xuất quan điểm, giải pháp kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở Bệnh viện Quân y 175.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Phương pháp này được áp
dụng chủ yếu ở chương 2 trong việc xây dựng các khái niệm công cụ, khái
niệm trung tâm và phân tích nội dung, các nhân tố tác động đến kết hợp quốc
phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
- Phương pháp thống kê - so sánh: Được sử dụng chủ yếu ở chương 3
để làm rõ thực trạng kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng trong cả 4 chương
của luận án, nhưng chủ yếu là chương 3, chương 4 nhằm đánh giá đúng thực
trạng kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175, đề xuất quan
điểm giải pháp để thực hiện tốt hơn việc kết hợp trong thời gian tới.
9
- Phương pháp lôgic - lịch sử: Được sử dụng chủ yếu ở chương 3 để
tìm ra nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và chỉ ra những mâu thuẫn cần giải
quyết từ thực trạng kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Được sử dụng ở cả ba
chương, nhất là chương 1 nhằm kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
đã công bố.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Chỉ ra quan niệm, nội dung kết hợp quốc phòng với kinh tế ở Bệnh
viện Quân y 175.
- Chỉ ra mâu thuẫn cần tập trung giải quyết từ thực trạng kết hợp quốc
phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc kết hợp
quốc phòng với kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Về mặt lý luận
- Bổ sung hoàn thiện lý luận về kết hợp quốc phòng với kinh tế trong
lĩnh vực y tế.
- Góp phần luận giải những vấn đề lý luận về kết hợp quốc phòng với
kinh tế ở Bệnh viện Quân y 175.
* Về mặt thực tiễn
- Đề tài nghiên cứu thành công là tài liệu cho cán bộ quản lý Bộ Quốc
phòng, Cục Quân Y, Bệnh viện Quân y 175 tham khảo đề ra các giải pháp kết
hợp quốc phòng với kinh tế.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu
khoa học kinh tế chính trị ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, các
công trình nghiên cứu của tác giả liên quan đến đề tài, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nước ngoài và trong nước liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nước ngoài liên quan đến đề tài
A. Larơcốp (1962) “Tổ chức võ trang và bảo vệ Tổ quốc XHCN” [2],
trên cơ sở khái quát lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự cần thiết tổ chức
vũ trang bảo vệ Tổ quốc; lực lượng vũ trang Xô viết bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ nước ngoài can thiệp vào nội chiến, tác giả khẳng định: Chính phủ
Liên Xô trước sau như một, vẫn giữ vững việc chấp hành chính sách củng cố
lực lượng quân sự của nhà nước Xô Viết. Cuốn sách đã chỉ ra: củng cố lực
lượng quân sự là một chính sách có ý nghĩa quyết định đối với chính sách xây
dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô.
M. V. Phrunde (1974) “Xây dựng quân đội củng cố quốc phòng sẵn
sàng chiến đấu” [98], tác giả đã bàn đến xây dựng quân đội và củng cố quốc
phòng ở Liên Xô; tiền tuyến và hậu phương trong chiến tranh; khẳng định vai
trò của con người và kỹ thuật trong chiến tranh hiện đại; rèn luyện kỷ luật
quân sự trong bộ đội chính quy và dân binh địa phương. Đặc biệt, tác giả đã
nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của mọi lực lượng trong chuẩn bị đất nước
sẵn sàng về quốc phòng khi có chiến tranh xảy ra; vai trò của giáo dục quân
sự trong các nhà trường, vai trò của động viên kinh tế, y tế cho chiến tranh.
John Wilson Lewis, Xue Litai (1977) “Sức mạnh về chiến lược trên
biển của Trung quốc - Những chính sách hiện đại hóa quân sự trong thời đại
hạt nhân” [82], hai tác giả này đã bàn về chính sách hiện đại hóa quân đội,
nhất là tăng cường sức mạnh trên biển của Trung Quốc. Đặc biệt các tác giả
đã đi sâu phân tích chính sách kết hợp giữa quân sự với dân sự của Trung
Quốc trên biển đảo, trong đó có kết hợp quân y và dân y.
11
Đ.P.Uxtinốp (1982) “Những bài học chọn lọc về quân sự” [72], trên cơ
sở phân tích thực tiễn về tổ chức biên chế, tiềm lực tạo nên sức mạnh quốc
phòng, tác giả đã nêu lên kinh nghiệm phong phú nhiều mặt về xây dựng lực
lượng vũ trang, củng cố quốc phòng. Cuốn sách đã bàn nhiều đến đảm bảo
các nguồn lực trong đó có y tế cho quốc phòng.
A.I.Pôgiarốp (1985) “Những cơ sở kinh tế của sức mạnh quốc phòng
của nhà nước xã hội chủ nghĩa” [1], tác giả đã phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế với chiến tranh, tác động của kinh tế đối với sự phát triển
của toàn bộ công tác quân sự. Từ đó vạch ra nguồn gốc, bản chất và quá trình
phát triển của kinh tế quân sự trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.
Vạch rõ bản chất phản động của kinh tế quân sự tư bản chủ nghĩa, tính ưu việt
của kinh tế quân sự các nước xã hội chủ nghĩa.
“Tư duy quân sự nước ngoài” (1990) ” [123], đây là một công trình
nghiên cứu tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu quân sự và các tướng
lĩnh của quân đội nước ngoài như Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp...
Trong công trình này, các tác giả tập trung phân tích, làm rõ quá trình đổi mới
tư duy quân sự của các quốc gia, dân tộc hiện nay theo hướng “điều chỉnh
những quan điểm về chiến tranh, về học thuyết quân sự, định ra những kế
hoạch chiến lược phục vụ cho những mục tiêu trước mắt và lâu dài”. Các tác
giả khẳng định: “Quốc gia nào muốn giành phần thắng trong thế kỷ XXI thì
phải xây dựng Chiến lược phát triển quốc phòng”. Trong đó, phải xây dựng
quân đội chính quy, tinh nhuệ; phát triển công nghiệp, khoa học kỹ thuật quốc
phòng; kiện toàn và hoàn thiện lực lượng động viên chiến tranh.
B. James và D. Goure (2001) “Bản phác thảo về chiến lược quân sự
mới của Mỹ” [26]. Các tác giả tập trung phân tích, luận giải quá trình đổi mới
về chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm đầu thế kỷ XXI. Các tác giả
cho rằng, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, “Chiến lược quân sự quốc gia”
của Mỹ đề ra trước đây không còn phù hợp. Do vậy, nước Mỹ cần phải xây
12
dựng một “Chiến lược quân sự quốc gia mới”, trong đó, trọng tâm là chiến
lược “kế hoạch hoá quân đội” và “đẩy mạnh cuộc cách mạng các vấn đề quân
sự trong quân đội”.
Reppy Judith với cuốn sách: “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng: một bình luận” [108]. Trên cơ sở quan niệm của Intriligator, tác giả đã
khái quát bản chất và phạm vi của kinh tế quốc phòng, tập trung vào các đặc
điểm về mặt thể chế của hệ thống quốc phòng. Theo đó, phạm vi của kinh tế
quốc phòng, có thể mở rộng hơn, bao gồm cả các yếu tố kinh tế bảo đảm cho
các hoạt động phi quân sự thuộc về khái niệm của quốc phòng, ví dụ như
phòng thủ dân sự, bảo vệ tài nguyên, môi trường, văn hóa.
Suvanthoong ThepVong Sa (2015) “Tác động của kinh tế thị trường
đối với nền quốc phòng ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” [114], tác giả luận
án đã làm rõ cơ sở lý luận về sự tác động của kinh tế thị trường đối với nền
quốc phòng ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phân tích thực trạng của sự
tác động, đồng thời đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm phát huy những tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với nền
quốc phòng ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
1.1.2. Các công trình trong nước liên quan đến đề tài
1.1.2.1. Các công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh
tế với quốc phòng đã được công bố
Trần Thái Bình (2010), “Quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [14], tác giả bài báo đã phân
tích mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tác giả khẳng định: kinh tế là yếu tố
suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng - an ninh về nguồn gốc ra đời,
bản chất của quốc phòng - an ninh, khả năng huy động các nguồn lực cho
quốc phòng - an ninh, quyết định đến tổ chức biên chế, trang bị vũ khí của lực
lượng vũ trang, qua đó quyết định đến chiến lược quốc phòng - an ninh của
13
đất nước. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra sự tác động trở lại của quốc phòng an ninh đến kinh tế; trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò bảo vệ môi
trường hòa bình tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng - an
ninh, tác giả đề xuất phải kết hợp thật tốt giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng - an ninh trong một chỉnh thể thống nhất để tạo nên sức mạnh
tổng hợp cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nguyễn Văn Ngừng (2010)“Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện
nay và tác động đối với an ninh trật tự ở Việt Nam” [101], cuốn sách tập trung
nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thế giới và xu hướng
vận động trong thời gian tới, từ đó đánh giá những tác động của nó đối với
nền kinh tế Việt Nam và những ảnh hưởng đối với vấn đề an ninh trật tự ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội
dưới tác động của toàn cầu hóa.
Nguyễn Xuân Yêm (2014), “Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh, phòng chống tội phạm trong tình
hình hiện nay” [135], tác giả bài báo đã phân tích mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh, phòng chống tội phạm
trong tình hình hiện nay; trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc
phòng, an ninh, phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
1.1.2.2. Các công trình khoa học nghiên cứu về kết hợp kinh tế với
quốc phòng đã được công bố
Văn Tiến Dũng (1975), Mấy vấn đề kết hợp xây dựng kinh tế với củng
cố quốc phòng [38], tác giả đã khái quát, đánh giá kết quả hoạt động của 30
năm kết hợp kinh tế với quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
14
Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975, tác giả khẳng định “Kết hợp xây dựng
kinh tế với củng cố quốc phòng là một phương châm cơ bản trong nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng, có
quan hệ trực tiếp đến vận mệnh Tổ quốc”. Sự khẳng định này cho thấy, nhận
thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng đã có
những bước phát triển nhất định.
Lê Văn Dũng (1997), Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên khu
vực kinh tế trọng điểm phía Nam [39], tác giả đã đề cập đến kết hợp kinh tế
với quốc phòng ở góc độ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Trần Xuân Trường, Nguyễn Anh Bắc (1980), “Vấn đề kết hợp kinh tế
với quốc phòng ở nước ta” [125], các tác giả đã khẳng định: vấn đề kết hợp
kinh tế với quốc phòng là một nội dung của đường lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội và BVTQ ở nước ta, một quy luật phổ biến ở mọi nước XHCN. Từ
khẳng định trên, các tác giả đã phân tích luận chứng làm rõ mối liên hệ, vai
trò ngày càng tăng của nhân tố kinh tế với chiến tranh và quốc phòng; đồng
thời làm rõ tính quy luật, yêu cầu, phương thức, đặc điểm, mức độ và trình
độ, nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta. Đồng thời còn chỉ
rõ, để kinh tế và quốc phòng gắn bó khăng khít với nhau đến mức như là
một, đòi hỏi phải có sự am hiểu, thống nhất hành động của cán bộ, đảng viên
và toàn thể nhân dân, có một hệ thống tổ chức lãnh đạo, quản lý thống nhất
dựa trên một hệ thống pháp luật đầy đủ.
Trần Trung Tín (1998), “Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam
hiện nay” [115], luận án đề cập tương đối có hệ thống và toàn diện về mối
quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và quốc phòng ở Việt Nam; chỉ rõ sự cần thiết,
mục đích, nội dung của sự kết hợp. Trên cơ sở phân tích thực trạng kết hợp
kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp, đề tài đã chỉ ra nội dung đổi mới sự kết hợp trên cả góc độ
15
hoạch định, thực thi chính sách và phương thức hoạt động KT - XH, quân sự quốc phòng; đưa ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả
trong quá trình thực hiện cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đinh Văn Huệ (1999), “Mấy suy nghĩ về kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” [77]. Từ những phân tích về
lý luận và thực trạng, tác giả đã đề xuất phương hướng, mục tiêu, yêu cầu thực
hiện sự kết hợp kinh tế với QP - AN ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Học viện Quốc phòng (1999) “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước” [76], đề tài khoa học
cấp Nhà nước, Mã số KHXH-07-07, Hà Nội. Công trình này đã phân tích cơ
sở lý luận, thực trạng và đề xuất giải pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề
tài là nguồn tư liệu quý để tác giả có thể kế thừa, phát triển.
Hoàng Xuân Lâm (2000) “Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [86], Thông tin chuyên đề “Kết hợp
kinh tế với quốc phòng” số 1-2000, do Phòng Thông tin Khoa học, công nghệ
và Môi trường, Tổng Cục kỹ thuật và Ban Khoa học và công nghệ chiến lược
quân sự phối hợp thực hiện. Ở công trình này, tác giả đã khái quát một số vấn
đề về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam từ Nghị quyết Trung ương 14 khoá II (11/1958) đến Đại hội VIII.
Nguyễn Văn Rinh (2003) “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế trong
tiến trình CNH - HĐH đất nước” [109], tác giả xác định quân đội là một trong
những lực lượng nòng cốt tham gia xây dựng và phát triển KT - XH, củng cố QP
- AN trên các địa bàn chiến lược. Những nhiệm vụ đó là sự cụ thể hoá các Nghị
quyết của Đảng về việc kết hợp kinh tế với QP - AN và QP - AN với kinh tế
trong chiến lược phát triển KT - XH ở Việt Nam. Cuốn sách là những luận điểm
mang tính định hướng cho mỗi cán bộ, chiến sỹ tiếp tục quán triệt và thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ được Đảng, quân đội và nhân dân giao phó.
16
Ngô Xuân Lịch (2006) “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường sức mạnh quốc phòng - an ninh ở địa bàn Quân khu 3” [87]. Bài viết
này chỉ rõ: kết hợp chặt chẽ KT - XH với QP - AN là vấn đề mang tính quy
luật; BVTQ phải gắn với bảo vệ chế độ XHCN; nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh là hai mặt gắn chặt với nhau của nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
Để BVTQ phải: phát huy sức mạnh tổng hợp; nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự cường, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, kết hợp với tranh thủ các
điều kiện quốc tế thuận lợi; quán triệt quan điểm thực tiễn, phát triển trong
mọi hoạt động củng cố quốc phòng.
Nguyễn Đức Độ (2010) “Một số vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng
ở Việt Nam trong tình hình mới” [70], tác giả đã luận giải một số vấn đề
chung về kết hợp Nguyễn Đức Độ kinh tế với quốc phòng, lược sử nhận thức
kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến và từ
khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phân tích các nhân tố tác
động, mục tiêu, nội dung và định hướng kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
một số lĩnh vực và ngành kinh tế chủ yếu ở Việt Nam trong tình hình mới.
Trần Đăng Bộ (2011) “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong các văn kiện Đại hội XI” [18], tác giả khẳng định, kết hợp kinh
tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong các văn kiện Đại hội XI là sự
phát triển nhận thức và tư duy kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trần Hữu Sâm (2011), “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối
ngoại trong quản lý bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia” [111 ], tác
giả đã luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh, đối ngoại trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới
quốc gia; chỉ rõ thực trạng kết hợp; phân tích sâu sắc yêu cầu, nội dung,
phương thức kết hợp. Các nội dung này là sự bổ sung, phát triển và hoàn thiện
17
lý luận được rút ra qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của sự kết hợp ở
chương 1; đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp kinh
tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới quốc gia thời kỳ mới.
Trần Đăng Bộ (2012) “Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
kết hợp kinh tế với quốc phòng trong tình hình hiện nay” [19] ,theo tác giả, tư
tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng là một trong những cơ
sở hình thành và phát triển tư duy kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, việc vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về kết hợp kinh tế với quốc phòng cũng chính là sự phát triển tư duy kết hợp
kinh tế với quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trần Đăng Bộ (2012) “Một số vấn đề cơ bản về kết hợp công nghiệp
quốc phòng với công nghiệp dân dụng ở nước ta hiện nay” [20], tuy sự phát
triển nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc
phòng không phải là nội dung nghiên cứu của cuốn sách, nên tác giả không đề
cập trực tiếp và cũng không đi sâu phân tích nội dung này, nhưng nội dung
khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng cho thấy, nhận
thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự kế
thừa, phát triển tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trước năm 1930 khi sự nghiệp cách
mạng chưa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, đây sẽ là nội dung mới mà
đề tài cần nghiên cứu tổng kết để góp phần làm rõ sự phát triển nhận thức của
Đảng cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Trần Đăng Bộ (2013), “Tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975” [21] . Đây là công trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt
18
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, công trình
này mới chỉ nghiên cứu dưới dạng tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế với
quốc phòng ở Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975, trên cơ sở đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm và định hướng vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây không phải là công
trình nghiên cứu tổng kết sự phát triển nhận thức của Đảng cộng sản Việt
Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Dương Văn Minh (2013) Chủ nhiệm đề tài: “Kết hợp quốc phòng với
kinh tế, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam trong tình hình mới” [97] . Trên cơ
sở làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về kết hợp quốc phòng với kinh tế, an
ninh và đối ngoại; đề tài đã phân tích quan điểm, mục tiêu và nội dung,
phương thức kết hợp quốc phòng với kinh tế, an ninh và đối ngoại ở Việt
Nam trong tình hình mới. Từ một số vấn đề lý luận về kết hợp quốc phòng
với kinh tế, an ninh và đối ngoại ở đề tài này có thể khẳng định, kết hợp quốc
phòng với kinh tế, an ninh và đối ngoại là sự phát triển nhận thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng thời kỳ đổi mới. Tuy
nhiên, sự phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế
với quốc phòng thời kỳ đổi mới không phải là đối tượng nghiên cứu của đề
tài, nên không được đề cập nghiên cứu làm rõ ở đề tài này.
Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu nêu trên được
tác giả luận án kế thừa và làm sâu sắc hơn quan niệm về củng cố quốc phòng
và những nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế
trong giai đoạn hiện nay.
Tổng Cục chính trị (2013) “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh,
đối ngoại trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia” [118] .
Đây là cuốn sách luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh, đối ngoại; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao
19
hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong quản lý,
bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Tuy mục đích của việc kết hợp kinh tế
với quốc phòng, an ninh, đối ngoại là nhằm quản lý, bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới quốc gia, nhưng nội dung kết hợp này đã thể hiện sự phát triển
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Tuy không đề cập trực tiếp đến nội dung phát triển này, nhưng cuốn sách có
nhiều nội dung khoa học có thể kế thừa, phát triển đối với đề tài.
Đặng Đức Quy (2014) Chủ nhiệm đề tài: “Tổng kết hoạt động kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay” [107] . Mặc dù đây
là công trình nghiên cứu tổng kết hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng ở
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1975 đến
nay; song công trình này mới chỉ nghiên cứu dưới dạng tổng kết lịch sử hoạt
động kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, trên
cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và định hướng vận dụng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Bộ Quốc Phòng “Một số
vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay”
[129], các tác giả khẳng định kết hợp KTQP là vấn đề có tính quy luật trong
xã hội còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, là hoạt động có tính chủ động
của Nhà nước, được thực hiện bởi nhiều lực lượng và diễn ra ở nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội nhằm mục tiêu vừa phát triển kinh tế vừa tăng cường sức mạnh
quốc phòng. Công trình còn đề cập đến nhân tố tác động, mục tiêu, nội dung
và phương thức, biểu hiện sự kết hợp ở một số ngành, vùng.
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2014) “Tư tưởng quốc
phòng Việt Nam” [128], tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh,
đối ngoại đã được khái quát và khẳng định là một trong những nội dung
quan trọng “nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh, lợi ích quốc
20
gia luôn là kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Bước vào thời kỳ
mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong hơn 25 năm
đổi mới vừa qua, chúng ta đã gắn kết chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trần Đăng Bộ (2016) “Sự phát triển nhận thức của Đảng về kết hợp
kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XII” [22]
. Kỷ yếu Hội thảo cấp Quốc gia (Phần thứ nhất: Những quan điểm cơ bản và
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII), Hà Nội,
tháng 7-2016. Tác giả cho rằng, kết hợp kinh tế với quốc phòng là kết quả đổi
mới tư duy phát triển của Đảng; không chỉ thể hiện nhận thức về một vấn đề
chiến lược đã được tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn, mà còn thể
hiện sự phát triển, hoàn thiện hơn nhận thức của Đảng về một chủ trương
chiến lược lâu dài. Sự phát triển đó thể hiện ở những nội dung như: thứ nhất,
sự phát triển nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của việc kết hợp kinh tế với
quốc phòng, an ninh và đối ngoại; thứ hai, sự phát triển nhận thức của Đảng
về chủ thể và lực lượng tham gia kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và
đối ngoại; thứ ba, sự phát triển nhận thức của Đảng về kết hợp kinh tế với
quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và theo vùng lãnh thổ, ngành kinh tế; thứ tư, sự phát
triển nhận thức của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại là một phương thức xây dựng lực lượng quốc phòng.
1.1.2.3. Các công trình đã công bố bàn đến kết hợp quân dân y
Đỗ Nguyên Phương (1998), “Kết hợp quân dân y trong chiến lược bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và bộ đội ở vùng sâu, vùng xa” [104 ], tác giả
khẳng định: kết hợp quân dân y trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và bộ
đội là một tất yếu khách quan hiện nay. Hoạt động này là sự cụ thể hóa của
kết hợp kinh tế với quốc phòng trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, có ý nghĩa
- Xem thêm -