Cảm thụ văn học lớp 3 bài Ông tổ nghề thêu
Ông tổ nghề thêu
1. Hồi còn nhỏ, cậu bé Trần Quốc Khái rất ham học. Cậu học cả khi đi đốn củi,
lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng,
lấy ánh sáng đọc sách. Chẳng bao lâu, Khái đỗ tiến sĩ, rồi làm quan to trong
triều đình nhà Lê.
2. Một lần, Trần Quốc Khái được triều đình cử đi sứ bên Trung Quốc. Vua
Trung Quốc muốn thử tài sứ thần, sai dựng một cái lầu cao, mời ông lên chơi,
rồi cất thang đi. Không còn lối xuống, ông đành ở lại trên lầu. Lầu chỉ có hai
pho tượng Phật, hai cái lọng, một bức trướng thêu ba chữ “Phật trong lòng” và
một vò nước.
3. Bụng đói mà không có cơm ăn, Trần Quốc Khái lẩm nhẩm đọc ba chữ trên
bức trướng, rồi mỉm cười, ông bẻ tay pho tượng nếm thử. Thì ra hai pho tượng
ấy nặn bằng bột chè lam. Từ đó, ngày hai bữa, ông cứ ung dung bẻ dần tượng
mà ăn. Nhân được nhàn rỗi ông mày mò quan sát, nhớ nhập tâm cách thêu và
làm lọng.
4. Học được cách thêu và làm lọng rồi, ông tìm đường xuống. Thấy những con
dơi xoè cánh chao đi chao lại như chiếc lá bay, ông liền ôm lọng nhảy xuống
đất bình an vô sự. Vua Trung Quốc khen ông là người có tài, đặt tiệc to tiễn về
nước.
5. Về đến nước nhà, Trần Quốc Khái truyền dạy cho dân nghề thêu và nghề
làm lọng. Dần dần, nghề thêu lan rộng ra khắp nơi. Nhân dân vùng Thường Tín,
quê ông, lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.
Theo Ngọc Vũ
Cách đọc
Là một câu chuyện kể, mỗi sự việc (tình tiết) ứng với một đoạn (đã được đánh
số), cần nghỉ ở đó lâu hơn; cụm từ của câu đầu đoạn kế tiếp cần đọc nhấn để
người nghe dễ theo dõi.
Nhiều câu có trạng ngữ, cần ngắt rõ phần trạng ngữ đó:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
– Hồi còn nhỏ, cậu bé Trần Quốc Khái rất ham học.
– Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm…
– Về đến nước nhà, Trần Quốc Khái truyền dạy…
Gợi ý cảm thụ
Trần Quốc Khái (1606 – 1661), người làng Quất Động, huyện Thường Tín,
tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), trong một lần đi sứ Trung Quốc đã học được nghề
thêu và làm lọng, đem truyền dạy cho dân, trở thành ông tổ nghề thêu của nước
ta.
Ông học được hai nghề này trong hoàn cảnh rất đặc biệt: bị giam lỏng trên lầu
cao, phải tự tìm cách sống và tìm cách xuống đất.
Trước hết nhờ có kiến thức sâu rộng nên ông giữ được bình tĩnh trong cảnh
hiểm nghèo. Ông đọc các chữ trên bức trướng và có thể tìm ra được điều gợi ý
nào đó. Ông phát hiện hai bức tượng bằng chè lam, cứ việc bẻ ra ăn nên không
bị đói. Trong lúc nhàn rỗi, ông tìm hiểu những đồ vật, do đó học được cách
thêu và làm lọng. Có chuyện còn kể rằng ông gỡ những chữ thêu trên trướng
rồi tập đan lại, làm nhiều lần, thế là biết cách thêu. Còn lọng, ông cũng tháo ra
chắp vào, xem xét vải sơn vải lợp, cùng cách lắp cán, lắp chân, thế là nắm được
cách làm lọng.
Thuở ấy chưa có việc nhảy dù, nhưng quan sát loài dơi, thấy chúng bay được
do có đôi cánh nâng chúng lên, do đó ông dùng cái lọng làm chiếc dù để bay
xuống đất. Đó là một sáng kiến rất độc đáo, giống hệt cách nhảy dù ngày nay
của các phi công: dùng lực cản của không khí làm cho chiếc dù rơi từ từ.
Không chỉ dùng tài tự cứu mình, ông còn đem nghề thêu và làm lọng truyền
dạy cho nhân dân. Đó là trường hợp không nhiều ở các ông quan to thời xưa,
thường chỉ coi đọc sách là cao quý, chỉ biết văn chương thơ phú, chứ không
giỏi các nghề tinh xảo của dân gian.
Tham khảo chi tiết các bài giải lớp 3 tại đây:
https://vndoc.com/giai-vo-bai-tap-tieng-viet-3
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
- Xem thêm -