Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Kiến thức tổng hợp Hoạt động của trí thức việt nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 1945)...

Tài liệu Hoạt động của trí thức việt nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 1945)

.PDF
133
1
54

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN ĐẶNG SỸ KHOA HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945) Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 8229013 Ngƣời hƣớng dẫn: TS. TRƢƠNG THỊ DƢƠNG LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp với đề tài “Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 – 1945)” là nghiên cứu độc lập của tôi. Được dẫn dắt và hướng dẫn bởi TS. Trương Thị Dương. Các nhận định nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập, trung thực của bản thân tác giả luận văn trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu khoa học. Luận văn không đạo nhái hay sao chép từ bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tất cả tài liệu trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường nếu phát hiện bất cứ sự sai phạm hay sao chép trong đề tài này! Tác giả Đặng Sỹ Khoa MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu............................................... 8 6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 8 7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 9 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945) ......................................................... 10 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945............................... 10 1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ............................................. 10 1.1.2. Chính sách nô dịch của thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa ..... 12 1.2. Khái quát chung về trí thức Việt Nam (1897 - 1945)........................... 15 1.2.1. Khái quát chung về trí thức ............................................................ 15 1.2.2. Khái quát về trí thức Việt Nam (1897 - 1945) ............................... 24 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 28 Chƣơng 2. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897- 1945) ........................................... 30 2.1. Trí thức tiếp thu và truyền bá chữ Quốc ngữ........................................ 30 2.1.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 ............................................................... 31 2.1.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 ............................................................... 35 2.2. Trí thức Việt Nam hoạt động văn học .................................................. 39 2.2.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 .................................................................. 39 2.1.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 .................................................................. 44 2.3. Trí thức Việt Nam hoạt động báo chí ................................................... 49 2.3.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 ............................................................... 49 2.3.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 ............................................................... 51 2.4. Một số hoạt động khác của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897 đến 1945 .............................................................................. 56 2.4.1. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc ........... 56 2.4.2. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực mỹ thuật ............................. 58 2.4.3. Hoạt động của trí thức về nghệ thuật sân khấu .............................. 60 2.4.4. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực âm nhạc.............................. 63 2.4.5. Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực trang phục ......... 68 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 71 Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897- 1945) ........................................... 72 3.1. Đặc điểm hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh văn hóa (1897 -1945)..72 3.1.1. Hoạt động văn hóa có sự tham gia của nhiều thành phần trí thức và có sự kế thừa, chuyển giao .................................................................. 72 3.1.2. Hoạt động văn hóa của trí thức giai đoạn 1897 – 1945 chủ động tiếp nhận văn hóa phương Tây, nổi trội là truyền bá chữ Quốc ngữ, làm báo cách mạng ................................................................................... 76 3.1.3. Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa là sự tiếp biến văn hóa toàn diện, mở đầu cho nhiều thể loại văn hóa hiện đại .............. 81 3.2. Đóng góp của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897 đến 1945 ....................................................................................................... 85 3.2.1. Trí thức Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945 tiên phong trong tiếp nhận văn minh phương Tây, tiếp thu và truyền bá tư tưởng mới vào Việt Nam .................................................................................................. 85 3.2.2. Trí thức có công truyền bá, đưa chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ chính trong đời sống và biến thành phương tiện hoạt động văn hóa ............... 88 3.2.3. Trí thức Việt Nam góp phần làm thay đổi văn hóa vật chất ở Việt Nam, góp phần hình thành văn hóa đô thị, thay đổi tư duy văn hóa ở nông thôn .................................................................................................. 89 3.2.4. Thông qua hoạt động văn hóa trí thức Việt Nam góp phần vào thắng lợi phong trào giải phóng dân tộc................................................... 90 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 95 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98 PHỤ LỤC QUYẾT ĐỊNH GIAO TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO) 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong mọi thời đại trí thức luôn là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, đóng vai trò quan trọng trong sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của người trí thức đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Người cho rằng: “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức”. Nhiều trí thức đã có những cống hiến vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam và cả sinh mệnh của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn. Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, lực lượng trí thức còn thể hiện vai trò, tầm ảnh hưởng của mình trong lĩnh vực văn hóa, trong đó giai đoạn 18971945 trên mặt trận văn hóa, trí thức Việt Nam có nhiều hoạt động không chỉ góp phần vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám mà còn xây dựng một nền văn hóa mới mang đậm bản sác văn hóa dân tộc kết hợp thêm những tinh hoa của văn hóa phương Tây. Về phía thực dân, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa. Đây cũng là thời điểm văn hóa Việt Nam giao lưu, tiếp xúc mạnh mẽ với một nền văn hóa, văn minh mới của nhân loại – văn minh phương Tây. Điều này đã làm cho đời sống văn hóa của người Việt Nam nhất là trong đội ngũ trí thức có sự thay đổi và xáo trộn. Một bộ phận trí thức có nhãn quan mở rộng, tân tiến, sáng suốt chủ động trong việc tiếp nhận, học hỏi “gạn đục khơi trong” nền văn minh ấy cũng chính là con đường đánh thắng thực dân Pháp, “học hỏi kẻ thù để đánh đuổi kẻ thù”. 2 Bởi tầm ảnh hưởng, vai trò quan trọng của bộ phận trí thức trên lĩnh vực văn hóa trong giai đoạn này, đồng thời chưa có công trình nào nghiên cứu hoạt động văn hóa của trí thức một cách có hệ thống, vì vậy tôi chọn đề tài: “Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897-1945)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ với mục đích tìm hiểu sâu về hoạt động văn hóa của giới trí thức trong giai đoạn kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi 1897-1945, qua đó đánh giá vai trò của trí thức trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bên cạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam trong thời kì lịch sử cận đại. Trong đó có những công trình nghiên cứu về trí thức với văn hóa Việt Nam, tuy nhiên hầu như chưa có công trình chuyên sâu vào hoạt động của trí thức trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897-1945. Tuy nhiên, có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức có đề cập ít nhiều đến hoạt động văn hóa của trí thức: * Công trình nghiên cứu về văn hóa, trí thức và những điều kiện tác động đến hoạt động của trí thức Công trình nghiên cứu chuyên sâu về trí thức, Năm 1987, tác giả Vũ Khiêu với tác phẩm “Trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử” ca gợi công lao của trí thức Việt Nam đặc biệt là Hồ Chí Minh. Cùng tác giả, trong tác phẩm “Trí thức Việt Nam thời xưa” cho biết mỗi thời kỳ lịch sử giữa các thế hệ trí thức tuy điều kiện hình thành khác nhau song phẩm chất đạo đức, tư duy và hành động của trí thức Việt Nam luôn gắn liền tới sự thịnh suy của đất nước. Tuy nhiên tác phẩm mới đề cập đến trí thức thế kỷ XIX mà chưa đề cập đến hoạt động của trí thức giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu bối cảnh tác động đến sự chuyển biến tư tưởng của trí thức có sách “Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội xuất bản năm 1997. Cuốn sách đã 3 trình bày khá sâu sắc khái niệm Tân thư, nguồn gốc và ảnh hưởng của Tân thư đối với phong trào cải cách ở châu Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Cuốn sách đã chỉ ra những con đường du nhập Tân thư vào Việt Nam và tác động của Tân thư đối với đời sống văn hóa ở Việt Nam. Tân thư chính là một trong những chất xúc tác quan trọng thúc đẩy sự chuyển biến tư tưởng của đội ngũ trí thức Nho giáo, dẫn đến sự ra đời của các Nhà nho cấp tiến. Nhà nghiên cứu lịch sử Chương Thâu với công trình“Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỉ XX” xuất bản năm 1982. Trong phần 2, tác giả đã sưu tầm và giới thiệu những nguồn tư liệu quý (sách, báo, thơ, văn) của Trường Đông Kinh nghĩa thục, những tư liệu này góp phần phản ánh rõ hơn thái độ tự nguyện tiếp nhận văn minh phương Tây của các nhà trí thức cấp tiến Việt Nam. Những hoạt động giáo dục gắn liền với hoạt động văn hóa khiến cho thực dân Pháp lo lắng và chúng đã tước giấy phép hoạt động của Trường. Tuy nhiên tác phẩm này mới chỉ đề cập đến hoạt động của trí thức Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Năm 2016, tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Khánh xuất bản nghiên cứu xuyên suốt và có cái nhìn tổng thể về trí thức Việt Nam từ thời phong kiến cho đến nay. Qua công trình tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về trí thức, sự hình thành phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong đó tác giả giành riêng một mục đóng góp về lĩnh vực văn hóa của trí thức ở mỗi giai đoạn. Gần đây nhất có công trình “Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 -1954)” xuất bản năm 2020 với nội dung là các bài giảng của Trịnh Văn Thảo tại trường Quốc tế về Triết học, được nhóm biên dịch của trường Đại học KHXH & NV Hà Nội thực hiện. Công trình tập trung vào sự chuyển biến của ba thế hệ trí thức từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, từ đó tìm ta mẫu số chung của trí thức Việt Nam dù xuất thân khác nhau, thành phần khác nhau nhưng đều giống nhau là có truyền thống yêu nước. 4 Tái bản gần đây có tập sách: “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám”, (tái bản 2020). Qua tập một, tác giả Trần Văn Giàu phân tích khá rõ tư tưởng thủ cựu và duy tân của trí thức Nho học ở nửa cuối thế kỷ XIX, và nhìn chung đa số trí thức chống đối lại việc học tập phương Tây. Nhưng ở tập hai và tập ba của bộ sách phản ánh rõ nhiều trí thức Nho học cấp tiến đã tiếp nhận những tư tưởng mới từ bên ngoài vào qua nhiều lăng kính khác nhau, góp phần mở đường cho một loại hình phong trào giải phóng dân tộc mới, trong đó có tiếp thu cách giáo dục của phương Tây. Ở góc độ giáo trình chuyên sâu về văn hóa có nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm và giáo sư Trần Quốc Vượng với tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, được dùng nhiều trong các trường Đại học, Cao đẳng là công trình nghiên cứu khá sâu về văn hóa Việt Nam trên nhiều phương diện như tập trung vào khái niệm văn hóa và những biểu hiện của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần ở Việt Nam trong ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Trong đó khi nói đến chủ thể văn hóa và tiến trình văn hóa có chia giai đoạn văn hóa giao thoa với văn hóa phương Tây là từ khi Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam. Nghiên cứu ở góc độ giáo trình dạy ở bậc Cao học và Đại học có: Nguyễn Văn Khánh: “Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (18581945)” xuất bản năm 2000, viết khá toàn diện về chương trình khai thác bóc lột của Pháp, trong đó đề cập đến chính sách nô dịch của thực dân Pháp ở Việt Nam nhằm mục đích làm cho nhân dân Việt Nam quên đi nguồn cội của mình, còn thanh niên bị lôi kéo vào những thói ăn chơi mà quên đi trách nhiệm với dân tộc. Nhưng cùng với tiến trình khai thác thuộc địa xã hội Việt Nam phân hóa, đội ngũ trí thức Tân học ra đời từ nền giáo dục Pháp – Việt lại trở thành lực lượng chống lại thực dân, trong đó văn hóa là một mặt trận. Cuốn “Đại cương Lịch sử Việt Nam” tập 2 do Giáo sư Đinh Xuân Lâm chủ biên, hay cuốn “Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đến 1918” Q 2, Tập 2 của Nguyễn Văn Kiệm (1979), “Lịch sử Việt Nam” tập II của Nguyễn Khánh 5 Toàn chủ biên (2004) cũng đã có mục nghiên cứu riêng về chính sách văn hóa của Pháp. Trong đó cũng là chữ Quốc ngữ nhưng thực dân Pháp thì đưa vào giảng dạy để phục vụ mục đích cai trị, còn trí thức Việt Nam coi chữ Quốc ngữ như hồn trong nước, coi đó là công cụ chống lại thực dân. Khi nói đến tác động nhờ hoạt động văn hóa, giáo dục của trí thức đến phong trào đấu tranh chống Pháp phải kể đến tác phẩm “Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân” của tác giả Nguyễn Thế Anh cho thấy nỗi uất ức đến cùng cực của nhân dân miền trung đã lên đến cao độ dẫn đến phong trào chống sưu thuế năm 1908. Đây là kết quả lớn của phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh khởi xướng được các trí thức Nho học tiến bộ cùng thời đã “khai dân trí” thức tỉnh nhân dân hiểu ra nguyên nhân của sự cùng cực là do chính sách bóc lột của Pháp. + Sách“Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp” – nhà nghiên cứu Phan Ngọc, tác giả đã bàn luận những sắc thái, tư tưởng trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Pháp ở Việt Nam nhất là qua đội ngũ trí thức. * Công trình luận án Tiến sĩ, nghiên cứu tạp chí, tham luận nghiên cứu gián tiếp về trí thức và hoạt động văn hóa của trí thức Ở góc độ luận án có Trần Viết Nghĩa (2011), “Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc”. Dưới góc độ Luận án Tiến sĩ, tác giả đã phân tích những thái độ tiếp nhận văn minh phương Tây của tầng lớp sĩ phu đầu thế kỷ XX có nhiều mức độ khác nhau. Trong đó có một bộ phận đã tiếp nhận trên cơ sở Duy tân đất nước, đó là một trong những lý do chữ Quốc ngữ được tích cực truyền bá vào Việt Nam, bên cạnh đó cũng diễn ra quá trình chủ động tiếp nhận văn hóa phương Tây vào Việt Nam. Trương Thị Dương (2021), “Trí thức Tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Quy Nhơn, tác giả giành một phần về hoạt động văn hóa trong đó khẳng định trí thức Việt Nam không ngừng rèn luyện tu dưỡng và cống hiến cho dân tộc, trong đó đẩy mạnh 6 truyền bá chữ Quốc ngữ, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh của dân tộc. Những hoạt động văn hóa của trí thức giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ văn hóa nô dịch của thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên tác giả chưa đề cập đến văn hóa nghệ thuật, hội họa, kiến trúc. Ở thể loại các bài tạp chí có nhiều bài viết liên quan đến trí thức như: Phạm Xuân Nam (1982), Vài nét về trí thức và quá trình cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1, trang 50-55. Nguyễn Văn Khánh (1985), Thanh niên trí thức và phong trào Cộng sản ở Việt Nam trước năm 1930, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4, tr 67- 75. Hoàng Ngọc Vĩnh, Trần Văn Thành (2011), Nghệ thuật vận động trí thức của Hồ Chí Minh, tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 68 cũng đề cập ít nhiều đến vai trò của trí thức đối với phong trào giải phóng dân tộc. Nguyễn Thị Thanh Thủy có bài: Đặc điểm của trí thức Tây học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, đăng trên tạp chí ĐH KHXH & NV, KHXH & NV 282012. Bài viết tập trung chỉ ra đặc điểm của trí thức Tân học, mà chưa có cái nhìn toàn diện về các thành phần trí thức khác. + “Việt Nam một lịch sử chuyển giao văn hóa” – Hoài Hương Aubert – Nguyên Mechiel Aspagne đã khẳng định những cuộc chuyển giao văn hóa dẫn đến sự hình thành tầng lớp trí thức mới. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết, ấn phẩm đã đề cập ở trên dù ít nhiều có liên quan đến hoạt động của trí thức trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897-1945 thông theo những góc độ, mức độ và hình thức thể hiện khác nhau, còn nhiều nội dung cần làm có hệ thống hơn. Tuy nhiên các tài liệu trên được thực sự là nguồn tham khảo quý báu và là cơ sở góp phần giúp tôi giải quyết tốt các nhiệm vụ mà đề tài luận văn đặt ra. 7 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là hoạt động của trí thức trong lĩnh vực văn hóa từ năm 1897 đến năm 1945. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: nghiên cứu một số hoạt động nổi bật của trí thức trong lĩnh vực văn hóa từ năm 1897 đến năm 1945. - Về mặt không gian: những vấn đề nghiên cứu đều ở Việt Nam. - Về mặt thời gian: từ khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất năm 1897 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích làm sáng tỏ hoạt động nổi bật của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn từ năm 1897 đến năm 1945. Qua đó rút ra đặc điểm và đóng góp của trí thức Việt Nam trong giai đoạn này dưới góc nhìn văn hóa. Từ đó gợi mở những vấn đề tiếp thu văn hóa nhân loại của lực lượng trí thức trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xác định rõ từ mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ bối cảnh lịch sử mới và khái niệm chung về trí thức Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa giai đoạn 1897-1945. - Nghiên cứu một số hoạt động nổi bật của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa ( văn học, báo chí, nghệ thuật,… ) trong giai đoạn 1897-1945. - Rút ra đặc điểm, đóng góp của lực lượng trí thức trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897 - 1945 nói riêng và thời kì cận đại nói chung. 8 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau: - Tư liệu là sách nghiên cứu về bộ phận trí thức và văn hóa. - Các báo, tập chí, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về những vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại đặc biệt vấn đề trí thức với văn hóa, sự giao thoa văn hóa Đông - Tây. - Các văn kiện của Đảng và nhà nước liên quan đến trí thức, văn hóa thời kì kháng chiến chống Pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách Nhà nước về lực lượng trí thức và văn hóa; phương pháp luận duy vật lịch sử. Để hoàn thành luận văn tác giả còn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp tổng hợp; sử dụng thêm các phương pháp liên ngành: văn hóa học, ngôn ngữ học, xã hội học, giáo dục học, nhân chứng học… Ngoài ra còn có các phương pháp biện chứng, phân tích, tổng hợp, vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý với đối chiếu, so sánh làm rõ yêu cầu của đề tài. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp chủ yếu sau: - Luận văn đã tổng hợp những tư liệu nghiên cứu có giá trị về hoạt động của trí thức nói chung và trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897-1945 nói riêng. - Luận văn làm sáng tỏ hoạt động cũng như đặc điểm, đóng góp của trí thức trong lĩnh vực văn hóa 1897-1945. - Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề về Trí thức Việt Nam trong lịch sử, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, ở trường Đại học, Cao đẳng, và góp phần giáo dục ý thức bảo tồn giá trị văn hóa của dân tộc. 9 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 – 1945) Chương 2: Một số hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897- 1945) Chương 3: Đánh giá về hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897- 1945) 10 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945) 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945 1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp Ngay khi chiếm toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý đến yếu tố “chia để trị” để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế. Việt Nam bị chia cắt làm 3 xứ: xứ Nam kỳ thuộc địa đặt dưới quyền Bộ hàng hải và Bộ thuộc địa; xứ Trung kỳ bảo hộ, xứ Bắc kỳ nửa bảo hộ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ ngoại giao. Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng thiết lập chế độ chính trị vô cùng phản động và chúng ra sức khai thác thuộc địa với mục đích vơ vét, xuất khẩu tư bản, bóc lột sức lao động và thị trường tiêu thụ. Cùng với đó là vô số chính sách đàn áp, bóc lột về chính trị, kinh tế, văn hóa. Ngày 22 – 3 – 1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương. Đẩy nền sản xuất và thương mai bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc Kì. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận. Việt Nam là nước có các nguồn tài nguyên phong phú, cả trên rừng, 11 dưới biển, trong lòng đất, sức lao động lại đông và rẻ, Việt Nam có đủ điều kiện cho thực dân Pháp đẩy mạnh công việc khai thác, bóc lột kinh tế tại chỗ để kiếm lợi nhuận. Tư bản nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX chủ yếu là của Pháp. Từ năm 1896 đến năm 1914 có 514 triệu phơrăng vàng được đầu tư dưới hình thức tiền vốn của nhà nước. Việt Nam là một nước nông nghiệp. Ngay sau khi thực dân Pháp chiếm được Sài Gòn, một trong những biện pháp đầu tiên chúng thi hành là bỏ lệ cấm xuất cảng gạo ở Nam Kì mà trước đây Triều đình Huế ban hành, gắn thị trường lúa gạo, mặt hàng quan trọng nhất của Nam Kì, sau đó là toàn bộ thị trường Nam Kì với thị trường thế giới. Thực dân Pháp đã bóc lột nhân dân Việt Nam thậm tệ để tạo ra một nguồn tăng trưởng vốn tích lũy nhanh chóng. Một số người đã vươn lên thành nhà tư bản lớn. Trong chương trình khai thác thuộc địa thì Đume cũng đã có hai điểm cần phải nêu rõ đó là: “Nhanh chóng xây dựng cho Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt, đường giao thông, sông đào, bến cảng, những cơ sở cần thiết cho việc khai thác xứ Đông Dương, đồng thời ra sức đẩy mạnh sản xuất và thương mại của thuộc địa bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ” [97, tr.312]. Nguồn ngân sách tài chính để thực hiện chủ yếu từ ngu thu do nguồn lợi của các loại thuế. Pháp tăng cường mọi thứ thuế cũ có từ thời phong kiến trước khi Pháp tới, đều tăng vọt như thuế thân, thuế đinh, thuế ruộng,..Ngoài ra, thuế gián thu có rất nhiều loại do thực dân Pháp tùy tiện đặt ra, đặc biệt là ba loại thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện. Vốn nhà nước Pháp cho ngân quỹ Đông Dương vay, một phần được sử dụng vào việc xây dựng giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng của việc phát triển kinh tế ở Đông Dương. Về công thương nghiệp, sản xuất ở thuộc địa chỉ được giới hạn trong việc cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà ở nước Pháp không có. Ngành mỏ, được tư bản thực dân Pháp quan tâm và chú trọng 12 vì ngành này nhanh chóng thu được nhiều lợi nhuận, sau công nghiệp khai thác than và khoáng sản là các ngành khác như xi măng, gạch, ngói, điện, nước, chế biến nông lâm sản,...Phương thức hoạt động của tư bản thực dân Pháp ở Việt Nam là tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng đến mức tối đa lao động thủ công, lao động cơ giới, kết hợp bóc lột tư bản chủ nghĩa với bóc lột tiền tư bản chủ nghĩa. Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, tư bản thực dân Pháp đã bóc lột thậm tệ nhân dân ta để thu được rất nhiều lợi nhuận, nhưng khách quan chúng cũng đã đẩy nền kinh tế Việt Nam đi theo hướng tư bản chủ nghĩa và phát triển lên một bước so với trước. Để đạt được mục đích lợi nhuận về kinh tế, thực dân Pháp đã thực thi các chính sách về giáo dục và văn hóa để bổ trợ. 1.1.2. Chính sách nô dịch của thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa Văn hóa có nhiều định nghĩa và khái niệm khác nhau, tuy nhiên theo cách hiểu chung nhất văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình gốc nông nghiệp, vừa có tính cộng đồng và tính tự trị, có bề dày về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh, truyền thống hiếu học, trọng tình, trọng nghĩa. Những giá trị đó đã giúp dân tộc Việt Nam có được sức mạnh vô bờ chống lại bất kỳ thế lực ngoại xâm dù mạnh đến đâu. Càng khó khăn khi tính tự trị của làng xã Việt Nam nên trong lịch sử các thế lực ngoại bang muốn đồng hóa người Việt Nam đều bị thất bại, hiểu rõ văn hóa là điểm mạnh của dân tộc Việt Nam nên khi kẻ thù là một nước tư bản phương Tây sang xâm lược Việt Nam đã coi đó là một mũi tên để tấn công. Cụ thể, sau khi dập tắt các phong trào yêu nước, hoàn thành căn bản công cuộc bình định nước ta về mặt quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa, áp đặt một số chính sách thống trị quy mô và triệt để 13 trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục... Nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn, bảo đảm siêu lợi nhuận cho chính quốc. Ngoài xây dựng hệ thống chính trị, thực dân Pháp còn thực hiện chính sách ngu dân về mặt giáo dục, đầu độc về văn hóa để dễ bề cai trị, thực dân Pháp đã tùy từng thời kỳ, từng giai đoạn mà đặt ra những chương trình cụ thể về văn hóa, giáo dục. Pháp thực hiện chính sách nô dịch về văn hóa: Duy trì, dung dưỡng nếp sống hủ lậu trong cưới xin, ma chay. Khuyến khích các thói hư tật xấu, phổ biến lối sống ăn chơi trụy lạc. Xuyên tạc về nguồn gốc dân tộc. Phá hủy các công trình kiến trúc, văn hóa. Làm sỉ nhục người dân bản xứ, gây tâm lý sợ Pháp, phục Pháp. Mục đích của những chính sách đó là nhằm nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt với mọi truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi của đế quốc. Có thể nói bản chất của chính sách văn hóa Pháp ở Việt Nam là loại chính sách cưỡng bức đồng hóa, nhằm đưa văn hóa Việt Nam lệ thuộc sâu sắc vào văn hóa Pháp. “Việc truyền bá văn minh Pháp là mục đích đã được xác nhận, còn trong thâm tâm thì nó có ý nghĩa là sẽ thay thế cho nền văn hóa hiện có” [96, tr.167]. Đầu thế kỷ XX, cùng với công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929), tăng cường bóc lột thuộc địa, chính quyền thực dân bắt đầu tấn công mạnh vào tính chất tự trị, khép kín của làng xã, không phải vì muốn cải thiện đời sống của nhân dân mà muốn bằng một bộ máy mới, đưa giai cấp địa chủ đã được tân học hóa lên nắm quyền cai trị, gắn kết chặt chẽ việc cai trị ở làng xã với hệ thống cai trị của chính quyền thực dân. Từ đây, làng xã Việt Nam gắn với hương ước mới do thực dân Pháp đề ra, đó là hương ước cải lương, chú trọng việc loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà, tốn kém trong tục lệ 14 làng, xã vì vậy, nhìn bề nổi, có vẻ theo chiều hướng tích cực. Trước những điều kiện lịch sử trên ở Việt Nam đã diễn ra cuộc đụng độ, giao thoa với văn hóa phương Tây. Đối tượng trực tiếp tiếp xúc là đội ngũ trí thức. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Trí thức những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau: Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây. Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc. Tuy nhiên trong giai đoạn 1897 – 1945 là giai đoạn trí thức Việt Nam chủ động tiếp nhận văn hóa phương Tây, đồng thời cũng nhìn ra được những điểm hạn chế trong văn hóa Việt Nam, từ đó có định hướng cho hoạt động của mình. Về mặt tư tưởng Nho giáo tuy được phục hồi làm quốc giáo từ thời nhà Nguyễn nhưng nó đã đến hồi suy tàn, không còn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa trước ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đó là lý do trí thức cần tiếp thu tư tưởng mới truyền bá vào Việt Nam, chỉ có thay đổi tư tưởng mới thay đổi được hành động. Khởi đầu quá trình thâm nhập của văn hóa phương Tây mà chủ yếu là Pháp và cũng là khởi đầu thời kỳ văn hóa hội nhập vào nền văn hóa nhân loại. Tuy nhiên trên thực tế Pháp không hoàn toàn đạt được mục đích của mình, mà đây là thời kỳ khởi đầu quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hoá phương Tây (Pháp), lực lượng trí thức Việt Nam đi tiên phong trong lĩnh vực này. Nét nổi bật ở giai đoạn này là trí thức Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã tạo nên những biến đổi nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa tinh thần lối tư duy phân tích của người phương Tây đã bổ sung cho lối tư duy tổng hợp truyền thống. Ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung vào ý thức cộng đồng. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại 15 văn học mới có nguồn gốc phương Tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Sự thay đổi đó đã tạo thêm sức mạnh cho dân tộc Việt Nam đứng lên tự giải phóng khởi ách thống trị thực dân, vươn tới chân trời tri thức nhân loại. 1.2. Khái quát chung về trí thức Việt Nam (1897 - 1945) 1.2.1. Khái quát chung về trí thức 1.2.1.1. Khái niệm trí thức Có nhiều quan điểm khác nhau về trí thức. Các khái niệm về trí thức luôn có sự thay đổi cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử và hầu như vẫn chưa có khái niệm nào bao quát hết tất cả nội hàm của khái niệm trí thức. Mặc dù đây là lực lượng xã hội tồn tại xuyên suốt trong tiến trình lịch sử thế giới nói chung và lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng. Thường để xác định trí thức, người ta căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản: có trình độ học vấn, chuyên môn cao và hoạt động trí óc trong các lĩnh vực khoa học để phân biệt với người lao động bằng chân tay và trí thức là một tầng lớp chứ không phải là một giai cấp trong xã hội. Quan niệm trên thế giới về trí thức: Ở Nga, người ta gọi trí thức (Intelligentsia) là “những người dấn thân cho công cuộc Tây phương hóa ở nước Nga” như vậy nghĩa của từ này xuất phát từ tiếng La tinh, có nghĩa là: trí tuệ, thông minh, sự hiểu biết. Theo Marx, trí thức là những người có kiến thức dồi dào và có chính kiến trước các vấn đề chính trị xã hội”. Còn nói rõ hơn: “Trí thức ngoài khả năng sáng tạo, còn phải dám phê phán thẳng thừng mọi thứ cần phê phán, không lùi bước trước mọi kết luận, không đụng chạm dù đụng chạm đến quyền lực nào”. Xác định khái niệm trí thức, Lê nin đặc biệt chú ý đến đặc điểm lao động trí óc của họ: “Tôi dịch” người trí thức, tầng lớp trí thức theo ngữ nghĩa Đức là Literat, Literatentum, bao gồm không chỉ các nhà văn học mà là tất cả những người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan