Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Kiến thức tổng hợp Hoạt động của trí thức việt nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 1945)...

Tài liệu Hoạt động của trí thức việt nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 1945)

.PDF
133
1
63

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN TRẦN THỊ HỒNG THANH HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC (1897 - 1945 ) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Bình Định – Năm 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN TRẦN THỊ HỒNG THANH HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC (1897 - 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 Người hướng dẫn: TS. Trương Thị Dương LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các kết quả khoa học được trình bày trong luận văn này là thành quả nghiên cứu của bản thân tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài dưới sự chỉ dẫn của người hướng dẫn và chưa từng xuất hiện trong công bố của các tác giả khác. Các kết quả đạt được là chính xác và trung thực. Tác giả luận văn Trần Thị Hồng Thanh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu..............................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................9 4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 10 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................ 10 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 11 7. Kết cấu của luận văn................................................................................ 12 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VÀ GIÁO DỤC VIỆT NAM (1897 -1945) 1.1 13 13 Khái niệm về trí thức ............................................................................ 1.1.1 Khái quát về trí thức Việt Nam giai đoạn 1897 -1945...........................19 1.1.2 Thành phần trí thức Việt Nam .............................................................. 28 1.2 Khái quát chung về giáo dục Việt Nam (1897 -1945).........................30 1.2.1 Giáo dục Nho học .................................................................................. 30 1.2.2 Giáo dục Tân học ...................................................................................34 39 Tiểu kết chương 1 .................................................................................. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC (1897 - 1945) 2.1 40 Cải biến giáo dục Nho học lập trường học Duy tân ...........................40 2.1.1 Cải biến giáo dục Nho học .....................................................................40 2.1.2 Lập trường học Duy tân ......................................................................... 45 2.2 Biên soạn tài liệu và truyền bá, vận động học chữ Quốc ngữ ...........50 2.2.1 Biên soạn tài liệu .................................................................................... 50 2.2.2 Truyền bá và vận động học chữ Quốc ngữ ............................................ 54 2.3 Trí thức đặt nền móng xây dựng hệ thống giáo dục cách mạng và bước đầu xây dựng nền giáo dục dân chủ ...........................59 2.3.1 Đặt nền móng xây dựng hệ thống giáo dục cách mạng ......................... 59 2.3.2 Bước đầu xây dựng nền giáo dục dân chủ ............................................. 64 71 Tiểu kết chương 2 .................................................................................. CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC (1897 - 1945) 3.1 3.1.1 72 Đặc điểm ................................................................................................72 Hoạt động giáo dục giai đoạn (1897 -1945) có sự tham gia của nhiều thành phần trí thức .......................................................................72 3.1.2 Trí thức Tân học kế thừa hoạt động của đội ngũ trí thức Nho học ..........................................................................................................75 3.1.3 Hoạt động giáo dục giai đoạn (1897 -1945) là giáo dục yêu nước, cách mạng ....................................................................................78 3.1.4 3.2 3.2.1 Hình thức hoạt động linh hoạt và đa dạng .............................................80 Đóng góp của trí thức Việt Nam trong hoạt động giáo dục ..............81 Trí thức là lực lượng xã hội tiên phong trong việc tiếp nhận và truyền bá tư tưởng mới vào Việt Nam ..................................................81 3.2.2 Trí thức là sợi dây kết nối, phát triển tinh thần yêu nước, đoàn kết các tầng lớp nhân dân .......................................................................83 3.2.3 Truyền bá chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ chính .............................88 3.2.4 Tiên phong khởi sự đổi mới giáo dục ....................................................89 3.2.5 Biên soạn, dịch thuật nhiều tài liệu học tập ..........................................91 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................94 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt. Chính vì thế mà giáo dục từ lâu là vấn đề sống còn, tương lai của dân tộc ta. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau giáo dục đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Từ khi dân tộc Việt Nam xây dựng nền độc lập tự chủ cũng là lúc các triều đại quan tâm đến giáo dục, lấy tư tưởng Nho, Phật, Đạo làm nội dung giáo dục, coi trọng giáo dục nhân cách của người Việt, sau đó đến tài năng vì thế từ xưa sự thịnh suy của mỗi triều đại phong kiến Việt Nam phụ thuộc nhiều vào kết quả của giáo dục. Nền giáo dục Nho học ở Việt Nam được đào tạo theo mô hình giáo dục Trung Hoa, nội dung chương trình học là sách Tứ thư, Ngũ Kinh với nhiều hình thức đào tạo: của nhà nước phong kiến, trong gia đình, dòng tộc hoặc qua thực tiễn trong dân gian (chùa, trường tư, lớp học của cụ đồ…) nhưng có thể khẳng định rằng: chính hệ thống giáo dục và khoa cử Nho học của Nhà nước tổ chức đã tạo cơ hội cho nhiều người từ nhiều nguồn gốc xuất thân có thể thi thố tài năng và có cơ hội phụng sự cho quốc gia. Nhiều trí thức Nho học tên tuổi được đào tạo và trưởng thành như Lý Công Uẩn, Lê Văn Hưu, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,.. Đến nửa sau thế kỷ XIX, trong bối cảnh thế giới phát triển, nền giáo dục Nho giáo bộc lộ nhiều hạn chế, nặng về hoài cổ, sách thánh hiền mà xa thực tiễn, hoặc những kiến thức từ nền giáo dục không đủ để đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử. Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi biến Việt Nam thành thuộc địa, để phục vụ cho mục tiêu khai thác, thực dân Pháp xây dựng ở Việt Nam nền giáo dục Pháp – Việt. Trong bối cảnh đó đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 1897 – 2 1945, cũng rất đa dạng về thành phần và có sự chuyển biến tư tưởng, trên nền tảng tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc mạnh dạn tiếp thu những yếu tố ngoại lai có chọn lọc, tham gia nhiều hoạt động yêu nước khác nhau. Trong đó hoạt động của trí thức ở lĩnh vực giáo dục vô cùng có ý nghĩa đóng góp vào công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng nền giáo dục mới khoa học, đáp ứng xu hướng thời đại. Vì vậy, nghiên cứu về hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục là một đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Ý nghĩa khoa học: Hệ thống lại được công trình nghiên cứu về hoạt động của trí thức nói chung, hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục nói riêng thời thuộc địa. Đồng thời làm rõ được ưu điểm, hạn chế và đóng góp của trí thức đối với lịch sử dân tộc. Góp phần bổ sung vào kết quả nghiên cứu lịch sử dân tộc trong lĩnh vực giáo dục. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là nguồn tài liệu bổ sung cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu môn lịch sử Việt Nam ở các trường phổ thông, Cao đẳng, Đại học và chuyên đề Trí thức Việt Nam trong lịch sử. Giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống hiếu học, tinh thần cầu tiến cho thế hệ sau. Vì những ý nghĩa trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 - 1945)” 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Đến nay có rất nhiều đề tài khoa học có giá trị nghiên cứu về hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt đã khái quát được sự chuyển biến trong giáo dục nước ta. 3 2.1. Công trình trực tiếp nghiên cứu về hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục Giáo dục là lĩnh vực được các quốc gia trên thế giới coi là quốc sách hàng đầu, mọi thế hệ, mọi thời đại, mọi quốc gia cũng như các nhà khoa học đặc biệt quan tâm chú ý, vì nó là nguồn gốc của sự phát triển bền vững. Trực tiếp nghiên cứu về giáo dục đã có nhiều công trình được công bố như: Tác giả Nguyễn Đăng Tiến (1996), “Lịch sử Giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám/1945”, Nxb Giáo dục, cho người đọc thấy rõ trước cách mạng tháng Tám trí thức Việt Nam có chuyển biến về tư duy và có nhiều hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Nền giáo dục thời kỳ này song song cả giáo dục Nho học và giáo dục Pháp – Việt. Tác giả Chương Thâu với tác phẩm “Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa”, xuất bản năm 1997 khát quát những điều kiện khách quan và chủ quan đầu thế kỷ XX dẫn đến sự chuyển biến tư tưởng của đội ngũ trí thức Việt Nam. Họ thành lập các trường học Duy tân để thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, vận động người học bỏ chữ Hán, học chữ Quốc ngữ. Tác phẩm này cho người đọc thấy rõ những bước đột phá trong tư tưởng và hành động của các trí thức Nho học tiến bộ đầu thế kỷ XX, trong đó hoạt động trong giáo dục là lĩnh vực nổi bật của phong trào duy tân ở Bắc kỳ. Chuyên sâu về giáo dục thời Pháp thuộc có công trình của tác giả Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục, chia làm hai phần, phần 1 phản ánh sự hình thành và phát triển của nền giáo dục thời Cận đại do người Pháp tổ chức ở nước ta, phần hai phản ánh sự đấu tranh trên lĩnh vực giáo dục của những nhà yêu nước đối lập với nền giáo dục thực dân. Qua nội dung tác giả cũng khẳng định nền giáo dục Việt Nam thay đổi thời Cận đại gắn liền với tiến trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời trí thức thời kỳ này là những người tiên phong đưa chữ Quốc ngữ vào học tập và giảng dạy. 4 Tác phẩm “Phong trào Duy tân các khuôn mặt tiêu biểu” của tác giả Nguyễn Quang Thắng, NXB Văn hóa thông tin 2006, giới thiệu khái quát về thân thế sự nghiệp của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX – đã có công lập ra các trường học Duy tân ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ khai dân trí, chấn dân khí, trong lĩnh vực giáo dục, đội ngũ trí thức đã xây dựng quan điểm thực học, thực nghiệp, đổi mới nội dung, phương pháp và đối tượng học. Nghiên cứu xuyên suốt và có cái nhìn tổng thể về trí thức Việt Nam từ thời phong kiến cho đến nay có “Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc” của GS.TS Nguyễn Văn Khánh, xuất bản năm 2016. Qua công trình tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về trí thức, sự hình thành phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và những đóng góp của trí thức trên nhiều lĩnh vực, trong đó tác giả giành riêng một mục đóng góp về lĩnh vực giáo dục của trí thức ở mỗi giai đoạn. Tuy nhiên với phạm vi rộng, còn nhiều hoạt động giáo dục của trí thức vẫn tiếp tục cần được nghiên cứu thêm. Năm 2019 tác giả Bùi Minh Hiển – Nguyễn Quốc Trị xuất bản cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam”, NXB Đại học sư phạm, công trình này được trình bày theo quan điểm thông sử và cấu trúc sự phát triển của giáo dục Việt Nam theo tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, tài liệu dùng làm giáo trình cho sinh viên khoa Tâm lý – giáo dục các trường Đại học, cao đẳng. Do vậy về cơ bản phản ánh sự thay đổi của nền giáo dục Việt Nam hơn là nói về hoạt động của trí thức đối với sự phát triển giáo dục. Gần đây nhất, năm 2021 Cục lưu trữ Quốc gia cho ra mắt tập sách “Giáo dục Việt Nam thời kỳ thuộc địa qua tài liệu và tư liệu lưu trữ”, đã cung cấp cho độc giả bức tranh tương đối đầy đủ và toàn diện nền giáo dục Việt Nam cũng như những chủ trương và chính sách của chính quyền Pháp về giáo dục giai đoạn 1858 – 1945. Trong thời thuộc địa người Pháp đã tiến hành lần lượt các cuộc cải cách giáo dục, từ đó nền giáo dục ba cấp ở Việt Nam đã căn bản hình thành. Thông qua chính sách giáo dục của Pháp, người Việt đã tiếp 5 thu những kiến thức mới của văn minh phương Tây một cách có chọn lọc và làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra còn có Vũ Ngọc Khánh (1985), tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Tiến Cường (1998), sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Quang Thắng (1993), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Ngô Đức Thọ (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.; Lê Trọng Ngoạn (1997), Lược khảo và tra cứu về học chế và quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (CB) (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, … tập trung vào nghiên cứu giáo dục và khoa cử thời phong kiến, phản ánh đây là một lĩnh vực rất được quan tâm nghiên cứu. Ở góc độ tạp chí, hội thảo Cùng mối quan tâm đến vấn đề giáo dục và đào tạo bên cạnh những công trình sách đã xuất bản, giáo dục Việt Nam còn được quan tâm nghiên cứu dưới các dạng như tạp chí, hội thảo. Ở thể loại các bài tạp chí có nhiều bài viết liên quan đến trí thức như: Phạm Xuân Nam (1982), Vài nét về trí thức và quá trình cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1, trang 50-55. Nguyễn Văn Khánh (1985), Thanh niên trí thức và phong trào Cộng sản ở Việt Nam trước năm 1930, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4, tr 67- 75. Hoàng Ngọc Vĩnh, Trần Văn Thành (2011), Nghệ thuật vận động trí thức của Hồ Chí Minh, tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 68 cũng đề cập ít nhiều đến vai trò của trí thức đối với phong trào giải phóng dân tộc. Tác giả Ngô Minh Oanh với bài viết: “Sự du nhập giáo dục phương Tây vào Nam kỳ Việt Nam thời thuộc pháp (1861 - 1945)” được đăng trên tạp chí KH ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011, đã khẳng định giáo dục phương Tây du nhập vào Nam kỳ khá sớm mang tính áp đặt, gây ra nhiều hệ 6 lụy, nhưng bên cạnh đó góp phần không nhỏ vào việc thay đổi nền giáo dục cũ, hình thành nền giáo dục mới ở Nam kỳ nói riêng, cả nước nói chung. Nguyễn Thị Thanh Thủy có bài: Đặc điểm của trí thức Tây học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, đăng trên tạp chí ĐH KHXH & NV, KHXH & NV 282012. Bài viết tập trung chỉ ra đặc điểm của trí thức Tân học, mà chưa có cái nhìn toàn diện về các thành phần trí thức khác. Nguyễn Thị Phương Chi trong bài viết “Đào tạo và trọng dụng nhân tài ở Thăng Long thời Trần” đăng trên tạp chí Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 12, tr. 19-26, đã phân tích và chỉ ra ba hình thức chủ yếu mà nhà Trần đã áp dụng để đào tạo nhân tài, trong đó đào tạo thông qua hệ thống giáo dục Nho học là hình thức phổ biến thứ hai. Ngoài ra còn có, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề về giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay. Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.1198-1206. Tạ Ngọc Liễn (2009) “Một số đặc điểm của Nho học Việt Nam từ khởi đầu đến thế kỉ XVI- XVII”. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn miếu – Quốc tử giám và hệ thống di tích Nho học ở Việt Nam, Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn miếu – Quốc tử giám, Hà Nội. tr.29-44. Trần Thị Thái Hà (2021) “Thực tiễn đào tạo và sử dụng trí thức Nho học ở nước ta thời Trần (thế kỉ XIII-XIV)” in trong: UBND thành phố Hà Nội, Trường Đại học Thủ Đô (2021) Kỉ yếu hội thảo khoa học Quốc gia. Xây dựng nền giáo dục thực chất, định hướng và giải pháp. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 316-323. Các công trình trên có điểm chung đặt trọng tâm vào việc làm rõ toàn cảnh nền giáo dục Nho giáo trong mối quan hệ với quá trình du nhập của Nho giáo vào xã hội Việt. Các hình thức thi cử Nho học. Dù có những hạn chế nhưng lại là chính sách gắn liền với chính sách hành chính quốc gia liên quan đến sự thịnh suy mỗi giai đoạn lịch sử. 7 2.2. Công trình gián tiếp nghiên cứu về hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục Những tài liệu trực tiếp nghiên cứu về giáo dục và trí thức có khá nhiều nội dung đề cập đến hoạt động chung của trí thức, ở từng nội dung hoặc một vai trò cụ thể, tuy nhiên nghiên cứu về hoạt động của trí thức ở Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 -1945) còn được phản ánh gián tiếp ở những tài liệu lịch sử khác như: Công trình nghiên cứu khá công phu về những chính sách bóc lột của Pháp, trong đó có một phần nhỏ nội dung chính sách giáo dục của thực dân Pháp là cuốn sách: “Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam”, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội của tác giả Nguyễn Khắc Đạm (1959) đề cập một trong những thủ đoạn của Pháp là chính sách ngu dân trong giáo dục nhằm dễ bề cai trị nhân dân ta. Năm 1973 có tập sách: “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám”. Qua tập một, tác giả Trần Văn Giàu phân tích khá rõ tư tưởng thủ cựu và duy tân của trí thức Nho học ở nửa cuối thế kỷ XIX, và nhìn chung đa số trí thức chống đối lại việc học tập phương Tây. Nhưng ở tập hai và tập ba của bộ sách phản ánh rõ nhiều trí thức Nho học cấp tiến đã tiếp nhận những tư tưởng mới từ bên ngoài vào qua nhiều lăng kính khác nhau, góp phần mở đường cho một loại hình phong trào giải phóng dân tộc mới, trong đó có tiếp thu cách giáo dục của phương Tây. Nghiên cứu ở góc độ giáo trình có: Nguyễn Văn Khánh: “Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858- 1945)” viết khá toàn diện về chương trình khai thác bóc lột của Pháp, trong đó đề cập đến chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam nhằm mục đích đào tạo ra một đội ngũ trí thức nửa vời đủ để thừa hành nhiệm vụ trong bộ máy chính quyền của Pháp. Cuốn “Đại cương Lịch sử Việt Nam” tập 2 do Giáo sư Đinh Xuân Lâm chủ biên, hay cuốn “Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đến 1918” Quyển hai, Tập hai của Nguyễn Văn Kiệm (1979), “Lịch sử Việt Nam” tập II của Nguyễn 8 Khánh Toàn chủ biên (2004) cũng đã có mục nghiên cứu riêng về chính sách giáo dục của Pháp, ban đầu Pháp duy trì nền giáo dục Nho học để lợi dụng những điểm hạn chế của giáo dục Nho học, kết hợp với mở hệ thống giáo dục Pháp – Việt. Những tác động hai chiều của hệ thống giáo dục thời kỳ này được các giáo trình đề cập ít nhiều. Tác phẩm “Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân” của tác giả Nguyễn Thế Anh cho thấy nỗi uất ức đến cùng cực của nhân dân miền trung đã lên đến cao độ dẫn đến phong trào chống sưu thuế năm 1908. Đây là kết quả lớn của phong trào duy tân do Phan Châu Trinh khởi xướng đã “khai dân trí” thức tỉnh nhân dân hiểu ra nguyên nhân của sự cùng cực là do chính sách bóc lột của Pháp. Học giả nước ngoài G. Boudarel (1997), Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại của ông, Nxb - VHTT, Hà Nội là một tác phẩm đề cập nhiều đến sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu theo hướng tích cực, đặc biệt là sau khi Phan Bội Châu có cuộc gặp gỡ với nhà cải cách Lương Khải Siêu ông đã chuyển từ chủ trương cầu viện sang cầu học, vận động học sinh sang Nhật du học với mục tiêu giải phóng dân tộc. Ngoài ra hoạt động của trí thức còn được nghiên cứu ở nhiều luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học… Nguyễn Văn Thưởng (Luận án Tiến sĩ) (2008), “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Phú Yên từ cuối thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám 1945”, Hà Nội. Tác giả viết về phong trào Duy tân và chống thuế ở Phú Yên đầu thế kỷ XX là một bộ phận của phong trào Duy tân cả nước, nó là kết quả hoạt động khai dân trí do các trí thức Nho học tiến bộ đầu thế kỷ XX. Trần Viết Nghĩa (2011), “Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc” [91]. Dưới góc độ Luận án Tiến sĩ, tác giả đã phân tích những thái độ tiếp nhận văn minh phương Tây của tầng lớp sĩ phu đầu thế kỷ XX có nhiều mức độ khác nhau. Trong đó có một bộ phận đã tiếp 9 nhận trên cơ sở Duy tân đất nước, đó là một trong những lý do dẫn đến sự ra đời của phong trào dân tộc. Trương Thị Dương (2021), “Trí thức Tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Quy Nhơn, phản ánh đóng góp của thành phần trí thức Tân học trong nhiều lĩnh vực, trong đó lĩnh vực giáo dục trí thức Tân học đã kế thừa truyền thống hiếu học và yêu nước của dân tộc, không ngừng rèn luyện tu dưỡng và cống hiến cho dân tộc, trong đó đẩy mạnh truyền bá chữ Quốc ngữ, đặt nền móng cho nền giáo dục mới, thay đổi nội dung, phương pháp giáo dục. Trong đó yêu cầu đầu tiên của giáo dục là giáo dục lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh của dân tộc, sau đến là trau dồi chuyên môn năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng ao của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng một nhà nước Việt Nam dân chủ. Những công trình trên đã nghiên cứu rất công phu ở nhiều thể loại khác nhau, có công trình nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục, có công trình nghiên cứa về các hoạt động của trí thức, chưa có công trình nào nghiên cứu về trí thức hoạt động riêng trong lĩnh vực giáo dục. Vì vậy đây là những tài liệu quý giá tôi may mắn được kế thừa và định hướng nghiên cứu cho mình. Trong thế kỷ XXI, trong xu thế hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế toàn cầu, yếu tố con người, yếu tố giáo dục càng được các quốc gia chú trọng, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Vì vậy nghiên cứu đề tài “Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 -1945)” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, kết quả nghiên cứu có thể vận dụng vào việc đào tạo đội ngũ trí thức hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 10 Về nội dung: Nghiên cứu hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục. Phạm vi thời gian: Giai đoạn (1897 – 1945), từ khi thực dân Pháp khai thác thuộc địa lần thứ nhất và đến năm đầu tiên khi Việt Nam giành được độc lập, bắt đầu thiết lập nhà nước mới, nền giáo dục mới. Tuy nhiên để làm rõ hoạt động của trí thức giai đoạn này, bản thân tôi có sự liên hệ trước và sau giai đoạn này. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ: - Bối cảnh lịch sử tác động đến hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục. - Làm sáng tỏ một cách có hệ thống hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục. - Trên cơ sở đó đánh giá được đặc điểm và đóng góp của trí thức trong lĩnh vực giáo dục đối với lịch sử dân tộc đầu từ khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần 1 đến năm đầu tiên khi Việt Nam giành được độc lập. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu luận văn tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau đây: - Bối cảnh lịch sử tác động đến trí thức và hoạt động của trí thức Việt Nam giai đoạn từ năm 1897 đến năm 1945. - Làm rõ một số khái niệm về trí thức và khái niệm giáo dục. - Làm rõ các hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục từ năm 1897 đến năm 1945. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau: 11 - Các tư liệu tiếng Pháp, tiếng Việt liên quan đến trí thức và hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục. - Những công trình, sách, báo, tạp chí, bài hội thảo đã công bố nghiên cứu về giáo dục và hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục nói chung, giai đoạn 1897 -1945 nói riêng. - Các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về giáo dục và hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục. - Tài liệu lịch sử địa phương 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài thuộc lĩnh vực khoa học Lịch sử nên việc kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic được coi là phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, để giải quyết được nhiệm vụ, mục tiêu đề ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp sưu tầm, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để giải quyết các yêu cầu đặt ra của luận văn. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp chủ yếu sau: - Tổng hợp, hệ thống nguồn tư liệu, tài liệu nghiên cứu về hoạt động của trí thức nói chung và hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. - Hệ thống lại toàn diện hoạt động của trí thức trong lĩnh vực giáo dục từ năm 1897 đến 1945. - Trên cơ sở tiếp cận tư liệu mới, và góc nhìn mới đánh giá về những đóng góp của trí thức trong lĩnh vực giáo dục. Vai trò của trí thức Việt Nam góp phần cải biến nền giáo dục Việt Nam, đặt nền móng cho nền giáo dục mới ở Việt Nam. - Đề tài nghiên cứu thành công sẽ sẽ nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy Lịch sử Việt Nam ở hệ Đại học và Cao đẳng, chuyên đề Giáo dục 12 Việt Nam trong lịch sử và chuyên đề Trí thức Việt Nam trong lịch sử ở bậc đào tạo Thạc sĩ. Kết quả của đề tài góp phần vào việc giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo, truyền thống hiếu học, truyền thống yêu nước và đấu tranh, bảo vệ độc lập dân tộc cho thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên quan đến đề tài luận án, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về trí thức và giáo dục Việt Nam (1897 - 1945). Chương 2: Một số hoạt động tiêu biểu của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 - 1945). Chương 3: Nhận xét về hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục (1897 - 1945). 13 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VÀ GIÁO DỤC VIỆT NAM (1897 -1945) 1.1. Khái niệm về trí thức Có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về trí thức. Khái niệm trí thức biến đổi theo lịch sử và phụ thuộc vào quan niệm, nhận thức của cá nhân, quốc gia hay tổ chức. Thường để xác định trí thức, người ta căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản: có trình độ học vấn, chuyên môn môn cao và hoạt động trí óc trong các lĩnh vực khoa học để phân biệt với người lao động bằng chân tay và trí thức là một tầng lớp chứ không phải là một giai cấp trong xã hội. Đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về trí thức. Các khái niệm về trí thức luôn có sự thay đổi cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử và hầu như vẫn chưa có khái niệm nào bao quát hết tất cả nội hàm của khái niệm trí thức. Mặc dù đây là lực lượng xã hội tồn tại xuyên suốt trong tiến trình lịch sử thế giới nói chung và lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng. Cho đến thời điểm hiện nay có khoảng 100 khái niệm khác nhau về trí thức. Nhưng tựu chung lại, để xác định trí thức người ta thường căn cứ vào hai yếu tố cơ bản: - Thứ nhất, đó là người có trình độ học vấn và chuyên môn. - Thứ hai, tham gia hoạt động ở các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Trong từ điển Pháp, định nghĩa trí thức (Interllectuels) “là người quan tâm đến công việc não bộ vì thị hiếu hay vì nghề nghiệp”, suy ra mọi lao động trí óc đều là trí thức. Từ này chính thức xuất hiện tại Pháp (1896), từ một bản Kháng nghị nổi tiếng của các nhà văn, nhà khoa học, do nhà văn Eminl Zola đứng đầu. Trong từ điển Anh “Trí thức (Intellectual) là người làm việc với lý thuyết và nguyên tắc hơn là thực hành, lý thuyết của họ thường liên quan đến những vấn đề trừu tượng, họ xa rời thế giới và họ chủ yếu thuộc giới dạy học 14 và văn hóa. Những người ít chú ý đến thú vui tầm thường” (chỉ giới hạn ở thầy, cô, những nhà văn hóa, văn nghệ, nhà tư tưởng). Ở Nga, người ta gọi trí thức (Intelligentsia) là “những người dấn thân cho công cuộc Tây phương hóa ở nước Nga” như vậy nghĩa của từ này xuất phát từ tiếng La tinh, có nghĩa là: trí tuệ, thông minh, sự hiểu biết. Theo Marx, trí thức là những người có kiến thức dồi dào và có chính kiến trước các vấn đề chính trị xã hội”. Còn nói rõ hơn: “Trí thức ngoài khả năng sáng tạo, còn phải dám phê phán thẳng thừng mọi thứ cần phê phán, không lùi bước trước mọi kết luận, không đụng chạm dù đụng chạm đến quyền lực nào” Ở Trung Quốc, Khổng Tử nói: “Nho sĩ phải là người đủ ba phẩm chất: có trách nhiệm cao, có lòng tự trọng và dũng cảm”. Học giả Hồ Thu Nguyên, “Trí thức là hiểu trước, biết sau, rồi đem sự học hỏi của mình cống hiến cho tiến bộ nhân loại, xã hội, dân tộc”. Trong xã hội tư bản, trí thức tư sản là trí thức của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, một số trí thức tư sản sớm nhận thức được quy luật lịch sử nên đã rời bỏ quan điểm của giai cấp xuất thân để chuyển sang hàng ngũ giai cấp vô sản. Ở Việt Nam, quan niệm về trí thức cũng thay đổi qua mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Thời kỳ công xã nguyên thủy: những người có hiểu biết nhất định trong bộ tộc của mình có thể coi họ là trí thức, họ là những già làng, tộc trưởng, tù trưởng. Sau đó thời cổ đại quan niệm, sĩ để chỉ quân đội, lực lượng vũ trang (võ). Thời kỳ trị vì của các các triều đại phong kiến từ giữa thế kỷ XIX trở về trước quan niệm trí thức là sĩ phu, kẻ sĩ, nho sĩ, các cụ đồ nho được đào tạo theo mô hình giáo dục Trung Hoa. Theo tư tưởng Nho giáo: sĩ để chỉ văn (sau khi Nho gia vào Việt Nam, từ đó sĩ biến thành Nho sĩ, kẻ sĩ. Kẻ sĩ chính là người quân tử. Trong xã hội phong kiến, vị thế Nho sĩ được đánh giá cao, đứng đầu trong tứ dân (Sĩ, nông, công, thương). Trong đó thứ tự trí thức: Nho, y, lý, số (nhà Nho, thầy thuốc, nhà địa lý, người xem tướng số) 15 Đến thời trị vì của nhà Lê, quan điểm về trí thức ở Việt Nam xuất hiện rõ hơn, trên trên tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, Thân Nhân Trung có phản ánh để nói về ý nghĩa của khoa thi Hội năm 1442: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp”. Về thành phần, thời phong kiến Việt Nam, trí thức có thể được chia làm ba dạng: trí thức quan phương, trí thức ở ẩn và trí thức bình dân. “Trí thức quan phương”, có địa vị cao trong xã hội, được triều đình ban cấp nhiều ruộng đất và bổng lộc, sống cách biệt với nhân dân lao động. Bộ phận này tận trung với nhà vua, hết lòng phụng sự triều đình và cũng là chỗ dựa vững chắc cho nhà nước phong kiến. “Trí thức ở ẩn”, là những người có học, khi đi thi không đỗ, hoặc thi đỗ nhưng không ra làm quan. Bộ phận thứ ba là “trí thức bình dân”, thường là những thầy đồ, thầy thuốc. Những người này sống cuộc sống thanh bần, gần gũi với người dân lao động. Thường bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động. Từ nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam, để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, Pháp đã thực hiện chính sách giáo dục mới ở Việt Nam. Do vậy, trí thức trong thời Pháp thuộc xét theo chương trình đào tạo gồm hai bộ phận là trí thức Nho học (văn thân, sĩ phu) và trí thức Tây học (trí thức Tân học). Trí thức Nho học ở Việt Nam được đào tạo theo mô hình giáo dục Trung Hoa, nội dung chương trình học là sách Tứ thư, Ngũ Kinh. Đến nửa sau thế kỷ XIX, nền giáo dục Nho giáo bộc lộ nhiều hạn chế càng về sau cũng không còn sức hút đối với trí thức, không đủ để đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử. Đến cuối thế kỷ XIX, đội ngũ trí thức Nho học Việt Nam hăng hái lãnh đạo, tham gia phong trào chống Pháp - phong trào Cần Vương, họ được gọi là văn thân, sĩ phu. Theo từ điển Tiếng Việt thì văn thân là những nhà Nho có
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan