I./ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong quá trình đổi mới chương trình DẠY – HỌC thì việc vận dụng các
phương pháp mới vào dạy và học giúp cho học sinh CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC là một
việc chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Tuy vậy việc vận dụng các phương pháp dạy
học mới và việc sử dụng, khai thác SGK mới còn gặp rất nhiều khó khăn lúng túng
đặc biệt là trong bộ môn hóa học.
Đối với học sinh bậc THCS thì hóa học là một bộ môn khó và các em chỉ được
làm quen ở năm học lớp 8. Hóa học còn là bộ môn khoa học thực nghiệm nên có
những kiến thức đòi hỏi người giáo viên phải cung cấp cho học sinh thông qua các
hoạt động thực hành, thí nghiệm. Nhưng thực tế hiện nay ở hầu hết các trường THCS
vùng nông thôn thì việc đưa thí nghiệm, thực hành vào giảng dạy trên lớp vẫn còn ít,
nếu có được đưavào thì lại trong tình trạng lúng túng, gượng gạo. Điều này đã làm cho
cả thầy và trò đều không hứng thú trong những tiết học thực hành trong chương trình
làm cho môn hóa học trở thành bộ môn học sinh cảm thấy “sợ”. Từ đó chất lượng bộ
môn đạt hiệu quả không cao.
Trước những thực trạng đó bản thân tôi, một giáo viên dạy môn hóa học bậc
THCS, đã nhiều đêm trăn trở tìm giải pháp cho vấn đề này. Sau khi tham khảo ý kiến
và kinh nghiệm của đồng nghiệp cũng như tìm hiểu qua nhiều tài liệu có liên quan tôi
nhận thấy mấu chốt của vấn đề là giáo viên chưa truyền thụ, hình thành cho học sinh
những kỹ năng tiến hành thí nghiệm hóa học. Được sự động viên và giúp đỡ của đồng
nghiệp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và viết lại những gì mình đã tìm ra thành SKKN:
Hình thành và phát triển kỹ năng tiến hành thí nghiệm hóa học cho học sinh ở bậc
THCS. Thông qua sáng kiến nhỏ này tôi mong rằng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
1
chất lượng của việc dạy học môn hóa học bậc THCS; để môn hóa học trở thành môn
học yêu thích của tất cả các em học sinh.
II/. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Thực tế trong quá trình giảng dạy thì hầu hết giáo viên đều đã ít nhiều truyền
thụ các kỹ năng trong thực hành thí nghiệm cho học sinh. Tuy vậy những kỹ năng này
được truyền thụ và hình thành một cách thiếu khoa học, rời rạc, không liên tục; điều
này làm học sinh không nhận thức được phải chú trọng rèn luyện các kỹ năng đó để áp
dung vào các bài học sau đó.
Việc hình thành các kỹ năng cho học sinh cần được tiến hành khoa học, phân
loại từng kỹ năng theo mục đích của bài học và từng mức độ khác nhau. Có thể chia và
hình thành cho học sinh các mức độ kỹ năng như sau:
+Kỹ năng tiến hành TN thành công.
+Kỹ năng khai thác TN có hiệu quả.
+Kỹ năng khai thác TN thực hành có hiệu quả.
1/. Hình thành kỹ năng tiến hành thí nghiệm thành công.
Để làm tốt vấn đề này giáo viên cần có hướng dẫn cụ thể những thao tác TN
ngay từ những bài đầu tiên khi: dạy bài mới có TN do giáo viên thực hiện và trong giờ
thực hành.
a) Hướng dẫn học sinh nhận biết dụng cụ hóa chất, mục đích TN và cách tiến
hành cụ thể. Những thí nghiệm có dụng cụ khó lắp thì giáo viên nên lắp trước, hóa
chất nên cho mỗi nhóm một lượng nhỏ đủ làm thí nghiệm.
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
2
Ví dụ: Lượng hóa chất lỏng chỉ lấy tối đa 1/3 ống nghiệm, khi sử dụng
ống ngiệm nên quy đầu ống nghiệm về hướng không có người, …
b) Hướng dẫn có sử dụng các dụng cụ, thiết bị, hóa chất thực: Đèn cồn, ống
nghiệm đũa thủy tinh, phễu lọc, … Tránh tình trạng chỉ mô tả bằng miệng học treo
tranh để giới thiệu.
c) Chú ý các thao tác theo từng bước: Giáo viên làm, học sinh làm theo: Lấy
hóa chất, lắp dụng cụ, khuấy hòa tan chất, lấy thể tích chất lỏng, …
d) Chú ý theo dõi khi học sinh thực hiện theo nhóm để có uốn nắn kịp thời: Khi
nhomshocj sinh thực hiện trong bài thực hành và hoặc TN nghiên cứu tính chất mới,
giáo viên cần theo dõi chỉ dẫn, điều chỉnh các thao tác của học sinh.
Ví dụ: Cách cặp ống nghiệm chưa đúng, vị trí treo đèn cồn chưa đúng,
…
e) Sau TN cần hướng dẫn học sinh thu gom hóa chất, khử chất độc hại ngay sau
mỗi TN hoặc cuối tiết học.
Ví dụ: Các thí nghiệm có dung dịch axit cần khử ngay bằng nước vôi
sau tiết học, các thí nhiệm có khí độc: SO2 , Cl2 cần khử ngay bằng nước vôi hoặc
dung dịch kiềm,…
Đặc biệt giáo viên cần rèn luyện cách làm việc nghiêm túc, khoa học cho học
sinh: không đùa giỡn, không làm thí nghiệm ngoài hướng dẫn, không lấy hóa chất này
đổ vào hóa chất khác khi không có hướng dẫn của GV, … ngay từ buổi đầu tiên.
Đây là những kỹ năng sẽ góp phần làm cho thí nghiệm thành công theo yêu
cầu. Khi học sinh học tập và hình thành được những kỹ năng này sẽ nâng cao kết quả
thực hành, thí nghiệm, tạo hứng thú học tập cho từng cá nhân.
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
3
Tuy vậy đây mới chỉ là những kỹ năng ban đầu góp phần an toàn và góp phần
thành công cho thí nghiệm. Muốn đạt được mục tiêu đặt ra của mỗi thí nghiệm và bài
học cần phải khai thác cho có hiệu quả những thí nghiệm đó.
2/. Hình thành kỹ năng khai thác thí nghiệm có hiệu quả.
Để hình thành kỹ năng khai thác TN có hiệu quả cho học sinh, giáo viên sử
dụng các thí nghiệm theo nhiều hình thức khác nhau:
a) TN nghiên cứu do nhóm học sinh thực hiện để phát hkieenj một tính chất hóa
học mới.
Ví dụ: Nghiên cứu tác dụng của bazơ và dung dịch muối trong bài
“bazơ”; Dựa vào thí nghiệm cho Muối tác dụng với bazơ mà học sinh biết được bazơ
có tính chất hóa học đó hay không từ đó học sinh sẽ khắc ghi kiến thức.
b) TN biểu diễn của giáo viên theo hướng nghiên cứu giúp học quan sát, nhận
xét, rút ra kết luận.
Ví dụ: Giáo viên biểu diễn TN đốt cháy sắt trong bình khí clo ở bài
“Tính chất hóa học của kim loại” để học sinh nghiên cứu tính chất tác dụng của kim
loại với phi kim. Từ đó học sinh sẽ rút ra và ghi nhớ kết luận.
c) TN kiểm chứng nhằm kiểm tra những dự đoán, những suy đoán lý thuyết.
Ví dụ: Sau khi học sinh dự đoán khả năng phản ứng của nhôm với dung
dịch bazơ, học sinh làm TN cho dây nhôm vào dung dịch NaOH để kiểm tra dự đoán
nào đúng rồi rút ra kết luận.
d) TN đối chứng nhằm giúp cho việc rút ra kết luận một cách đầy đủ, chính xác
hơn về một quy tắc, tính chất của chất.
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
4
Ví dụ: TN nghiên cứu khả năng kim loại Fe có thể đẩy được đồng ra
khỏi dung dịch muối CuSO4 , còn Cu thì không đẩy sắt ra khỏi dung dịch FeSO 4 . từ
kết quả thực tế của TN học sinh sẽ tự rút ra kết luận đầy đủ chính xác về tính chất hóa
học của kim loại.
e) TN nêu vấn đề.
Ví dụ: Khi nghiên cứu tính chất của axit H 2SO4 đặc, giáo viên yêu cầu
học sinh thực hiện TN cho dây Cu vào H 2SO4 đặc nóng và thấy có phản ứng xảy ra.
Vấn đề đặt ra là: liệu hiện tượng trên có sai không? hoặc lý thuyết trước đây (kim loại
đứng sau H không tác dụng với dung dịch axit) không đúng.
f) Thí nghiệm nhằm giải quyết vấn đề.
Ví dụ: “Học sinh thực hiện TN cho dây Cu vào H 2SO4 đặc nóng và thấy
có phản ứng xảy ra. Vấn đề đặt ra là: liệu hiện tượng trên có sai không? hoặc lý thuyết
trước đây (kim loại đứng sau H không tác dụng với dung dịch axit) không đúng”, giáo
viên thực hiện thêm TN cho giấy quỳ ẩm lên miệng ống nghiệm Cu và H 2SO4 đặc
nóng và yêu cầu học sinh nêu hiện tượng và xác định khí này có phải là khí hiđrô
không? Qua đó vấn đề đã được giải quyết: Với axit H 2SO4 đặc, khí tạo thành không
phải là khí hiđrô mà là khí SO2 làm quỳ tím ẩm hóa màu đỏ. Do đó phản ứng này
không trái với tính chất của dung dịch axit H 2SO4 loãng đã học mà là tính chất mới của
H2SO4 đặc: Phản ứng với kim loại kể cả kim loại đứng sau H tạo thành sản phẩm là
muối và không giải phóng khí hiđrô.
Tuy vậy giáo viên muốn làm cho học sinh thấy rõ mục đích của thí nghiệm, các
hoạt động cụ thể trong mỗi thí nghiệm thì cần thiết kế phiếu thí nghiệm cho mỗi bài cụ
thể.
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
5
Ví dụ: Để hình thành tính chất hóa học: Axit tác dụng với muối tạo
thành muối mới và axit mới, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các thí nghiệm và
điền kết quả vào phiếu sau:
N.xét về tên sản phẩm
Thí nghiệm
Hiện tượng- Giải thích
Phương trình hóa học
H2SO4 (dd) + BaCl2 (dd)
phản ứng và trạng thái
Tạo thành muối mới và
2HCl (dd) + BaSO4
axit mới.
Có chất rắn trắng tạo
1.H2SO4 (dd) + BaCl2(dd)
thành đó là BaSO4.
(rắn, trắng)
Có 1 chất rắn.
2. HCl (dd) + CaCO3 (đ)
3. HCl (dd) + CuSO4 (dd)
4. H2SO4 (dd) + NaCl(dd)
Kết luận chung
Qua đó học sinh rút ra kết luận chung: Axit có thể tác dụng với muối tạo thành
muối mới và axit mới.
Điều kiện xảy ra phản ứng giữa axit và muối: Sản phẩm có chất rắn hoặc chất
khí.
Nếu học sinh đã hình thành được những kỹ năng này thì việc học tập tiếp thu
kiến thức đặc biệt là kiến thức qua những TN sẽ không còn là vấn đề khó khăn với các
em nữa. Tuy vậy chỉ mới nhận biết được kiến thức thì chưa đạt được mục tiêu giáo dục
mà chúng ta đã đề ra. Với bộ môn hóa học thì các em cần phải có thêm một kỹ năng
đặc biệt quan trọng đó là kỹ năng khai thác thí nghiệm thực hành có hiệu quả. Đây là
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
6
bước chuyển tiếp giữa lý thuyết và thực tế cuộc sống; đây cũng là khâu quyết định
hình thành khả năng vận dụng những điều đã học vào thực tiễn như thế nào.
3/. Hình thành kỹ năng khai thác thí nghiệm thực hành có hiệu quả.
Tất cả các thí nghiệm thực hành người giáo viên cần có sự đầu tư nghiên cứu
trước để hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả. Ngoài ra còn phải phân loại các thí
nghiệm thực hành để có phương pháp khai thác khác nhau:
a) Thí nghiệm thực hành mà giáo viên hoặc nhóm học sinh đã tiến hành khi
nghiên cứu bài mới: Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày cách tiến hành, mục đích thí
nghiệm, kỹ thuật cần lưu ý và chú ý mô tả hiện tượng, giải thích hiện tượng, xác định
chất tạo thành và viết các phương trình phản ứng xảy ra. Do đây là thí nghiệm đã thực
hiện đẻ học bài mới nên học sinh thường ít chú ý nên giáo viên khi hình thành cho các
em nhuwgx kỹ năng trên cần yêu cầu học sinh làm việc độc lập để phát huy hết tư duy
hóa học cho học sinh.
b) Thí nghiệm là một thí nghiệm mới chưa thực hiện trên lớp.
Giáo viên yêu cầu học sinh cần tìm hiểu kỹ về mục đích, cách tiến hành, ,kỹ
thuật. giáo viên hướng dẫn các thao tác để học sinh thực hiện theo. Giáo viên yêu cầu
học sinh chú ý:
+ Hiện tượng thí nghiệm.
+ Giải thích hiện tượng, xác định chất tạo thành.
+ Viết các PTHH, chú ý trạng thái, màu sắc của các chất trước và sau phản
ứng.
+ Kết luận.
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
7
Vì đây là một thí nghiệm mới nên cần có sự giám sát chặt chẽ của giáo viên để
điều chỉnh kịp thời những sai sót của học sinh, tránh xảy ra những sự cố khi thực hiện.
c) Bài tập thực nghiệm: Thường là phân biệt một số chất cho trước.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu:
+ Cách giải lý thuyết: chọn thuốc thử nào? Tại sao? Cách tiến hành như thế
nào? Dự đoán hiện tượng để nhận biết mỗi chất, lập sơ đồ nhận biết. Đây là khâu rất
quan trọng vì khi có cơ sở lý thuyết vững vàng thì sẽ có hướng đi đúng đắn để thí
nghiệm được thành công và chính xác theo yêu cầu.
+ Tiến hành phân biệt bằng thí nghiệm: Tiến hành theo kế hoạch đã định ra ở
phần giải lý thuyết. Chú ý thực hiện chính xác theo các bước giải lý thuyết kể cả việc
cho thứ tự các chất khi thí nghiệm.
Ví dụ: Thí nghiệm 2 bài 55, Hóa học 9: Phân biệt dung dịch glucozơ,
dung dịch saccarozơ và hồ tinh bột. khi thực hiện giáo viên cần yêu cầu học sinh trình
bày rõ cơ sở lý thuyết để sử dụng những loại hóa chất đó, dự đoán kết quả, sau đó cho
học sinh thí nghiệm để kiểm chứng với kết quả dự đoán.
Trong quá trình hình thành cho học sinh những kỹ năng tiến hành thí nghiệm
cần lồng ghép hình thành cho học sinh những kỹ năng khác trong dạy học hóa học
như: Kỹ năng tư duy hóa học, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học, kỹ năng giải bài tập
định lượng, kỹ năng giải bài tập trắc nghiệm khách quan, … Học sinh chỉ có thể đạt
kết quả học tập hóa học cao nhất khi các em hình thành và phối hợp nhuần nhuyễn các
kỹ năng đó. Người giáo viên cần chú trọng truyền thụ những kỹ năng đó cho các em
để các em có thể chủ động nắm bắt kiến thức vì cốt lõi của việc đổi mới PPDH môn
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
8
hóa học ở trường THCS là làm cho HS học tập tích cực, chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động.
III/. KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG - THỰC TIỄN
Trong thời gian công tác giảng dạy của bản thân, mặc dù còn ngắn ngủi nhưng
bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp trên và thu được kết quả khá khả quan. Đa
số các em học sinh của tôi đã tìm ra hứng thú học tập, chất lượng của bộ môn đã được
nâng cao rõ rệt.
Qua thống kê ngẫu nhiên ở 4 lớp tôi dạy đó là lớp 9A, 9B, 9C, 9D trong năm
học 2007-2008 của trường THCS Khánh Bình Tây Bắc tôi thu được kết quả như sau:
* Câu hỏi thăm dò: Em có thích (hứng thú) học môn hóa học không?
Trả lời:
+ Trước khi áp dụng:
Lớp
9A
9B
9C
9D
Sĩ số
32
34
30
32
Trả lời
Không tỏ thái độ
Hứng thú
Không hứng thú
SL
%
SL
%
SL
%
8
9
6
7
25,00
26,47
20,00
21,88
7
10
12
12
21,88
29,41
40,00
37,50
17
15
12
13
53,12
44,12
40,00
40,62
+ Sau khi áp dụng:
Lớp
9A
9B
Sĩ số
32
34
Trả lời
Không tỏ thái độ
Hứng thú
Không hứng thú
SL
%
SL
%
SL
%
21
25
65,62
73,53
7
6
21,88
17,65
5
3
12,50
8,82
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
9
9C
9D
30
32
18
23
60,00
71,88
7
5
23,33
15,62
5
4
16,67
12,50
* Chất lượng bộ môn:
+ Trước khi áp dụng:
Lớp
Sĩ số
9A
9B
9C
9D
32
34
30
32
TB trở lên
SL
20
19
19
21
Dưới TB
%
62,50
55,88
63,33
65,63
SL
12
15
11
11
%
37,50
44,12
36,67
24,37
+ Sau khi áp dụng:
Lớp
Sĩ số
9A
9B
9C
9D
32
34
30
32
TB trở lên
SL
27
29
26
28
Dưới TB
%
84,38
85,39
86,67
81,25
SL
5
6
4
6
%
15,63
14,71
13,33
18,75
Từ thực tế trên tôi nhận thấy việc hình thành những kỹ năng này không đòi hỏi
sự đầu tư tốn kém về cơ sở vật chất mà có thể áp dụng rộng rãi. Yếu tố cần thiết ở đây
là lòng yêu nghề, muốn tìm tòi cống hiến cho ngành giáo dục cả nước nói chung và
ngành giáo dục xã nhà nói riêng.
Những kinh nghiệm của bản thân tôi trình bày trong đề tài này còn nhiều hạn
chế. Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô để sáng kiến này hoàn thiện hơn góp phần
hỗ trợ cho công tác dạy và học trong sự nghiệp giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn!
KBT Bắc, ngày 15 tháng 09 năm 2008
Người viết
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
10
Trương Thanh
Bền
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN
Ngöôøi thöïc hieän: Nguyeãn Phi Phöông
Trang:
11
- Xem thêm -