Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Giáo trình kinh tế môi trường

.PDF
407
6
131

Mô tả:

5 LỜI NÓI ĐẦU Từ vài thập kỷ nay môi trường của chúng ta được đề cập đến rất nhiều. Tình trạng môi trường được thảo luận và tranh luận khá gay gắt trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong giới khoa học cũng như trong các cuộc hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước. Dĩ nhiên nhiều người trong chúng ta cho là nhân loại còn làm quá ít và chưa đủ để giải quyết các vấn đề bức xúc về môi trường mặc dù hiểm họa môi trường đến nay không còn là tiềm ẩn nữa mà đã hiện rõ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nếu có xảy ra thì nó sẽ diễn ra với quy mô lớn hơn và nguy hiểm khôn lường 1 . Câu hỏi lớn nhất bây giờ đặt ra cho nhân loại là chúng ta phải làm gi, làm như thế nào và làm bao nhiêu nữa để bảo vệ môi trường. Ý nghĩa của vấn đề môi trường trong nhận thức của con người từ nhiều năm nay đã có những thay đổi cơ bản. Nếu ban đầu, chỉ coi đó là những vấn đề mang tính cục bộ của các quốc gia có nền công nghiệp phát triển và một số vấn đề bức xúc như việc tàng trữ rác và chất thải, nguồn nước bị ô nhiễm..., thì ngày nay vấn đề môi trường đã mang tính quốc tế và toàn cầu hoá. Sự thay đổi quan điểm này không phải tự nhiên mà có. Nó xuất phát từ những hậu quả bức bách mà con người là thủ phạm. Chúng ta đã làm đảo lộn các quá trình vốn trước đây tuân theo quy luật tự nhiên. Kết quả (hậu) của sự đảo lộn này sẽ dẫn đến sự thay đổi cách nhìn nhận và nhận thức vấn đề của con người. "Việt Nam sẽ là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Đi kèm với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng sẽ nảy sinh những thách thức không lường trước được đối với môi trường. Đặc biệt, ở những khu đô thị mới và khu công nghiệp, chất thải rắn đã trở thành vấn đề nổi cộm, gây ra những tác động nghiêm trọng về sức khỏe người dân"2 . Nhân trong một chuyến thăm Việt Nam vào cuối năm 2004 giáo sư Stiglitz 3 đã nhận định "Có thể nói Việt Nam đang tiến vào giai đoạn phát triển mà những tác động đối với môi trường ngày càng tăng. Trong khoảng thời gian 10 - 15 năm tới, số người sử dụng xe hơi sẽ tăng lên, các khu công nghiệp mọc lên nhanh chóng. Điều đó tạo ra một áp lực rất lớn đối với môi trường, nếu không có những biện pháp ngay từ bây giờ thì hậu quả sẽ khôn lường, và Việt Nam không thể đạt được phát triển bền vững. Do vậy, điều quan trọng là trong những chính sách kinh tế của mình, Việt Nam cần tính đến yếu tố bền vững môi trường. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng nên đưa ra những chính sách có tính bao quát đến tất cả các vùng, miền để tránh sự phát triển chênh lệch như trên ...". Có thể nói Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn về môi trường và cũng là lúc phải bắt đầu ngay trong việc bảo vệ môi trường trước khi quá muộn. Môn Kinh tế học môi trường thuộc loại "sinh sau", mới có từ đầu những năm 60. Nhưng do vấn đề môi trường trên toàn cầu, trong khu vực và trong nước ngày càng bức xúc nên xu thế chung là đưa môn này vào giảng dạy ở các trường đại học cho bậc đại học và cao học. Đối tượng học không chỉ là các sinh viên thuộc chuyên ngành khoa học kinh tế mà cả các chuyên ngành kỹ sư kinh tế kỹ thuật và kỹ thuật thuần tuý. Ở trường Đại học Thuỷ lợi trong khuôn khổ của chương trình DANIDA WAterSPS 1.3 4 môn "Kinh tế môi trường" là một trong những môn mới được hỗ trợ xây dựng. Trong quá trình biên soạn cuốn giáo trình này tôi rất chân thành cảm ơn trước hết Phó giáo 1 Bộ phim “The day after tomorrow” của nhà đạo diễn Roland Emmerich (2004) đã dần trở thành hiện thực. Như mới đây, tháng 8 năm 2005 cơn bão Katarina đã gây ra bao nhiêu thiệt hại ở Mỹ. 2 Phát biểu của ông Mai Ái Trực (Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường) tại buổi lễ công bố báo cáo mới nhất về diễn biến môi trường Việt Nam của Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức 25.11.2004 ở Hà Nội 3 Phát biểu của giáo sư Stiglitz, J.E. (người nhận giải thưởng Nobel về kinh tế năm 2001) tại Hà Nội. Nguồn: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2004/11/3B9D8F5D/ 4 National Capacity Building (WAterSPS) Sub-component 1.3, Support to Capacity Building at the Water Resources University 6 Kinh tÕ m«i tr−êng sư Thorkil Casse (Roskil University, Đan Mạch) đã nhiệt tình hướng dẫn xây dựng đề cương môn học "Kinh tế môi trường" dành cho chương trình bậc đại học ở Trường Đại học Thuỷ lợi và tư vấn trong việc chọn giáo trình cũng như tài liệu giảng dạy thích hợp về kinh tế môi trường để đào tạo cho chuyên ngành kỹ sư kinh tế thủy lợi và kỹ sư tài nguyên nước. Ngoài ra tôi cũng chân thành cảm ơn Tổ chức trao đổi hàn lâm Đức DAAD (Deutscher Akademischer Ausstauschdienst) đã hỗ trợ từ nhiều năm nay trong khuôn khổ Alumni-Programm (Chương trình dành cho cựu sinh viên học ở Đức) các sách về thể loại kỹ thuật và kinh tế môi trường hiện đang được dùng trong giảng dạy ở các trường Đại học của Đức. Tác giả cám ơn sự hỗ trợ của ThS. Vũ Văn Hạnh đã giúp trong biên soạn chương 7, 9 và 10. Cuối cùng, tác giả cảm ơn GS. TS. Lê Văn Khoa (trường Đại học Khoa học tự nhiên) đã cho những ý kiến đóng góp quí báu trong quá trình phản biện cuốn sách cũng như một số giáo sư Đức trong khi tiếp xúc trao đổi về xây dựng các môn học có liên quan đến công nghệ và kinh tế môi trường. Vì biên soạn trong thời gian ngắn nên cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý kiến nhận xét để nội dung cuốn sách lần sau xuất bản phong phú và hoàn chỉnh hơn. Tác giả Nguyễn Trung Dũng, sinh năm 1957 Tốt nghiệp Đại học năm 1981 tại CHLB Đức Tiến sỹ Kỹ thuật năm 1984 tại CHLB Đức Tiến sỹ Khoa học năm 2004 tại CHLB Đức E.mail: [email protected] BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BOD Biological oxygen demand Nhu cầu ôxy sinh học 7 CVM DO DRM EPT EPA Contigent-Valuation Method Dissolved oxygen Dose – Response Methods End-of-pipe treatment Environmental Protection Agency FM Frontier Model HPM IM Hedonic-Pricing Method Immiserization Model IPCC Intergovermental Protection of Climate Change Marginal Abatement Cost Marginal Benefit Organisation for Economic Cooperation and Development Poluter pay principle (PPP) Travel Cost Method Tradable Pollution Permits MAC MB OECD PPP TCM TPP Phương pháp đánh giá giới hạn Ôxy hòa tan Phương pháp liều lượng – phản ứng Công nghệ xử lý đến cuối đường ống Cơ quan bảo vệ môi trường, ví dụ Sở Môi trường và tài nguyên Frontier Model (Một loại mô hình trong khai thác rừng) Phương pháp giá trị hưởng thụ Immiserization Model (Một loại mô hình trong khai thác rừng) Bảo vệ thay đổi khí hậu liên chính phủ Chi phí giảm thiểu cận biên Lợi ích cận biên Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả Phương pháp chi phí du lịch Giấy phép xả thải có thể mua bán được 8 kinh tÕ m«i tr−êng Chương 1 KINH TẾ HỌC ÁP DỤNG CHO MÔI TRƯỜNG Tiêu đề của chương này là Kinh tế học áp dụng cho môi trường (Economics for the Environment). Vì sao lại như vậy? Phải chăng do kinh tế có đóng góp quan trọng để giúp ta hiểu biết và giải quyết nhiều vấn đề về môi trường mà hiện nay con người đang phải đối mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Các nhà kinh tế vốn bị coi là kẻ yếu trong các cuộc tranh luận về môi trường nói chung. Có một lần, một nhà kinh tế môi trường tự giới thiệu "Tôi là nhà kinh tế môi trường" thì có người phản ứng ngay "Đấy có phải là sự mâu thuẫn trong bản thân chính nó không nhỉ?". Mọi người thường hiểu "Kinh tế" đơn giản là "Tài chính và thương mại", dĩ nhiên kinh tế học có nghiên cứu về con đường chính (Main Street) như Wall Street chẳng hạn, một đại lộ nổi tiếng với thị trường chứng khoán New York. Chúng ta tin rằng mọi luận cứ kinh tế thường có thể giúp môi trường hơn là phá hỏng. Trong các chương từ 1 đến 5 của cuốn giáo trình, sẽ nêu các quan điểm có tính nguyên tắc mà kinh tế học cung cấp. Sau đó, trong các chương tiếp theo sẽ đề cập đến một số vấn đề kinh tế môi trường quan trọng và chỉ cho thấy những quan điểm vừa được nêu có thể cải thiện như thế nào và con người phản ứng như thế nào với những vấn đề này. Một điều chắc chắn, một chính sách môi trường không có định hướng nội dung kinh tế tất nhiên sẽ làm hỏng môi trường; Ngược lại, các nhà điều hành kinh tế cũng nên được khuyến khích để có ảnh hưởng nhiều hơn đối với môi trường: bằng cách đưa ra những giá cả đúng đắn. Hệ thống kinh tế và môi trường nên được liên kết chặt chẽ với nhau: Nếu không, xét về quan điểm kinh tế thì chẳng khác nào chúng ta tạo ra những sản phẩm nhạy cảm mà không dùng được cho hệ thống nào. Mọi người ngày càng quan tâm hơn đối với hậu quả môi trường do các hoạt động kinh tế gây ra và bản thân giá trị kinh tế của nó. Điều này có thể lý giải, phần nào do con người ngày càng có ý thức hơn về vấn đề môi trường như sự thay đổi khí hậu toàn cầu chẳng hạn hay do cảnh đẹp vốn có của vùng không còn nữa. Đó cũng là hệ quả đã gây sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách nhằm hiểu được lợi ích và chi phí của các quy định điều chỉnh môi trường được ban hành. Con người đã bắt đầu quan tâm và hiểu hơn về vấn đề suy thoái môi trường đang diễn ra và chấp nhận chi phí để bảo vệ môi trường ở mức cao. Một bằng chứng là lực lượng đối lập ở các nước công nghiệp đã kiến nghị đưa thuế carbon vào áp dụng ở các Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 9 nước Châu Âu. Phát triển bền vững (Sustainable development) là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với mọi cấp của chính phủ, mặc dù còn ít người hiểu được một cách chính xác về bản chất của nó. Chúng ta tin rằng kinh tế có một đóng góp quan trọng để hiểu được những vấn đề này và những vấn đề đánh đổi ở hậu trường. Những nội dung khác của chương này là: - Nghiên cứu sự liên kết giữa hai hệ thống: hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường. - Tổng kết mười quan điểm then chốt của kinh tế môi trường và kinh tế tài nguyên mà các nhà khoa học, nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách về môi trường cần phải nhận thức được. - Giải thích cuốn giáo trình nên được sử dụng như thế nào là tốt nhất. - Cung cấp một tổng quan chung các vấn đề sẽ được trình bày ở phần còn lại của cuốn giáo trình. 1.1. HỆ THỐNG KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG Cuốn giáo trình này muốn giải thích vì sao các nội dung kinh tế lại có nhiều liên quan đến chính sách môi trường và chính sách sử dụng tài nguyên hơn là nhiều người thiết nghĩ. Điều quan trọng muốn nhấn mạnh ở đây, kinh tế học không chỉ quan tâm đến vấn đề nhập và xuất tài chính, mà cả những dịch vụ "phi giá cả" ("unpriced" services) mà môi trường tự nhiên cung cấp cho chúng ta, và tương ứng với giá trị nội dung của nó. Giá trị bảo vệ vùng đất ngập nước (Wetland) nhằm duy trì chức năng đa dạng sinh học, phòng chống ngập lụt và các chức năng xử lý ô nhiễm còn có giá trị kinh tế cao hơn là lượng dầu mỏ được khai thác trong mỗi tuần ở biển Thái Bình Dương. Tiếp theo, chúng ta cần nhận thức rõ hơn để làm sao hệ thống kinh tế và môi trường được liên kết chặt chẽ với nhau. Hệ thống kinh tế hoạt động ngay trong chính hệ thống môi trường, với các điều kiện cùng được xác định song song trong hai hệ thống. Với khái niệm "hệ thống kinh tế", chúng ta hiểu là tất cả các doanh nghiệp công nghiệp, hộ gia đình (cụ thể là con người) với vai trò của người tiêu dùng cũng như người cung cấp sức lao động; chính phủ; các cơ quan chức năng đảm bảo sự hoạt động giữa các nhóm này như thị trường chẳng hạn; tình trạng công nghệ; và ngay cả tài sản hiện có của chúng ta (từ đường giao thông cho đến trạm vũ trụ). Với khái niệm môi trường chúng ta hiểu là tất cả các nguồn tài nguyên, bao 10 kinh tÕ m«i tr−êng gồm đất đai, bề mặt của trái đất và hệ sinh thái (động và thực vật); và các biển cả đại dương bao la trên toàn thế giới và khí quyển; và khí hậu tự nhiên cũng như các chu trình dinh dưỡng. Trong hình 1.1. cho ta thấy sự hiện diện của nhiều mối quan hệ qua lại giữa hai hệ thống này. Trước hết, môi trường cung cấp cho hệ thống kinh tế các yếu tố nhập lượng như nguyên liệu thô và nguồn năng lượng, bao gồm khoáng sản, sắt thép, thực phẩm, chất hydrocarbon và các loại sợi như len và sợi bông. Những nguồn tài nguyên này có thể là tài nguyên không tái tạo (non-renewable, như than đá hoặc sắt thép), hoặc tái tạo (renewable) như thuỷ sinh và rừng. Dưới sự tác động của hệ thống kinh tế, các yếu tố đầu vào được biến đổi thành các xuất lượng mà con người sử dụng cho mục đích tiêu dùng của mình, ví dụ chế biến gỗ thành giấy và dầu thô thành xăng. Điểm thứ hai, hệ thống kinh tế sử dụng môi trường được coi như nơi chứa đựng chất thải (Waste sink). Các chất thải của các quá trình sản xuất như khí CO2 của các nhà máy nhiệt điện thải ra, hay chất thải do các hoạt động tiêu dùng của con người, ví dụ rác thải sinh hoạt các loại của hộ gia đình. Các chất thải có thể ở trạng thái rắn, lỏng và khí. Môi trường có khả năng hấp thụ (assimilative capacity) một cách có giới hạn và chuyển hoá một phần chất thải sang dạng khác ít độc hại hơn. Như vậy, ô nhiễm chính là mức xả thải vượt quá khả năng hấp thụ của môi trường và gây ra những tác động ảnh hưởng ngoài ý muốn. Hệ thống môi trường Trợ giúp cho cuộc sống toàn cầu Ảnh hưởng đến đa dạng sinh học Hệ thống kinh tế Đại lượng đầu vào là tài nguyên Chất thải (ô nhiễm toàn cầu, vùng và địa phương) Giá trị tiện nghi Hình 1.1: Tác động qua lại giữa hệ kinh tế và hệ môi trường Điểm thứ ba, môi trường cung cấp một nguồn tiện nghi trực tiếp cho các hộ gia đình. Con người đạt được các thỏa ích (như hạnh phúc, mãn nguyện) xuất phát từ Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 11 suy nghĩ về cái đẹp của cảnh quan và cuộc sống hoang dã như xuất phát điểm của con người từ cuộc sống du mục và săn bắn thú. Trong chương 3 sẽ làm rõ những tác động của thỏa ích trực tiếp vừa quan trọng lại vừa thích ứng xét ở quan điểm kinh tế. Cuối cùng, môi trường cung cấp những dịch vụ cơ bản hỗ trợ cuộc sống (lifesupport services) cho hệ thống kinh tế. Điều này bao gồm quá trình điều tiết khí hậu, vận hành chu trình nước, điều tiết các thành phần của khí quyển và hàng loạt các chu trình khác. Một điều chắc chắn rằng, nếu hệ kinh tế tăng nhu cầu về môi trường xét ở góc độ một trong bốn dòng dịch vụ bất kỳ ở trên, thì điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng của môi trường trong việc cung cấp các dịch vụ khác. Ví dụ: - Gia tăng việc sử dụng môi trường như là một bể chứa chất thải do xả các chất ô nhiễm tăng lên có thể làm giảm khả năng của môi trường trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cuộc sống làm cản trở sự điều tiết của khí hậu; hoặc có thể làm giảm giá trị tiện nghi của môi trường thông qua giảm số lượng các loài thú hoang dã. - Sự gia tăng nhu cầu đối với môi trường để tạo ra các nhập lượng cho sản xuất là tài nguyên chẳng hạn, có nghĩa là ta làm giảm các dòng tiện nghi khác, ví dụ việc khai thác đá được tiến hành ồ ạt ở ngay trong vườn quốc gia hay việc chặt cây khai thác gỗ sẽ làm thu hẹp diện tích rừng nhiệt đới. - Mối quan hệ giữa hệ thống kinh tế và việc đa dạng sinh học được thể hiện ở hình 1.2. Điều này đã cho thấy, hoạt động kinh tế có thể ảnh hưởng đến sự đa dạng thiên nhiên, ví dụ trong trường hợp lấy mất nơi sinh sống của các loài thú (ví dụ biến cánh rừng nhiệt đới thành mỏ vàng). Tính đa dạng được hiểu là một đặc tính quan trọng của hệ thống thiên nhiên, đặc biệt xét ở góc độ khả năng của nó vượt qua sức ép như hạn hán hoặc cháy rừng chẳng hạn (đặc tính này đôi khi còn được hiểu là khả năng phục hồi (resilience)). Một đặc tính quan trọng của hệ thống kinh tế - môi trường độc lập là sự đồng biến (co-evolution). Điều này có nghĩa, hình thức mà trong đó tiểu hệ thống kinh tế phát triển trong suốt thời gian phụ thuộc vào sự thay đổi của các điều kiện thuộc tiểu hệ thống môi trường, và ngược lại. Một ví dụ minh họa tốt về vấn đề này, xét ở góc độ tác động của sự thay đổi môi trường đến diễn biến của hệ thống kinh tế, đó là sự thay đổi khí hậu ở Scottland trong thời kỳ đồ đá. Khoảng 4000 năm trước công nguyên, những người nông dân ở thời kỳ đồ đá đã định cư ở nhiều vùng thuộc 12 kinh tÕ m«i tr−êng dải ven biển phía tây của Scottland, bao gồm cả đảo Arran. Đời sống kinh tế xã hội phát triển khá thịnh vượng. Song khí hậu thay đổi, thời tiết ngày càng trở nên giá lạnh hơn đến nỗi cây cối khó có thể phát triển được. Diện tích đầm lầy lan rộng. Hệ quả, cuộc sống con người ở đây ngày một khắc nghiệt. Do vậy, người dân buộc phải di dời xuống miền nam nơi khí hậu ấm áp hơn để làm ăn sinh sống. Các hệ thống môi trường có thể bị thay đổi vì các nguyên nhân nội ứng do hệ thống kinh tế gây ra và cũng có phản ứng lại đối với các yếu tố ngoại lai tác động như sự thay đổi khí hậu ở ví dụ trước. Ví dụ ở thế kỷ 19 người Ai Cập đã thay đổi kỹ thuật tưới cho cây bông, một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của vùng thung lũng sông Nile. Thay vì tưới theo hình thức ngập tự nhiên vốn đã có từ 5000 năm trước công nguyên, nay người ta áp dụng kỹ thuật tưới mới. Việc làm đó đã dẫn đến hiện tượng mặn hoá và giảm độ phì của đất. Ở Đông Island, trong thung lũng Indus, việc khai hoá văn minh ở vùng Trung Mỹ đã làm phát sinh ra các trận lụt lớn và làm thay đổi hẳn sự phát triển của xã hội. Ở Liên Xô cũ trong những năm 60 và 70, vì mục tiêu duy ý trí chủ quan nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở vùng Trung Á thông qua xây dựng hàng loạt các hệ thống tưới để mở rộng diện tích trồng cây bông mà không xem xét kỹ điều kiện khí tượng thủy văn, thổ nhưỡng của khu vực, ... Các nhà quy hoạch thủy lợi Liên Xô đã làm cho biển hồ Aral chết dần: giảm diện tích mặt hồ xuống còn một nửa sau 30 năm, xa mạc hóa và mặn hóa một vùng rộng lớn, thay đổi khí hậu vùng quanh hồ, .... Thảm họa của biển hồ Aral đã làm thay đổi hệ thống kinh tế của một vùng rộng lớn (ví dụ sự sụp đổ của ngành công nghiệp đánh bắt cá và chế biến thủy sản). Thảm họa vô cùng lớn này rất khó khắc phục trong nhiều năm. Sự thay đổi kinh tế ảnh hưởng đến sự tiến hóa của hệ sinh thái: - Việc nhập cư các loài thú mới, ví dụ việc di thú có túi từ Châu Úc sang sống ở Niu Dilân tương tự như trước đây người ta đã làm đối với mèo nhà, và như vậy đã làm thay đổi về chủng loại và sự đa dạng về loài động thực vật ở những nơi mới nhập cư. - Sự thay đổi hệ sinh thái thuỷ như cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã diễn ra ở thế kỷ 19. Kết quả là làm tăng sự kết tủa của chất Sunphua do các trận mưa axit và làm giảm độ pH của nguồn nước. Như vậy đã làm thay đổi cấu trúc loài các động vật có xương sống và không xương sống. Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 13 1.2. MƯỜI QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN NHẬN BIẾT Phần trước đã giải thích mối tương tác giữa hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường. Vậy các nhà kinh tế học có thể nói gì về những mối tương tác này? Trong phần còn lại của cuốn giáo trình, sẽ giải thích sự đóng góp mà kinh tế học có thể làm để hiểu được và giải quyết vấn đề môi trường. Những nội dung này đặc biệt quan trọng đối với các nhà khoa học môi trường, các nhà quản lý môi trường và chính trị gia. Sau đây là mười quan điểm cơ bản: 1. Hệ thống kinh tế và môi trường đều diễn ra song song. Điều này có nghĩa là để hiểu được hoàn toàn những hệ thống này buộc kinh tế học cần phải kết hợp với những cơ sở cơ bản của khoa học tự nhiên. Ngược lại, khoa học tự nhiên cũng cần phải kết hợp với các cơ sở hành vi của kinh tế học. 2. Cơ sở hành vi của kinh tế học có thể được đúc kết như sau. Thứ nhất, con người cũng có phản ứng đối với các hình thức kích thích tương tự như các doanh nghiệp. Song, kích khích quan trọng nhất vẫn là giá cả. Thứ hai, con người ra quyết định "ở điểm lề": hay nói cách khác, họ cố gắng cân bằng giữa chi phí và lợi ích để có bước tiếp theo. Cuối cùng thì các doanh nghiệp và hộ gia đình thông thường sẽ hành động theo sở thích nguyện vọng riêng đang được quan tâm nhất. Đối với doanh nghiệp thì mục tiêu cơ bản nhất vẫn là tối đa hóa lợi nhuận, còn đối với hộ gia đình là tối đa hạnh phúc hay thỏa dụng của họ. Điều này có nghĩa là chúng ta không lấy gì phải ngạc nhiên khi cả hai đều ứng xử một cách có tính chiến lược giống như nhau. Ví dụ, khi kẻ "ăn theo" (free-ride) lại được đề nghị bỏ tiền ra hiến cho quĩ môi trường, hay một người nông dân Cà Mau đang phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản mang lại 50 triệu đ/ha năm lại đi nhận một khoản tiền hỗ trợ ít ỏi để không tiếp tục làm công việc đó nữa. Do vậy, các cơ quan chính quyền cần lưu ý đến đặc điểm này. 3. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên đều cạn kiệt và việc khai thác sử dụng chúng theo hình thức này thì phát sinh chi phí cơ hội. Khái niệm "Cạn kiệt" được hiểu là không có đủ tài nguyên môi trường xung quanh để đồng thời đáp ứng bất cứ nhu cầu có thể nào khác. "Chi phí cơ hội" được hiểu là lợi ích tịnh buộc phải hy sinh cho lần sử dụng tốt tiếp theo. Ví dụ, một mảnh đất có ba cơ hội sử dụng, cụ thể cho nông nghiệp, lâm nghiệp và nghỉ ngơi giải trí. Số tiền thu được là 2000 $/ha, 3000 $/ha và 4000 $/ha. Chúng ta giả thiết rằng các cơ hội sử dụng này loại bỏ lẫn nhau, có nghĩa là mảnh đất không thể sử dụng cùng một lúc cho hai hay nhiều mục 14 kinh tÕ m«i tr−êng đích. Việc quyết định sử dụng đất cho mục đích nghỉ ngơi giải trí thì sẽ phải bỏ qua thu nhập hoặc từ nông nghiệp hoặc từ lâm nghiệp. Như vậy chi phí cơ hội là thu nhập tốt nhất tiếp theo bị bỏ qua, cụ thể là 3000 $/ha. Chi phí này cần được lưu ý khi đánh giá lợi ích tịnh của việc sử dụng đất cho mục đích nghỉ ngơi giải trí. 4. Nếu để tự vận hành thì hệ thống thị trường tự do sẽ làm suy thoái chất lượng môi trường, ví dụ tình trạng quá tải rác và nước thải hiện nay ở vùng nông thôn Việt Nam trong 10 năm trở lại đây. Hệ quả là có quá nhiều "cái xấu" về môi trường (môi trường quá bị ô nhiễm) và quá ít "cái tốt" về môi trường (như phong cảnh đẹp) xét ở góc độ tối ưu của xã hội. Vì sao lại như vậy? Nguyên nhân cơ bản là hệ thống quyền sở hữu hiện hành. Điều đó có nghĩa là không có giá cả thị trường để khuyến khích các xí nghiệp hay doanh nghiệp và các hộ gia đình giảm thiểu việc gây ô nhiễm hay khuyến khích họ làm lợi cho môi trường. Điều này trong kinh tế môi trường gọi là thất bại của thị trường. Trong chương 2 sẽ đi nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này và sẽ đề ra phương án để giải quyết. Phương pháp tiếp cận khác là xem môi trường có giá trị như thế nào xét ở các góc độ khác nhau. Tất cả các tác động đều phải được lượng hóa bằng giá trị hay giá thị trường. Ví dụ, rất khó để lượng tính được lợi ích của cảnh quan ruộng vườn nên thơ do người nông dân "tạo ra" và không tồn tại giá thị trường cho phong cảnh hay cảnh quan đẹp. 5. Song, thị trường đã chứng minh là cách thức tốt nhất để phân phối hàng loạt các tài nguyên; bàn tay vô hình của Adam Smith luôn đóng một vai trò quan trọng trong thị trường. Thị trường hoạt động tốt trong điều phối mọi hoạt động và chuyển đổi thông tin. Đối với nhiều nguồn tài nguyên thì hệ thống thị trường được coi là khá nhanh nhạy trong điều tiết những thay đổi về sự cạn kiệt mang tính tương đối. Ví dụ giá dầu mỏ tăng trong thời gian gần đây đã điều chỉnh một cách tự động việc cung cầu. Cuối cùng, thị trường cho phép con người có cơ hội để thương mại, mà điều đó là cách thức tốt để dẫn đến gia tăng phúc lợi xã hội. Thị trường có thể được tạo dựng nhằm phục vụ cho môi trường, ví dụ như việc buôn bán giấy phép xả thải áp dụng cho ô nhiễm tài nguyên nước, sẽ được bàn đến ở chương 8. 6. Sự can thiệp của Nhà nước không phải lúc nào cũng làm cho vấn đề sáng sủa hơn, song lại không làm cho vấn đề trở nên tồi tệ đi. Chính sách nông nghiệp chung của Cộng đồng Châu Âu thường hay bị chỉ trích là đã tạo ra những kích thích kinh tế cho người nông dân để họ hủy hoại môi trường. Điều này ta có thể gọi là sự thất bại của chính phủ (Goverment failure). Khi chính phủ can thiệp vào hoạt động tự do của thị trường, thì cần nhận thức một điều là làm như vậy họ "nhúng tay" vào một Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 15 vấn đề liên phối và vấn đề thông tin. Sự can thiệp của chính phủ có thể làm giảm độ nhạy của thị trường đối với sự cạn kiệt tương đối, ví dụ nếu chính phủ bình ổn giá cả ở một mức nào đó còn hơn là giữ tỷ lệ làm sạch thị trường. 7. Việc bảo vệ môi trường thường rất tốn kém. Cạn kiệt có nghĩa là chi phí cơ hội tồn tại cho mọi sự lựa chọn. Việc bảo vệ các loài thú hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng khá tốn kém, ở cả hai khía cạnh: trực tiếp (giám sát theo dõi đàn thú) và gián tiếp (vùng đất đó không còn được sử dụng cho các mục đích phát triển khác). Việc dành nhiều tiền cho phát triển hệ thống giao thông vận tải để giảm thiểu ô nhiễm không khí buộc phải tiết kiệm tiền vốn cho xây sửa trường học. Vậy nên làm cái gì thì tốt hơn, chi phí bảo vệ môi trường tiêu biểu gia tăng ở cận biên. Ví dụ việc xả thải từ các nguồn công nghiệp đang liên tục được làm sạch và chi phí xử lý cho việc giảm thải tăng thêm sẽ còn đắt hơn. 8. Khi quản lý các nguồn tài nguyên tái tạo như thuỷ sản và rừng, nếu ta chọn chỉ tiêu sản lượng bền vững tối đa (maximum sustainable yield) như một mức thu hoạch / đánh bắt tốt nhất thì rất ít khi đạt được tối ưu. Lý do là nó không xét đến chi phí và lợi ích kinh tế của việc quản lý nguồn tài nguyên tái tạo. Ví dụ, chỉ tiêu sản lượng bền vững tối đa trong đánh bắt thủy sản là đánh bắt được 20.000 tấn cá/vụ. Song, nếu chi phí tăng nhanh hơn thu nhập ở điểm này, thì buộc chính phủ phải giảm lượng đánh bắt thấp hơn mức này: Đánh bắt ở mức sản lượng bền vững tối đa thường được hiểu là có quá nhiều thuyền đánh cá để đánh bắt được quá ít cá. 9. Tăng trưởng kinh tế có thể không giải quyết hết các vấn đề môi trường và thậm chí lại còn gây ra hệ quả về môi trường. Chính vì vậy, một số ít người có suy nghĩ cực đoan là muốn đổi vị trí của họ ngày nay với cuộc sống nguyên thủy của 200 năm trước đây và muốn quay trở lại quá trình phát triển bằng không. Song thiết nghĩ một điều là trong tương lai con người sẽ xem chương trình động vật hoang dã trên màn hình chiếc tivi hiện đại tiếp nhận thông tin từ vệ tinh, nghĩa là cuộc sống của chúng ta còn tiếp tục hiện đại và đầy đủ tiện nghi hơn. 10. Nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất trên thế giới về bản chất đều mang tính toàn cầu. Song, kinh tế học phải dự báo được tình hình và phải tập hợp các nước lại để đi đến thoả thuận cho một hành động chung. Đấy chính là nguyên nhân mà lý thuyết trò chơi đã cho ta thấy nhiều nước có động cơ "sống dựa / ăn nhờ / ăn chùa" vào các hoạt động của các nước khác và cố tình lẩn tránh ký kết các thoả thuận quốc tế nhằm cắt giảm xả thải ô nhiễm toàn cầu là một ví dụ. Song các nhà 16 kinh tÕ m«i tr−êng kinh tế có thể giúp trong việc thiết lập các thoả thuận về thể chế để giảm thiểu vấn đề này. 1.3. XUẤT PHÁT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG 1 Trong lịch sử phát triển của loài người thì phương thức phát triển kinh tế của các quốc gia công nghiệp và sự bùng nổ dân số là những sự kiện đe dọa mạnh nhất đến hệ sinh quyển. Việc phá vỡ cân bằng sinh thái đến nay diễn ra ở quy mô toàn cầu, như: - Sự cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, - Sự bùng nổ dân số. Năm 1985 mới có 5 tỷ người trên hành tinh và ước tính đến năm 2020 là 8 tỷ. Tình trạng đáng lo nhất ở các nước đang và chậm phát triển, - Chất thải trên toàn cầu trong 100 năm qua đã tăng lên 12 lần, nhu cầu năng lượng thì tăng lên 20 lần, - Tài nguyên rừng đã giảm với tốc độ chóng mặt. Rừng chết do sự can thiệp của con người. Không khí bị ô nhiễm, đốt và chặt phá rừng bừa bãi đang diễn ra ở các nước đang phát triển, - Ô nhiễm liên vùng và trong vùng do phát tán chất phóng xạ, các dòng chảy chứa các chất ô nhiễm, sự cố chảy tràn dầu ở biển, cháy lớn ở các mỏ dầu, chất dioxin và nhiều chất thải khác phát tán khắp nơi, - Biến đổi khí hậu toàn cầu do tăng khí CO 2, sự nóng lên, vấn đề bụi và lỗ thủng ở tầng ozon. Những nguyên nhân nêu trên được phân thành ba nhóm chính của vấn đề môi trường là: do quá trình phát triển, do kinh tế - xã hội và do hệ thống kinh tế (hình 1.2). Trong nhóm nguyên nhân thứ nhất thì chủ yếu là: - Sử dụng và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo và không tái tạo, - Bùng nổ dân số, 1 Eidinger, tr. 12 - 15 Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 17 - Tốc độ đô thị hoá quá nhanh và các công trình xây dựng đã và đang chiếm rất nhều đất đai có giá trị sinh thái hay có khả năng sử dụng tốt cho sản xuất nông nghiệp. Trong nhóm thứ hai thì chủ yếu là nguyên nhân mang tính xã hội mà trong đó môi trường ở nhiều nơi bị coi là hàng hóa công cộng. Con người muốn tận dụng những mặt lợi của nó mà không hề có sự đóng góp hay chi trả về vật chất và tài chính để gìn giữ và hồi phục nó. Chính vì vậy, trong quá trình sản xuất và tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ đã phát sinh chi phí (môi trường) ngoại. Phần này sẽ được đề cập đến nhiều ở chương 2. Trong nhóm thứ ba là các nguyên nhân do hệ thống kinh tế mang lại. Trong hệ thống kinh tế thị trường người ta phấn đấu để các doanh nghiệp, công ty,... đạt được lợi nhuận cao như có thể trong sản xuất và kinh doanh, và con người đạt được thoả dụng trong tiêu dùng. Nhiều khi người ta đã lãng quên những hệ quả xấu đến môi trường. Còn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự thiếu hẳn một hệ thống giá cả tương đương với môi trường. Tất cả các nhóm nguyên nhân nêu trên đã dẫn đến tình trạng quá tải sự tiếp nhận của môi trường. Khả năng tiếp nhận của môi trường được hiểu ở đây là khả năng tự làm sạch và khả năng tự điều chỉnh, thu nhận, tàng trữ, khả năng làm loãng, đòi hỏi đối với môi trường và không độc hại đối với môi trường. Tóm lại, các vấn đề môi trường đòi hỏi phải có cách suy nghĩ mới và có quy hoạch vì: - Các vấn đề về môi trường rất tổng hợp, - Chúng phát triển theo hàm số mũ, - Những thiệt hại về môi trường diễn ra từ từ nhưng sẽ bất chợt trở nên nghiêm trọng như vấn đề rừng chết hàng loạt, ô nhiễm các dòng chảy, lũ lụt và các thảm hoạ môi trường, ... - Các vấn đề môi trường chuyển đổi nhanh mà con người không ứng xử kịp và - Nghiên cứu khoa học và cộng tác đa ngành là điều kiện tiên quyết. 18 kinh tÕ m«i tr−êng 1.4. MÔN HỌC "KINH TẾ MÔI TRƯỜNG" 2 Môn học kinh tế môi trường mới xuất hiện từ đầu những năm 60. Trong vài thập kỷ qua có những diễn biến ngày càng phức tạp về môi trường, sự nóng lên toàn cầu, biến đổi khí hậu toàn cầu, bão táp, sa mạc hoá, Tsunami, …. Vấn đề môi trường không còn đóng khung trong một quốc gia mà là vấn đề chung của toàn cầu (Biểu 1-1). Nên bên cạnh các môn về kỹ thuật và công nghệ môi trường thì môn kinh tế môi trường có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt. Nó được coi là một môn khoa học kinh tế, bao gồm những cơ sở lý thuyết, phân tích và tính toán chi phí cho các thông số môi trường. Chúng ta phân biệt hai loại về kinh tế môi trường: Kinh tế môi trường doanh nghiệp (KTMTDN) và kinh tế môi trường quốc dân (KTMTQD). Gia tăng dân số Đô thị hóa nhanh Các nguyên nhân của vấn đề môi trường Phát triển kinh tế Sự thay đổi kinh tế - kỹ thuật bất lợi đối với môi trường Môi trường là hàng hóa công cộng Phát sinh ra ngoại ứng và chi phí ngoại Các nguyên nhân do kinh tế - xã hội Hình thành chi phí môi trường ngoại Ứng xử của con người không phù hợp với môi trường (ở các nước chậm phát triển và các nước có mức sống vật chất cao) Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa Các nguyên nhân do hệ thống kinh tế Hệ thống kinh tế thị trường dân chủ Hình 1.2: Các nguyên nhân của vấn đề môi trường 2 Wicke, tr. 9-13 Quá tải khả năng chấp nhận được của môi trường Các nguyên nhân do quá trình phát triển Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 19 Biểu 1-1: Những sự kiện và trọng điểm nhất của chính sách môi trường toàn cầu Thời Sự kiện gian 1973 - Khủng hoảng dầu lửa trên khắp thế giới buộc các ngành công nghiệp phải đi đến tiết kiệm năng lượng và lần đầu tiên ban hành cơ sở pháp lý khung về môi trường 1973 - Chương trình hành động đầu tiên của Cộng đồng Châu Âu về bảo vệ môi trường 1978 Sự cố tràn dầu ở bờ biển của Anh và đã thức tỉnh toàn bộ cộng đồng 1982 - Chương trình hành động lần thứ 3 (điều chỉnh đường lối chính sách môi trường) 1992 Hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazin, phát triển bền vững, "Natura 2000" và chương trình hành động AGENDA 21) 1974 1976 1986 Hiệp ước Maastrict (Chính sách môi trường có quy hoạch, định hướng lâu dài (chiến lược)) Bước ngoặt trong chính sách môi trường ở Châu Âu (áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm và cộng tác, các công cụ định hướng thị trường, thoả thuận tự nguyện, các hình thức mới của việc tự giám sát ô nhiễm, tăng cường đối thoại giữa các bên có liên quan) 1993 - Chương trình hành động vì môi trường lần thứ 5 (các chủ đề trọng tâm) 2000 1997 2001 2002 Hội nghị về khí hậu toàn cầu ở Kyoto (Nhật Bản) và đưa ra nghị định thư Kyoto Hội nghị thượng đỉnh của thế giới ở Bonn (Đức) Hội nghị thượng đỉnh của thế giới về phát triển bền vững ở Johannesburg (Nam Phi) Kinh tế môi trường (doanh nghiệp) Kinh tế môi trường (doanh nghiệp) - KTMTDN - là một phần của kinh tế quản trị kinh doanh chuyên nghiên cứu những mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường tự nhiên của nó và những tác động của môi trường, chất lượng môi trường và chính sách môi trường đến doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cũng chỉ ra các khả năng mà doanh nghiệp có thể đảm bảo được các mục tiêu đề ra như tối đa lợi nhuận dài hạn và đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp, mà vẫn đáp ứng một cách tốt nhất 20 kinh tÕ m«i tr−êng các yêu cầu về môi trường mà chính phủ và thị trường đề ra. Nhiệm vụ của kinh tế môi trường doanh nghiệp về cơ bản là: - KTMTDN phải thể hiện được và chỉ ra những tác động của việc bảo vệ môi trường đến cơ cấu của xí nghiệp, - KTMTDN có nhiệm vụ tổ chức một cách tối ưu các công tác như mua sắm vật tư thiết bị, vận chuyển và lưu kho mà có xét đến những yêu cầu của việc bảo vệ môi trường, - Đảm bảo việc sản xuất và quy trình sản xuất tuân thủ theo quy định bảo vệ môi trường, - Ra các quyết định đầu tư của xí nghiệp phải tính đến yếu tố môi trường, - Thu thập mọi thông tin về chi phí bảo vệ môi trường và chi phí đầu tư để có cơ sở phân tích lỗ lãi của doanh nghiệp. Kinh tế môi trường (quốc dân) Kinh tế môi trường (quốc dân) - KTMTQD - là một nhánh có tính truyền thống của kinh tế môi trường nói chung. 3 Hầu hết các sách viết về kinh tế môi trường đều xét ở góc độ của nền kinh tế quốc dân. KTMTQD là một môn khoa học kinh tế và nhiệm vụ của nó là đảm nhận việc hỗ trợ về mặt kinh tế nhằm tối đa phúc lợi xã hội mà trong đó có chú ý đến chất lượng môi trường cao. Đồng thời KTMTQD cũng là một phần của "chính sách kinh tế" hay của chính sách kinh tế riêng ngành ví dụ chính sách giao thông vận tải hay chính sách vùng được coi là một chuyên ngành của kinh tế vùng và kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ của kinh tế môi trường (quốc dân) là: - Đóng góp của kinh tế môi trường cho tối ưu phúc lợi xã hội (Tối ưu phúc lợi) - Đóng góp của kinh tế môi trường cho cực trị chi phí của toàn nền kinh tế quốc dân và - Kinh tế môi trường với chức năng tư vấn chính sách. Một nhánh mới của Kinh tế môi trường là Kinh tế sinh thái 4 . Nội dung của kinh tế sinh thái không được đề cập đến trong cuốn giáo trình này. Môn học "Kinh tế môi trường" 3 4 Schaltegger, 2000, tr. 5 - 8 Schaltegger, 2000, tr. 14 - 19 Ch−¬ng 1 - Kinh tÕ häc ¸p dông cho m«i tr−êng 21 Môn Kinh tế môi trường có nhiệm vụ sau: - Trang bị những cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. - Trang bị những cơ sở lý luận để nhìn nhận, phân tích đánh giá môi trường trong bối cảnh của cơ chế thị trường. - Đánh giá những tác động (tích cực và tiêu cực) của các hoạt động phát triển (kinh tế và xã hội) đến môi trường. Tiếp cận phân tích kinh tế của những tác động tới môi trường. - Nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường. - Góp phần thẩm định các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển thông qua phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chi phí - hiệu quả. - Góp phần hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển, những phương thức quản lý môi trường hợp lý. - Nâng cao nhận thức về môi trường, về mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa môi trường và phát triển để mọi cá nhân, mọi cộng đồng có hành vi đúng đắn vì mục đích phát triển bền vững. Đặc biệt là đối với các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh. 1.5. TỔNG QUAN CHUNG CỦA GIÁO TRÌNH Cuốn giáo trình này gồm 11 chương. Năm chương đầu, nghiên cứu một số khái niệm quan trọng trong kinh tế và giải thích vì sao người ta lại quan tâm đến vấn đề môi trường. Chương 2 nghiên cứu vai trò của thị trường trong việc xác định mức chất lượng môi trường, chương 3 đánh giá tài nguyên môi trường, chương 4 phân tích lợi ích và chi phí và chương 5 nêu nguyên tắc hành động cũng như các công cụ của chinh sách môi trường trong thực tế. Các chương 6 đến 11, giúp ta hiểu các nguyên căn của hàng loạt các vấn đề môi trường quan trọng cũng như đề ra các cách thức để quản lý nó. Những vấn đề nghiên cứu ở đây là: - Vấn đề giao thông và môi trường, - Vấn đề bảo vệ tài nguyên rừng nhiệt đới, - Kiểm soát ô nhiễm nước, 22 kinh tÕ m«i tr−êng - Biến đổi khí hậu, - Tài nguyên và nhiên liệu và - Hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam. BÀI TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Hãy thảo luận xem hệ thống kinh tế có thể tách rời môi trường được không? 2. Cho biết những nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường. 3. Sự khác biệt giữa Kinh tế môi trường mang tính kinh tế quốc dân và Kinh tế môi trường mang tính doanh nghiệp. 4. Vì sao kinh tế môi trường lại cần kiến thức của nhiều chuyên ngành? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Eidinger, H., 2003: Umweltoekonomie, dùng cho chuyên ngành kỹ thuật cảnh quan và bảo vệ môi trường Rostock University (Đức), Rostock, tr. 12 15. 2. Hanley, N., Shogren, J.F. & White, B., 2001. Introduction to Environmental Economics, NXB Oxford University Press, Oxford, tr. 3 - 11, 133 - 147. 3. Schaltegger, S., 2000, Studium der Umweltwissenschaften Wirtschaftswissenschaft, NXB. Springer, ISBN 3-540-65991-9, tr. 5 - 8, 14 19. 4. Wicke, 1993. Umweltoekonomie, XB lần thứ 4, NXB Vahlen, Muenchen, ISBN 3 8006 1720X, tr. 9 - 26. 24 kinh tÕ m«i tr−êng Chương 2 TẠO DỰNG THỊ TRƯỜNG DÀNH CHO MÔI TRƯỜNG Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đều va chạm với thị trường. Song có một số người lại không có khái niệm gì về thị trường và thậm chí trong số đó có cả những người biết tổ chức hoạt động kinh tế của mình một cách có hiệu quả. Còn phần lớn chúng ta đều biết đánh giá những lựa chọn và cơ hội mà thị trường ban tạo cho ta. Khi quan sát hoạt động của thị trường hàng ngày, ta thấy đó là sự trao đổi tự nguyện có điều tiết của cơ chế cạnh tranh. Thị trường chiếm một phần rất lớn trong đời sống của con người. Vậy thị trường là gì? Đối với nhiều người thị trường là chợ nơi người bán gặp người mua để trao đổi hàng hoá như rau quả, thực phẩm, … hay trong thời đại tin học người ta còn hiểu xa hơn, đó là chợ ảo trên mạng Internet với các trang WWW (World Wide Web) mà ta có thể mua bán bất cứ một hàng hoá nào đó, ví dụ www.amazon.com 1 chuyên bán đấu giá các ấn phẩm (sách, báo, truyện, …), văn hoá phẩm (CD, DVD, phim ảnh, …), trang thiết bị tin học (PC, máy in, ổ đĩa, phần mềm, …), trang thiết bị viễn thông …; hay thông qua một ngân hàng đóng vai trò của nhà môi giới để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Vậy có thể nói thị trường là một địa điểm cụ thể nào đó để người ta tiêu xài tiền. Điểm chung nhất của các thành viên tham gia thị trường là họ đều tìm cách tối đa lợi ích của mình. Người bán (người sản xuất) muốn tối đa lợi nhuận, còn người mua (tiêu dùng) muốn tối đa sự thoả mãn hay lợi ích mà họ nhận được từ hàng hoá hay dịch vụ mà họ mua. Đối với các nhà kinh tế thì ý tưởng về thị trường lại còn đặc biệt hơn. Họ nhìn nhận thị trường như là một công cụ trao đổi tự phát. Thị trường xuất hiện tự phát ở mọi nền văn hoá do con người tìm thấy giá trị trong thương mại. Thương mại trên thị trường tạo nên phúc lợi thông qua sự trao đổi tự nguyện các tài nguyên hiếm mà trong đó giá cả chỉ đạo điều kiện của thương mại. Phúc lợi được tạo dựng khi tài nguyên được chuyển đổi từ những sử dụng có giá trị thấp đến sử dụng có giá trị cao. Thị trường tạo nên phúc lợi là chính chứ không phân phối lại phúc lợi. Một mô hình thị trường điển hình được thể hiện ở Hộp 2-1. 1 Công ty dịch vụ điện tử đầu tiên ra đời năm 1995. Jeffrey Preston Bezos là chủ của Công ty Amazon.com. Ban đầu, Công ty chỉ bán sách và băng nhạc. Chỉ một tháng, thị trường của Công ty đã mở rộng ra 50 bang của USA và sang 45 nước khác. Đến nay, Bezos đã có trong tay doanh số trên 11 tỷ USD. Bezos là đối thủ đáng gờm, có khả năng cạnh tranh chỉ số kinh doanh của người tỷ phú láng giềng Bill Gates. Nguồn: http://www.tintucvietnam.com/vieclam/2003/11/25877.ttvn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan