Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Giáo trình Đại cương tâm lý trị liệu...

Tài liệu Giáo trình Đại cương tâm lý trị liệu

.PDF
215
338
122

Mô tả:

Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 – 2015 (Đã cập nhật và điều chỉnh) GIÁO TRÌNH ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 1 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non GIÁO TRÌNH ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU GIỚI THIỆU Đ}y l{ bộ tài liệu chuyên môn dùng cho mục đích tham khảo, học tập, huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non (thuộc Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Tp.HCM), cũng đ~ đuợc dùng làm b{i đọc tham khảo trong khuôn khổ giảng dạy lý thuyết tại trường Đại học Văn hiến từ 2005 đến 2013. Tất cả các bài soạn ở đ}y đều đ~ được đăng trên website t}m lý Trị liệu kể từ năm 2007, sau này vẫn tiếp tục được lưu trữ trên trang thông tin của CLB Trăng Non (trangnonclb.blogspot.com). Biên soạn và chịu trách nhiệm về nội dung: 1. B|c sĩ NGUYỄN MINH TIẾN 2. Thạc sĩ T}m lý TRẦN THỊ THU VÂN THÔNG TIN TỔNG QUÁT 1. Tên môn học: Đại cương về Tâm lý Trị liệu 2. Mô tả môn học: Tâm lý trị liệu là môn khoa học ứng dụng các kiến thức và kỹ năng tâm lý học vào việc tiếp cận, quan sát, giao tiếp v{ giúp đỡ những người có khó khăn về tâm lý. 3. Mục tiêu, yêu cầu của môn học: a. Về kiến thức: Giúp sinh viên hiểu được những mục đích, yêu cầu và một số kiến thức cơ bản của chuyên ngành tâm lý trị liệu (TLTL). b. Về kỹ năng: Giúp sinh viên thực tập một số kỹ năng cơ bản trong TLTL như: thiết lập mối quan hệ trị liệu, sử dụng kỹ năng giao tiếp trong TLTL, thực tập sắm vai, áp dụng thiết kế quy trình trị liệu cụ thể trên một số trường hợp, tình huống giả định trong lớp học. c. Về thái độ: Giúp sinh viên hiểu được vai trò của chuyên ng{nh TLTL trong đời sống xã hội và vị thế của nhà trị liệu. Có ý thức, tác phong của một người chuyên làm công việc hỗ 2 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non trợ người khác. Thấu cảm và quan tâm hơn đến nhu cầu của người khác. Nâng cao khả năng tự hiểu và tự bộc lộ bản thân tốt hơn. d. Về lâu dài: Với quá trình học tập, thực h{nh v{ đ{o tạo nâng cao liên tục, môn học này có mục đích l}u d{i l{ đ{o tạo nên những chuyên viên làm tâm lý trị liệu. Nhà tâm lý trị liệu phải cùng chia sẻ trách nhiệm với chuyên viên của các ngành nghề kh|c như y học, tâm thần học, giáo dục học, giáo dục đặc biệt, công tác xã hội, pháp luật vv... 3. Số đơn vị học trình: 03 (3 x 15 = 45 tiết) 4. Phân bố thời gian: 45.00.00 (Trong các khóa huấn luyện ngo{i đại học, chương trình học có thêm phần bổ sung, tổng thời gian có được cơ cấu d{i hơn 45 tiết và có thể được điều chỉnh tùy theo nhu cầu cụ thể của người học) 5. Các kiến thức cơ bản cần học trước: tâm lý phát triển, tâm lý học nhân cách, tâm lý học h{nh vi, t}m lý gia đình, t}m lý giao tiếp, tham vấn tâm lý, tâm lý lâm sàng, tâm bệnh học, ... 6. Hình thức giảng dạy chính: Giảng lý thuyết kết hợp với các hình thức học tập chủ động của sinh viên như: thảo luận nhóm, trình bày ca lâm sàng, sắm vai, phân tích tình huống... 7. Tài liệu tham khảo:  Alan S. Gurman & Stanley B. Messer; Essential Psychotherapies – Theory and Practice; The Guilford Press, 1995.  Barbara F. Okun; Effective Helping; Brooks/Cole Publishing Company, Fourth Edition.  Nguyễn Công Khanh; Tâm lý trị liệu; NXB Đại Học Quốc Gia, 2000.  Nguyễn Khắc Viện; Tâm lý Lâm sàng Trẻ em Việt Nam; NXB Y Học, 2008.  Một số tài liệu khác ở trong v{ ngo{i nước.  3 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Chương 1: ĐỊNH NGHĨA TÂM LÝ TRỊ LIỆU LÀ GÌ 1. ĐỊNH NGHĨA Tâm lý trị liệu (psychotherapy) là một hệ thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân – những người được gọi l{ “th}n chủ”. Những vấn đề n{y thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống v{ đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương ph|p v{ kỹ thuật kh|c nhau; v{ chúng được thực hiện bởi những người gọi l{ “nh{ trị liệu” (những chuyên viên được đ{o tạo về tâm lý trị liệu). Các cuộc trị liệu thường bao gồm một (hoặc vài) nhà trị liệu và một (hoặc nhiều) thân chủ.Họ gặp nhau để bàn bạc, trao đổi, phát hiện ra những vấn đề gì mà thân chủ đang gặp phải và tìm kiếm cách thức n{o để giải quyết chúng. Do những đề t{i được bàn bạc trong các buổi trị liệu thường có tính chất nhạy cảm, nhà trị liệu phải có trách nhiệm (thường được pháp luật qui định) tôn trọng tính riêng tư v{ sự bảo mật cho thân chủ của mình. Tâm lý trị liệu l{ phương ph|p chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương ph|p sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người làm tâm lý trị liệu phải được đ{o tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà t}m lý, b|c sĩ t}m thần, nhà phân tâm, nhân viên xã hội, điều dưỡng viên tâm thần hoặc các chuyên viên kh|c đang l{m việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần. Trong quyển Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt xuất bản năm 2005 (Chủ biên: GS Ngô Gia Hy – NXB Y Học Tp.HCM) có định nghĩa về tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu ph|p) như sau: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc bằng c|c phương ph|p t}m lý. Trong t}m lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu.Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những h{nh vi đ~ định hình của người bệnh” (S|ch đ~ dẫn – tr.784). Tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó qu| mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của tất cả chúng ta. Theo Alexander (Individual Psychotherapy; 1964): Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng c|c phương thức tương t|c về mặt t}m lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu 4 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực gi|c hơn l{ sự hiểu biết có tính khoa học. Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có t}m trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hoảng sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể, bằng sự hiểu biết có tính trực giác, mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một th|i độ vững ch~i để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đ~ biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đ|ng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng c|ch n}ng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hoàn cảnh khách quan m{ anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta “mượn” công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc n{y, chúng ta đ~ thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một l{ n}ng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight). V{ Alexander đ~ định nghĩa t}m lý trị liệu “... không gì kh|c hơn ngo{i việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực gi|c m{ thay v{o đó l{ phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về t}m lý động học (psychodynamics)”. (Sđd. – tr.110). Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người th}n quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đ{o tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962). Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc l{m tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng th{nh hơn, chín chắn hơn, v{ giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. Có thể tóm tắt một số mục tiêu chính của tâm lý trị liệu như sau:      Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ Tìm kiếm giải ph|p cho c|c xung đột Gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ Giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn Giúp thân chủ củng cố một cái Tôi vững mạnh, toàn vẹn và an toàn James C. Coleman (Abnormal Psychology and Modern Life; 1950) nêu ra một số bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu như sau:     Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu Giải tỏa cảm xúc của thân chủ Tạo sự thấu hiểu nơi th}n chủ Giúp thân chủ định hình lại cảm xúc 5 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non  Kết thúc trị liệu Từ thời cổ đại, Hippocrates (ông tổ của y học phương T}y) đ~ từng kể ra ba loại công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó l{: c}y cỏ, con dao và lời nói. Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra c|c dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đ~ dần dần hình thành nên các chuyên ngành nội khoa và ngoại khoa trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương ph|p trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nh{ tiên phong trong lĩnh vực n{y (như Sigmund Freud chẳng hạn) gọi l{ “talking cure” nghĩa l{ sự chữa trị bệnh bằng lời nói – mà về sau trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu với rất nhiều trường ph|i v{ khuynh hướng khác nhau. Điều gì đ~ giúp tạo nên hiệu quả của phép chữa trị ấy? Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đ~ được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, t|c động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn l{ điều gây nhiều tranh c~i m~i cho đến hiện nay.Liệu rằng các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối loạn tâm trí? Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc c|c trường phái và xu hướng khác nhau. Nhưng có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu chúng ta xem xét t|c động của tâm lý trị liệu từ góc nhìn và vị thế của người bệnh hoặc thân chủ. Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, m{ “nhìn v{o” h{nh vi v{ th|i độ ứng xử của nhà trị liệu. Và vì thế việc ai là nhà trị liệu trở th{nh điều có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết n{o, phương ph|p n{o... Thực vậy, nhà trị liệu l{ người ở vào vị thế có ảnh hưởng lên trên thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem l{ “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó l{ sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch). Mặt kh|c, người ta khó có thể x|c định được hiệu quả của tâm lý trị liệu, m{ thay v{o đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Hay nói theo cách của Gregory Bateson: tâm lý trị liệu “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt mới”. Nh{ t}m lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến việc thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một c|ch hình tượng thì “nh{ trị liệu mang thân chủ đến một điểm mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975). 6 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Có một sự mặc định trong việc hiểu rằng: nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thì làm việc với những người bệnh, những người bị rối loạn chức năng của bộ máy tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counselor) thì làm công việc giúp đỡ những người đang gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu t}m lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng v{ phương pháp. Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn t}m lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại v{ đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”. Theo James Bugental, Ph.D. (www.psychotherapy.net): Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn suy nghĩ. Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh. Đó không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái. Đó không phải là sự chia sẻ giữa hai người bạn thân. Đó cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức. Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều bạn suy nghĩ. Đó l{ sự làm việc trên cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó làm cho bạn chú ý đến cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều bạn đang suy nghĩ đến và cách thức mà bạn thực hiện sự suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan t}m đến việc tìm kiếm những nguyên nh}n để giải thích những gì bạn đang l{m, nó quan t}m đến việc kh|m ph| ý nghĩa từ những việc mà bạn đang l{m. Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn nghĩ. Nó liên quan đến cách thức mà bạn sống với những tình cảm của mình. Nó liên quan đến những quan điểm bạn áp dụng vào trong những mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Nó liên quan đến những điều bạn muốn đạt đến trong đời và cách thức mà bạn cố gắng để đạt đến những mục đích ấy. Nó liên quan đến các nguồn lực giúp đỡ để bạn có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong con người bạn. Tâm lý trị liệu không liên quan đến điều bạn suy nghĩ l{ gì, nó liên quan đến cách thức mà bạn suy nghĩ... 2. MỐI QUAN HỆ HỖ TRỢ Bài viết này cung cấp một sự mô tả về thế nào là những mối quan hệ hỗ trợ, kèm theo đó l{ một sự nhấn mạnh đặc biệt vào khía cạnh giao tiếp xảy ra trong các mối quan hệ ấy. Khi có được một cái nhìn tổng quát về các khía cạnh của một mối quan hệ hỗ trợ, bạn sẽ gia tăng được khả năng hiểu biết cũng như thực h{nh được những kỹ năng của một người hỗ trợ. 2.1. Thế nào là một mối quan hệ hỗ trợ? 7 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Mục đích của việc thiết lập một mối quan hệ có tính hỗ trợ là nhằm đ|p ứng các nhu cầu của người cần được hỗ trợ, chứ không phải theo các nhu cầu của người hỗ trợ. Trong quá trình tham vấn hoặc trị liệu t}m lý, người hỗ trợ (helper) là nhà tham vấn hoặc nhà trị liệu; người cần được hỗ trợ (helpee) là thân chủ hoặc bệnh nhân. Mối quan hệ hỗ trợ l{ điều kiện cho phép mở rộng các giải pháp lựa chọn mà thân chủ có thể dựa v{o đó để đảm nhận trách nhiệm của họ và thực hiện được quyết định của chính họ. Người hỗ trợ không đứng ra giải quyết thay vấn đề của thân chủ, v{ cũng không tìm c|ch cam đoan điều gì đó để làm an lòng thân chủ của mình. Nhiệm vụ của một người hỗ trợ l{ giúp đỡ cho thân chủ để họ có thể tự giải quyết vấn đề của họ bằng cách khám phá, tìm hiểu v{ h{nh động. Mối quan hệ hỗ trợ không hàm ý phải làm một c|i gì đó để thân chủ cảm thấy tốt hơn; nó liên quan đến việc cả hai người (người hỗ trợ và thân chủ) cùng làm việc với nhau và tìm kiếm giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề (sau khi đ~ xem xét tất cả các lựa chọn có thể có), và nếu khả thi thì tiến hành thực hiện giải ph|p đó. Mối quan hệ hỗ trợ sẽ có lợi ích cho thân chủ nếu nó là một tiến trình học tập qua lại (mutual learning process) giữa người hỗ trợ và thân chủ. Hiệu quả của mối quan hệ này tùy thuộc vào một số yếu tố sau:  Thân chủ có thể hiểu được những cảm xúc và hành vi ứng xử của người hỗ trợ, và có kỹ năng thông tin cho người hỗ trợ về sự hiểu biết này;  Người hỗ trợ có khả năng x|c định và làm rõ các vấn đề của thân chủ;  Người hỗ trợ có khả năng |p dụng được những chiến lược hỗ trợ phù hợp để giúp gia tăng những khả năng của thân chủ trong việc tự khám phá và hiểu biết về bản thân họ, thực hiện quyết định và giải quyết vấn đề, tức là dẫn đến những h{nh động có tính sáng tạo về phần thân chủ. 2.2. Các loại quan hệ hỗ trợ Có ba thể loại người hỗ trợ kh|c nhau: người hỗ trợ chuyên nghiệp (professional helpers), người hỗ trợ bán chuyên nghiệp (paraprofessional helpers) v{ người hỗ trợ không chuyên nghiệp (non-professional helpers). Tương ứng theo đó, cũng có thể chia các mối quan hệ hỗ trợ thành ba loại khác nhau, mặc dù tất cả đều giống nhau về quan niệm và các chiến lược hỗ trợ được áp dụng: 1. Quan hệ hỗ trợ chuyên nghiệp: khi người hỗ trợ được huấn luyện sâu và chuyên biệt về t}m lý, h{nh vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ và có thể đ|p ứng với kỳ vọng cần được giúp đỡ của thân chủ. Loại quan hệ n{y được thấy trong mối quan hệ giữa thầy thuốc-bệnh nhân, nhà tham vấn-thân chủ, nhân viên xã hội-thân chủ, nhà trị liệu tâm lý-thân chủ... 8 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non 2. Quan hệ hỗ trợ bán chuyên nghiệp: khi người hỗ trợ nhận được sự huấn luyện chính thức nhưng ngắn hạn về c|c lĩnh vực nếu trên. Có thể gặp trong trường hợp quan hệ giữa nhân viên tuyển dụng-người xin việc, nhân viên tiếp cận đường phốthanh thiếu niên... 3. Quan hệ hỗ trợ không chuyên nghiệp: khi người hỗ trợ không nhận được sự huấn luyện chính thức về các kỹ năng hỗ trợ chuyên biệt và tiến trình hỗ trợ có thể chỉ xảy ra nhất thời trong mối quan hệ với thân chủ của họ. Ví dụ trường hợp của các nhân viên bán hàng, tiếp tân, tiếp viên hàng không, những người tình nguyện... Ở mỗi một trong số ba loại quan hệ nêu trên, ta còn có thể phân biệt hai hình thức quan hệ khác nhau như sau:  Quan hệ hỗ trợ chính thức (formal): trong đó cả hai phía người hỗ trợ và thân chủ đều x|c định rõ vai trò và vị trí của mình, có lý do rõ rệt để tiếp xúc và có thỏa thuận rõ r{ng qua đó th}n chủ có nhu cầu và kỳ vọng nhận được một sự giúp đỡ cụ thể.  Quan hệ hỗ trợ không chính thức (informal): là quan hệ hỗ trợ xuất hiện thứ phát sau một mối quan hệ chính thức kh|c đ~ có sẵn (vd, thủ trưởng-nhân viên, hiệu trưởng-giáo viên, thầy-trò...) hoặc sau một mối quan hệ thân quen từ trước (vd, bạn bè, h{ng xóm, b{ con, người th}n trong gia đình...). Loại quan hệ hỗ trợ n{y thường không có kết cấu chặt chẽ, thời gian không kéo dài và kỳ vọng nhận được sự giúp đỡ thì có giới hạn. 2.3. Quan hệ hỗ trợ được hình thành và phát triển như thế nào? Các quan hệ hỗ trợ bắt đầu bằng việc người hỗ trợ và thân chủ có một cuộc hẹn để tiếp xúc với nhau và nội dung làm việc tập trung vào những mối bận tâm của thân chủ. Điều này làm cho mối quan hệ hỗ trợ khác biệt với các mối quan hệ khác vì nó tập trung vào những điều quan tâm và các vấn đề của một phía đối t|c. Tuy nhiên, nó cũng chia sẻ chung một số những thuộc tính vốn có của các mối quan hệ thân thiện kh|c như: lòng tin, sự thấu cảm, chân thành, sự lưu t}m chăm sóc, tôn trọng, chấp nhận, trung thực, sự phó th|c v{ nương tựa lẫn nhau... Các thuộc tính n{y thường không xuất hiện ngay vào lúc khởi đầu mối quan hệ hỗ trợ, nhưng nó sẽ phát triển dần theo thời gian khi cả hai phía mỗi lúc một hiểu biết nhau hơn. Nếu lòng tin không được hình thành, các thuộc tính kh|c cũng không thể phát triển và mối quan hệ có thể đi dần đến sự bế tắc. Lòng tin được thiết lập trong một mối quan hệ khi một người nhận biết và tin rằng phía đối tác bên kia không dẫn dắt mình đi sai đường v{ không g}y phương hại cho mình. Người hỗ trợ và thân chủ luôn dự phần vào quá trình giao tiếp qua lại. Sự khác biệt chủ yếu giữa họ là ở chỗ, người hỗ trợ thì có các kỹ năng (tính chuyên môn) còn th}n chủ thì có những mối bận tâm (các vấn đề). Mức độ hòa hợp giữa hai hệ thống c|c th|i độ, nhu cầu, giá trị và niềm tin từ hai phía sẽ có ảnh hưởng khiến cho mối quan hệ ấy đi theo chiều hướng 9 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non trở nên tích cực hoặc tiêu cực. Khi có sự khác biệt lớn giữa hai bên về c|c th|i độ, nhu cầu, giá trị và niềm tin, thì chính những tính chất đặc trưng của một người hỗ trợ như đ|ng tin cậy, thấu cảm, chấp nhận, không phê phán... sẽ có thể giúp hạn chế khả năng ph|t sinh những hệ quả không hay trong mối quan hệ hỗ trợ. 2.4. Giao tiếp hiệu quả (effective communication) Bất kể mối quan hệ hỗ trợ được thiết lập như thế nào và có bản chất ra sao, bất kể các giá trị và niềm tin của những người tham gia mối quan hệ ấy là gì và bất kể xu hướng lý luận của người hỗ trợ ra sao, các kỹ năng nền tảng và tiên quyết trong mối quan hệ hỗ trợ ấy vẫn là một sự giao tiếp có tính thấu cảm và hiệu quả. Làm sao chúng ta có thể giúp đỡ được người khác nếu chúng ta không thể tìm hiểu những mối bận tâm của họ và xem xét chúng bằng chính những cảm xúc v{ suy nghĩ của chúng ta? Cả hai tiến trình n{y đều tùy thuộc vào khả năng giao tiếp. Giao tiếp có nghĩa l{ khả năng lắng nghe, chú ý, nhận biết v{ đ|p ứng lại thân chủ (cả bằng lời lẫn không dùng lời), theo một cách thức sao cho thân chủ biết được rằng họ đ~ được chú ý, được lắng nghe v{ được hiểu bởi người hỗ trợ. Nó có nghĩa l{ đ|p ứng (responding) chứ không phải phản ứng (reacting). Tất cả mọi người đều có thể học được việc này, bất kể trình độ học vấn và tính c|ch như thế nào. Đó l{ một lọai kỹ năng cần phải được thực hành liên tục như bao kỹ năng kh|c.V{ cũng không có gì ngạc nhiên khi những người được xem là hữu ích nhất trong công việc hoặc trong đời sống thường ng{y đều là những người có kỹ năng giao tiếp tốt. Các nghiên cứu cho thấy rằng những vấn đề về giao tiếp là nguồn gốc chính dẫn đến sự khó khăn trong quan hệ giữa người v{ người. Ví dụ, những vấn đề trong hôn nh}n v{ gia đình đều bắt nguồn từ sự hiểu lầm nhau và từ sự giao tiếp không hiệu quả, mà từ đó dẫn đến hụt hẫng và tức giận khi mà các kỳ vọng v{ ước muốn trong lòng không được thỏa mãn.Và một vấn đề quan trọng ở những người đi tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp là vì họ bị mất khả năng nhận biết đ}u l{ vấn đề của mình và mất khả năng thông tin cho người khác biết được những mối bận tâm của mình. Nhiều người tin rằng họ biết rõ những vấn đề của bản th}n l{ gì, nhưng lại gặp khó khăn khi phải nói ra thành lời những mối bận tâm của họ. Nhiều người khác lại có thể nói ra những mối bận t}m trong lòng, nhưng lại cần được giúp đỡ để phát hiện xem có vấn đề gì đang còn uẩn khúc bên trong. Lại có thêm những người khác thậm chí không nhận thấy rằng họ đang có vấn đề v{ đó l{ những người được gọi l{ “th}n chủ lưỡng lự”, do vậy họ cũng cần được đề nghị đi tìm sự giúp đỡ. Trong tất cả mọi trường hợp, sự giao tiếp tốt cả bằng lời (ngôn ngữ) lẫn không lời (phi ngôn ngữ) đều là yếu tố có tính thiết yếu trong tiến trình hỗ trợ. Vì thế, một điều hết sức cần thiết là chúng ta phải bám sát theo tiến trình giao tiếp ấy trong các mối quan hệ hỗ trợ - xem xét h{nh vi n{o có tính thúc đẩy giao tiếp v{ h{nh vi n{o ngăn trở việc giao tiếp. 10 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Hầu hết mọi người trong chúng ta đều đ~ từng có nhiều thời điểm mà bản thân mình cần đến sự giúp đỡ của người khác. Và trong kinh nghiệm sống của mình, chúng ta hẳn cũng có thể nhận ra được những hành vi nào của người hỗ trợ đ~ thúc đẩy hoặc ngăn trở chúng ta nhận được sự giúp đỡ. Hầu hết chúng ta hay để ý đến những hành vi thể hiện qua lời nói (verbal behavior), tuy nhiên những hành vi phi ngôn ngữ (non-verbal behavior) cũng có những t|c động rất quan trọng trong tiến trình giao tiếp. Những h{nh vi được xem là có hiệu quả nhất bao gồm: lắng nghe, chú ý, thấu cảm, khích lệ, n}ng đỡ, trung thực, lưu t}m, tôn trọng, chia sẻ, biểu cảm, chấp nhận và không phê phán. Thân chủ thấy mình được hỗ trợ bởi vì họ cảm thấy mình có giá trị như một con người và được chấp nhận bởi một người khác, vì thế họ có điều kiện để trở lại với bản ngã thực sự của chính họ và khám phá những mối bận tâm của họ. Tương tự, bạn cũng có thể dễ dàng nhận ra được những hành vi nào của người hỗ trợ là không hữu ích cho sự giao tiếp. Hai bảng liệt kê dưới đ}y sẽ cung cấp những chi tiết về những lọai h{nh vi n{o nên l{m v{ không nên l{m đối với một người hỗ trợ. Bảng 1: Những hành vi nên làm - - Ngôn ngữ Dùng từ dễ hiểu Phản hồi và làm rõ lời của thân chủ Diễn giải ý một cách phù hợp Tóm tắt nội dung giúp cho thân chủ Đ|p ứng với thông điệp ban đầu Dùng những t|c động củng cố bằng lời (à à, vâng, tôi hiểu...) Gọi thân chủ bằng tên, xưng hô phù hợp Cung cấp thông tin phù hợp Trả lời những câu hỏi về bản thân Thỉnh thoảng h{i hước để làm giảm căng thẳng Không phê phán Bổ sung những hiểu biết vào lời nói của thân chủ Dùng những đọan câu diễn giải một cách chừng mực để giúp thân chủ phản hồi một cách thật lòng những gì họ cảm thấy Phi ngôn ngữ Giọng nói đồng điệu với thân chủ Duy trì sự tiếp xúc qua ánh mắt Thỉnh thoảng gật đầu Khích lệ qua nét mặt Thỉnh thoảng mỉm cười 11 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non - Thỉnh thoảng ra điệu bộ bằng tay Giữ khoảng cách ở gần thân chủ Tốc độ nói trung bình Th}n người hơi nghiêng về phía trước hướng về thân chủ Bảng 2: Những hành vi không nên Ngôn ngữ - Cho lời khuyên Thuyết giảng Xuê xoa, “nói vuốt” Khiển trách Dỗ dành Thúc giục Cật vấn, tra hỏi (sử dụng nhiều câu hỏi tại sao?) Chỉ đạo, đòi hỏi Th|i độ kẻ cả, bề trên Diễn giải quá nhiều Dùng những từ thân chủ không hiểu Nói đi lạc chủ đề Duy lý trí Phân tích quá nhiều Nói về bản thân mình quá nhiều Phi ngôn ngữ - Không nhìn vào thân chủ Ngồi cách xa thân chủ hoặc xoay đi hướng khác Cười khẩy, nhếch mép Cau mày Vẻ mặt cau có Mím môi Vung vẩy ngón tay trỏ Cử chỉ huyên náo Ngáp Nhắm mắt Giọng điệu nói không vui Tốc độ nói quá chậm hoặc quá nhanh. Bản chất mối quan hệ hỗ trợ vừa tùy thuộc vào những tính chất đặc trưng của người hỗ trợ, vừa liên quan đến những tham số và thuộc tính của phía thân chủ. Có thể xem thêm chi tiết 12 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non trong những bài viết nói về những tính chất đặc trưng của một người hỗ trợ. Riêng về phần thân chủ, cũng có một số tính chất đặc trưng cần thiết để có thể tương hợp với những phương thức tiếp cận khác nhau của người hỗ trợ. Chẳng hạn trong tâm lý trị liệu, các phương ph|p trị liệu phân tâm hoặc thân chủ trọng t}m đều đòi hỏi ở thân chủ một khả năng sử dụng lời nói để giao tiếp nhiều hơn, trong khi liệu pháp hành vi ít yêu cầu thân chủ có nhiều khả năng n{y. Mặt kh|c, tính c|ch người hỗ trợ v{ phương thức tiếp cận cũng phải thay đổi để phù hợp với một số lọai thân chủ đặc biệt ví dụ trẻ em. Tất cả c|c phương thức tiếp cận đều đòi hỏi thân chủ một động cơ v{ một mức độ hợp tác nhất định để tham gia vào tiến trình hỗ trợ - Một số phương ph|p nhấn mạnh trách nhiệm nhiều hơn về phía người hỗ trợ. Người ta tin rằng, dù phương thức tiếp cận có thể khác nhau, nhưng việc thiết lập tốt mối quan hệ hỗ trợ sẽ có tác dụng thúc đẩy thân chủ trở nên cởi mở hơn, chấp nhận các tình huống dễ tổn thương để đạt đến sự tăng trưởng trên các bình diện cảm xúc, nhận thức và hành vi. TÓM LẠI Một mối quan hệ hỗ trợ luôn bao gồm sự giao tiếp - bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ - giữa người hỗ trợ và thân chủ. Giao tiếp giúp phát triển khả năng hợp tác giữa hai phía, từ đó cho phép thân chủ cả hai bên đi s}u kh|m ph| c|c khía cạnh trong đời sống của thân chủ như niềm tin, các giá trị, th|i độ, cảm xúc và hành vi. Mục đích của việc khám phá này là nhằm l{m tăng trưởng khả năng của thân chủ trong việc tự hiểu mình và hiểu người khác. Việc tự hiểu bản thân lại giúp gia tăng lòng tự tôn (self-esteem) nơi th}n chủ, gia tăng lòng khoan dung và chấp nhận người khác. Thân chủ sẽ có thêm khả năng quyết định, chấp nhận đi v{o một tiến trình h{nh động để đạt đến những mục tiêu trong cuộc sống và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về những kết quả từ những việc làm ấy. Có nhiều thể loại và nhiều mức độ quan hệ hỗ trợ, nhưng một sự giao tiếp tốt vẫn luôn là điều cơ bản cho mọi tiến trình hỗ trợ. Trong mối quan hệ hỗ trợ chính thức (có tính nghiệp vụ) luôn đòi hỏi phải có sự x|c định rõ vai trò và vị thế của hai đối t|c: người hỗ trợ và thân chủ. Cả những phát hiện từ nghiên cứu lẫn từ kinh nghiệm đều cho thấy rằng có nhiều tính chất đặc trưng của người hỗ trợ có thể ảnh hưởng tích cực lên trên mối quan hệ hỗ trợ. Nếu một người c{ng đi s}u tìm hiểu các khía cạnh trong đời sống của bản thân mình như xu hướng theo giới, theo văn hóa, cùng những niềm tin, giá trị, cảm xúc v{ h{nh vi, thì người đó c{ng có khả năng giao tiếp một cách chân thành, minh bạch và có tính thấu cảm, có khả năng hiểu mình và hiểu người khác, và có thể thông tin những hiểu biết n{y cho cho người mà mình giao tiếp. Điều đó cũng có nghĩa l{ người ấy có nhiều khả năng trở thành một người hỗ trợ một người hỗ trợ hiệu quả (effective helper). 13 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Khả năng tự nhận biết bản thân (self-awareness), sự trung thực, hài hòa, khả năng giao tiếp tốt, sự am hiểu về các hành vi của con người cùng những ảnh hưởng của các yếu tố về giới, về văn hóa v{ x~ hội lên trên h{nh vi con người ... tất cả đều giúp thúc đẩy, tăng cường hiệu quả của các mối quan hệ hỗ trợ. 14 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Chương 2: LIỆU PHÁP THÂN CHỦ TRỌNG TÂM 1. Định nghĩa và quá trình hình thành Liệu pháp Thân chủ trọng tâm (client-centered psychotherapy), hoặc theo cách gọi tên với nghĩa rộng hơn như hiện nay là Nhân vị trọng tâm (person-centered psychotherapy), là thuật ngữ được chọn để gọi tên cho một nhóm những phương ph|p trị liệu tâm lý dựa trên quan điểm lý thuyết về bản chất con người v{ c|c tương t|c x~ hội được phát triển bởi Carl Rogers vào hai thập niên 1940 v{ 1950 (Brodley; 1988). Rogers l{ người đầu tiên dùng tên gọi ấy để chỉ phương ph|p trị liệu của mình. Sau đó, nhiều tác giả kh|c đ~ ph|t triển thêm c|c “ph}n nh|nh” cho lọai liệu ph|p n{y; trong đó phải kể đến Eugene Gendlin với “liệu pháp kinh nghiệm” (experiential psychotherapy; 1979) v{ c|c t|c giả Leslie Greenberg, Laura Rice, Robert Eliott với “liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm” (process-eperiential psychotherapy; 1993). Lúc còn trẻ, C. Rogers đ~ d{nh phần lớn thời gian cho cuộc sống ở nông trại, nơi m{ ông đặc biệt quan t}m đến công việc nghiên cứu c|c qu| trình kích thích tăng trưởng cây trồng và làm các thực nghiệm về nông nghiệp. Công việc kích thích tăng trưởng và kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu đ~ giúp hình th{nh những th|i độ trong cuộc sống cũng như sau đó trở thành những đặc trưng cơ bản trong quan điểm làm việc của Rogers. Về sau, khi Rogers làm công việc của một chuyên viên tham vấn tại một trung t}m hướng dẫn trẻ em (child guidance clinic), ông đ~ tiếp xúc với c|c tư tưởng của Otto Rank – người đ~ có ảnh hưởng đến Rogers về một số quan điểm như: nhấn mạnh vào tiềm năng s|ng tạo của con người, việc trị liệu có mục đích nhắm đến sự chấp nhận bản ng~ như l{ một thực thể độc đ|o v{ có khả năng tự lực, lòng tin vào thân chủ như l{ nh}n vật trung tâm của tiến trình trị liệu, thân chủ là nhà trị liệu của chính mình, và việc trị liệu phải nhấn mạnh vào các trải nghiệm đang xảy ra trong hiện tại hơn l{ những gì đ~ xảy ra trong quá khứ... (Raskin & Rogers; 1989). Rogers cũng chịu ảnh hưởng bởi tr{o lưu tư tưởng của Roosevelt vào thập niên 1930, từ đó hình th{nh nên quan điểm lạc quan của Rogers về bản chất con người và niềm tin rằng con người cần phải được đối xử một cách tôn trọng và có lý lẽ ngay cả khi hành vi của họ không phải lúc n{o cũng hợp lý. Tuy nhiên, đối với Rogers, ảnh hưởng lớn nhất m{ ông có được là từ những trải nghiệm của những thân chủ m{ ông đ~ tiếp xúc và làm việc. Theo Rogers, chính thân chủ l{ người biết rõ điều đau khổ của họ l{ gì, hướng đi của họ sẽ về đ}u v{ vấn đề nào là cấp thiết. Vào thập niên 1940, Rogers gọi liệu pháp của mình l{ “liệu ph|p không hướng dẫn (nondirective therapy). Ông nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu l{ không hướng 15 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non dẫn thân chủ của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can thiệp. Vào thập niên 1950, Rogers bắt đầu nhấn mạnh đến “sự thấu cảm” (empathic understanding) và sang thập niên 1960, những tính cách của nhà trị liệu được Rogers nhấn mạnh l{ “sự h{i hòa” (congruence) v{ “tính trung thực” (genuineness). Về sau, Rogers áp dụng quan điểm của mình một cách sâu rộng hơn ra ngo{i c|c môi trường khác không thuộc tâm lý trị liệu và làm việc với c|c nhóm người không phải là thân chủ. Quan điểm thân chủ trọng tâm ảnh hưởng sang cả ngành giáo dục ở Hoa Kỳ, v{ điều đó khiến Rogers đặt lại tên cho phương ph|p của mình l{ “nh}n vị trọng t}m” (personcentred) để phản ảnh sự chuyển đổi đối tượng của phương ph|p không chỉ bao gồm những thân chủ trong tâm lý trị liệu mà còn nhắm đến bản chất con người và các mối tương t|c x~ hội nói chung. Liệu pháp thân chủ trọng tâm có thể áp dụng cho rất nhiều loại thân chủ/bệnh nhân ở nhiều lọai cơ sở trị liệu khác nhau. Carl Rogers khởi đầu việc trị liệu của mình như một nhà trị liệu theo định hướng phân tâm tại Trung t}m Hướng dẫn Trẻ em ở New York, nơi ông làm việc với những trẻ em thiệt thòi v{ gia đình của chúng. Sau đó, ông làm việc tại Trung t}m Tư vấn thuộc Đại học Chicago, phục vụ cho c|c đối tượng trong cộng đồng cũng như cho c|c sinh viên đại học. Những nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm có thể làm việc với thân chủ có đủ mọi loại vấn đề như trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách và cả các bệnh nhân loạn thần. Theo Smith (1982), Carl Rogers được xếp hạng là nhà tâm lý trị liệu có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất, vượt trên cả ảnh hưởng của Sigmund Freud, mặc dù trong thực tế chỉ có khoảng 9% trong tổng số các nhà trị liệu tự nhận mình theo trường phái thân chủ trọng tâm. Mặt khác, hầu hết các nhà trị liệu hiện nay có xu hướng đi theo quan điểm chiết trung (eclectic), và khỏang 1 phần 3 trong số này phối hợp liệu pháp thân chủ trọng tâm với các lọai liệu pháp nh}n văn kh|c theo nhiều định hướng khác nhau (Norcross & Prochaska; 1988). 2. Khái niệm về nhân cách - Nhân cách như một tiến trình Liệu nh}n c|ch con người có tính kiên định, vững chắc, khó thay đổi như cấu trúc của một tòa nhà, hay là nó có thể thay đổi như c|c giai điệu của một ca khúc? Học thuyết thân chủ trọng tâm cho rằng nh}n c|ch con người có tính chất giống như c|c giai điệu của một bản nhạc m{ người ta có thể “chơi” theo nhiều kiểu khác nhau, vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời mình. Điều đó có nghĩa l{: con người những “cấu trúc đang diễn tiến” (structure-in-process). Trường phái thân chủ trọng tâm không phủ nhận các cấu trúc, ví dụ các nét tính cách vẫn có thể tồn tại, v{ cũng không phủ nhận tính hằng định liên tục của nhân cách theo thời gian. Nhưng điểu quan trọng là các cấu trúc nhân cách vẫn liên tục thay đổi dù đôi lúc chúng có vẻ bất biến v{ không đổi. Có thể so sánh sự thay 16 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non đổi ấy với sự thay đổi trong hình thể của các cấu trúc trong tự nhiên như núi, sông, bờ biển... Trong khi nhìn bề ngoài các cấu trúc ấy không thay đổi nhưng c|c hiện tượng trong tự nhiên lại liên tục làm biến đổi chúng theo kiểu bồi đắp thêm hoặc hủy hoại, bào mòn... Caspi và cs. nhận thấy những người có tính cách lệ thuộc khi còn thơ bé vẫn có thể giữ lại đôi nét những tính cách ấy khi lớn lên nhưng có thể biểu hiện chúng dưới những hình thức trưởng th{nh hơn như nương tựa lẫn nhau và duy trì những mối quan hệ hỗ trợ. Bản thân các học thuyết của Freud hay Rogers cũng l{ những “cấu trúc đang diễn tiến”: c|c quan điểm của họ cũng liên tục thay đổi v{ tăng trưởng dù cả hai lý thuyết đều có những quan điểm nền tảng kh| kiên định. Có thể nói quan điểm xem nh}n c|ch như một tiến trình nhấn mạnh: các nét nhân cách (personality traits) không phải là những cấu trúc kiên định m{ được xem l{ c|c “chiến lược h{nh động” (action strategies) (Cantor; 1990) v{ nói chung, trường phái thân chủ trọng tâm xem con người như một tiến trình sống. Cuộc sống qua từng thời khắc (moment-by-moment living) Trong khi các tác giả của “Giả thuyết tái hiện” (reappearance hypothesis) cho rằng “con người học tập và bảo lưu những khái niệm, hình ảnh, ký ức, và rồi h{nh động, đơn giản chỉ là tái hoạt lại những nhu cầu v{ đòi hỏi, chính x|c như những bản sao của các sự kiện đ~ xảy ra trước đó” (Anderson, 1974); trường phái thân chủ trọng tâm cho rằng thực tế xảy ra trái ngược lại: “H{nh vi của các loài sinh vật, mỗi c|i đều xảy ra lần đầu tiên... và không có gì rõ ràng cho thấy rằng có một h{nh vi n{o đó được lập lại vào lần thứ hai. Chúng ta liên tục làm nên những điều mới mẻ... Khi xem xét kỹ, chúng ta thấy những hành vi có vẻ như được lập lại thực sự lại thể hiện những sự khác lạ dưới một dạng thức n{o đó... Bạn không bao giờ chải răng hai lần hoàn toàn giống nhau.” (Epstein, 1991). 2.1. Tiềm năng học tập (Learning potential) Để có chức năng sống đầy đủ, con người phải học tập liên tục qua từng giây phút một. Con người tiếp nhận các phản hồi từ môi trường sống, rồi điều chỉnh ứng xử của mình khi tương tác với những người kh|c xung quanh. Con người sống tốt nhất khi họ h{nh động một cách thông minh, và liệu pháp thân chủ trọng tâm luôn nhấn mạnh đến việc tăng cường khả năng suy nghĩ rõ r{ng v{ thông minh của thân chủ (Van Balen, 1990; Zimring, 1990). Việc học hỏi thường xuyên sẽ giúp bổ sung thêm các chi tiết và làm mới lại những niềm tin, các khái niệm, c|c sơ cấu, các cấu trúc và vận hành các nét nhân cách. Theo thời gian sự học tập giúp cho sự tiến triển dần dần các thuộc tính v{, đến một lúc n{o đó, dẫn đến sự biến đổi đang kể c|c đặc trưng của một con người. 2.2. Tiềm năng tăng trưởng (Growth potential) 17 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non Carl Rogers lúc đầu nói đến “khuynh hướng hiện thực hóa” (actualizing tendency) ở các lòai sinh vật và về sau ông mở rộng ý tưởng này bằng việc cho rằng: khuynh hướng hiện thực hóa chỉ là hình thức cá biệt của một khuynh hướng được định hình rộng lớn hơn của cả vũ trụ, được tìm thấy ở ở những sinh vật lẫn những vật thể vô tri, đó khuynh hướng nhắm đạt đến một trật tự tốt hơn, phức tạp hơn v{ có tương quan gắn kết hơn. Tiến trình này lại bao gồm hai tiến trình nhỏ hơn là thống hợp (integration) và biệt hóa (differentiation). Ở mức độ cá nhân một con người, khuynh hướng hiện thực hóa nhắm đến phát triển cá nh}n đó bằng cách tạo lập một cấu trúc sống vừa thống hợp hơn vừa biệt hóa hơn. Điều nhấn mạnh ở đ}y không phải là việc con người về cơ bản là tốt hay xấu, m{ l{ con người về cơ bản có một “tiềm năng thay đổi” (Shlien & Levant, 1984). Nghiên cứu trên những trẻ em lớn lên và sống sót trong những hòan cảnh sống bất lợi cho thấy sự phát triển tâm lý của con người có những khả năng tự bảo vệ và tự điều chỉnh rất cao (Masten, Best, Garmazy, 1990). 2.3. Khả năng sáng tạo (creativity) Để sống đầy đủ, con người phải sáng tạo trong cuộc sống hằng ngày, bởi mỗi tình huống khi xảy ra đều có sự khác biệt đôi chút so với trước đó, v{ hiện tại luôn đặt ra những thách thức cho sự vận dụng một cách sáng tạo những gì đ~ học vào những hoàn cảnh sống mới. Trong quá trình sống, con người thường xuyên khám phá và phát hiện những cách thức mới để tồn tại và ứng xử, dù rằng phần nhiều các cách thức mới này chỉ thể hiện những điều chỉnh sáng tạo tương đối nhỏ. 2.4. Khả năng định hướng tương lai (future orientation) Một người luôn khám phá và học hỏi sẽ có thể tìm được sự định hướng cho tương lai v{ những khả năng còn để ngỏ của nó. Con người là sinh vật biết nhìn đến phía trước do những hành vi của con người được hướng dẫn bởi những gì mà họ tưởng tượng sẽ xảy ra trong những thời khắc sau đó hơn l{ bởi những gì mà họ thấy được trong hiện tại (Markus & Nurius, 1987). Chính bằng cách tiên liệu được những gì sẽ xảy đến, bằng cách nào việc ấy xảy ra và bản thân mình có khả năng gì để đạt đến việc ấy, m{ con người x|c định được hành vi của mình. Shlien (1988) đ~ khẳng định rằng: “Tương lai quan trọng hơn qu| khứ trong việc x|c định hiện tại”. Qu| khứ ảnh hưởng đến chúng ta vì chúng ta sử dụng kinh nghiệm từ quá khứ để tiên liệu cho tương lai, chứ không phải vì quá khứ “kết dây nối” v{o cuộc sống chúng ta rồi m|y móc điều khiển hành vi của chúng ta. 3. Tương tác (interaction) Con người có bản chất tương t|c với nhau. Con người luôn luôn l{ “con-người-trong-bốicảnh”. H{nh vi của một người luôn xuất phát cả từ nhân cách của người ấy lẫn từ trong những mối quan hệ trong cuộc sống của người ấy. Môi trường sống của một con người bao 18 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non gồm gia đình v{ c|c quan hệ liên cá nh}n kh|c như h{ng xóm, c|c mạng lưới hỗ trợ xã hội, các thông số và giá trị về văn hóa. Ngòai ra còn có c|c quan hệ trong nghề nghiệp, kinh tế, tôn giáo, chính trị... Có một giao diện động và liên tục giữa cái ngã và các tình huống bên ngòai. Chúng ta tự “định cấu hình” cho bản th}n để phần n{o đó đ|p ứng lại với những gì được cho là quan trọng v{ đang hiện diện trong thời khắc hiện tại. Vì thế, một “bộ mặt” n{o đó của chúng ta sẽ có thể xuất hiện trong tình huống này và một “bộ mặt” kh|c lại xuất hiện trong một tình huống kh|c. Đ}y l{ quan điểm về “trường” (field) trong h{nh vi con người và cũng tương thích với quan điểm hệ thống. Cái ngã trong bối cảnh, Tính tự chủ và Chủ nghĩa cá nhân (Self-in-context, Autonomy & Individualization) Đối với Carl Rogers, việc đạt đến sự tự chủ là một mục đích rất quan trọng trong sự phát triển của con người, cũng như đối với hầu hết các học thuyết về nhân cách ở phương T}y. Rogers cho rằng một con người có chức năng sống đầy đủ l{ người có khả năng tự kiểm so|t v{ h{nh động dựa trên các giá trị mà bản th}n đ~ lựa chọn chứ không cứng nhắc tuân thủ theo các uy lực từ bên ngoài. Tuy nhiên, một số các tác giả thuộc trường phái thân chủ trọng t}m ng{y nay đ~ phê ph|n việc Rogers đ~ qu| nhấn mạnh đến sự tự chủ và chủ nghĩa c| nh}n, và cả kiểu tư duy như thế ở phương T}y nói chung (Holstock, 1990; O’Hara, 1992). Họ cho rằng các giá trị này có tính đặc hiệu của nền văn hóa phương T}y, thậm chí còn đặc trưng nhiều cho nam giới, và các tác giả này nhấn mạnh hơn đến một khái niệm khác (cũng rất phương T}y) đó l{ kh|i niệm “đồng phụ thuộc” (codependency) (Bishop, 1992). Những tác giả này cho rằng trong một số nền văn hóa kh|c, đường biên giới ph}n định cái ngã của mỗi người không chỉ dừng lại ở lớp da của người đó, m{ còn có thể trải rộng sang cả gia đình v{ những tập thể rộng lớn hơn. Họ nhấn mạnh đến những đường biên giới uyển chuyển hơn l{ những đường biên giới cứng nhắc của cái ngã theo kiểu tâm lý học phương T}y. Những yếu tố x|c định hành vi của con người nằm trong một “trường” gồm nhiều lực t|c động, bao gồm cả c|i ng~, điều đó tr|i ngược với tâm lý học phương T}y trong đó những yếu tố nguyên nh}n được xem là định vị bên trong cá nhân mỗi người. O’Hara (1992) đưa ra kh|i niệm về một “c|i-ngã-trong-bối-cảnh”, qua đó ông nhấn mạnh đến bản chất của con người là có tính liên kết lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Barrett Lennard (1993) cũng cho rằng “c|i ng~ của một cá nhân chỉ là một trong những hình thức thể hiện của đời sống loài người; các hình thức khác có thể kể ra bao gồm các mối quan hệ, gia đình v{ cộng đồng xã hội”. O’Hara v{ Wood (1993) cho rằng “C| nh}n không mất đi bản sắc của mình khi ở bên trong tập thể. Họ chỉ l{m cho tương hợp giữa cái Tôi và cái Chúng Ta”. Arthur Bohart (1995) tin rằng yếu tố chính vận hành xuyên suốt trong khái niệm về tính tự chủ của Rogers chính là một sự cảm nhận về tính hiệu quả (agency): Một thứ cảm nhận khi 19 Tài liệu Huấn luyện của Câu lạc bộ Trăng Non con người đương đầu với các thách thức. Tính tự chủ hay tự lập không hàm ý là một cảm nhận về sự tự thỏa mãn, mà quan trọng hơn đó l{ cảm nhận về khả năng v{ tính hiệu quả của bản thân mình. Bởi vì sự thử thách luôn là phần cố hữu hiện diện bất cứ khi nào con người làm một việc gì đó trong cuộc sống (nghề nghiệp, quan hệ, chăm sóc con c|i...). Cho nên khi có được cảm nhận về khả năng của bản thân, con người sẽ có thể đối mặt v{ đương đầu tốt với các thách thức, v{ đó cũng chính l{ nền tảng của chức năng sống hiệu quả (Dweck & Leggert, 1988). Một định hướng nhắm đến việc đương đầu với các thử thách sẽ dẫn chúng ta tập trung vào tiến trình thực hiện một công việc hơn l{ chú trọng đến kết quả của nó, và thất bại được xem là loại thông tin được học tập để rút kinh nghiệm hơn l{ thông tin cho thấy sự kém hiệu quả của một ai đó. Thực tế khác nhau giữa các nền văn hóa dẫn đến các khái niệm khác nhau về cái ngã. Nhà tâm lý trị liệu phải tôn trọng tiềm năng tăng trưởng sẵn có bên trong thế giới nhận thức của từng c| nh}n con người hơn l{ sử dụng những phương thức “kh|ch quan”, “đúng đắn” để áp dụng đối với họ. 4. Giao tiếp Thúc đẩy sự giao tiếp giữa những cá nhân có thế giới nhận thức khác nhau (ví dụ, giữa thân chủ và nhà trị liệu) l{ điều quan trọng hơn việc phán xét về quan điểm ai đúng, ai sai. Việc cởi mở chia sẻ những cảm xúc v{ quan điểm theo cách thức tôn trọng lẫn nhau, trong một bầu không khí có tính chấp nhận sẽ thúc đẩy mối quan hệ hướng đến sự hòa hợp giữa những đối t|c v{ huy động được “sự thông thái của cả hai bên hoặc của cả nhóm”. Đ}y cũng l{ điều quan trọng cho các cặp vợ chồng, c|c gia đình, cơ quan, giữa các dân tộc và các quốc gia. 4.1. Mối quan hệ hài hòa giữa hai cái ngã Đó l{ một tiến trình giao tiếp m{ trong đó tất cả các khía cạnh của c|i ng~ được tôn trọng, được lắng nghe đều quan trọng ngang nhau từ hai phía đối t|c. Khi được lắng nghe một cách thân hữu, cởi mở, tất cả những khía cạnh của cái ngã như ý nghĩ, cảm xúc và những trải nghiệm (bao gồm cả những “lời nói bên trong” được nhập tâm từ cha mẹ và xã hội), thì khả năng bên trong của mỗi người sẽ vận h{nh hướng đến sự tổng hợp đầy sáng tạo. Tất cả những “tiếng nói bên trong” cũng có thể tham gia góp phần vào. Sự hài hòa (congruence) chính thực là một tiến trình nội tại (Lietaer, 1991). Sự hài hòa không luôn luôn có nghĩa l{ sự hài hòa trong nội tâm (inner harmony). Một cảm nhận về sự hài hòa nội tâm có thể xuất hiện rồi mất đi. Tuy nhiên, nếu một người n{o đó có tính h{i hòa – cởi mở và chấp nhận tất cả những “tiếng nói bên trong” – thì tiến trình tổng hợp một cách sáng tạo sẽ vận h{nh đi tới. 4.2. Trải nghiệm, Cảm xúc và Tình cảm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan