Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm ở trường thpt ...

Tài liệu Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm ở trường thpt

.DOCX
27
1
108

Mô tả:

MỤC LỤC Mục lục……………………………………………………………….Trang 1 Danh mục chữ viết tắt……………………………………………….Trang 2 A - Đặt vấn đề.................................................................................Trang 3 I. Lý do chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm.........................................Trang 3 II. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm………………………………Trang 4 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………Trang 4 IV. Phương pháp nghiên cứu………………………………………......Trang 5 V. Thời gian nghiên cứu…………………………………………...…..Trang 5 B - NỘI DUNG……………………………………………………….Trang 6 I. Cơ sở lí luận……………………………………………………..…...Trang 6 1/ Thế nào là kỹ năng sống………………………………………….....Trang 6 2/ Thế nào là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh…………………......Trang 7 3/ Vì sao cần phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh…………..……Trang 7 4/ Vai trò và nhiệm vụ của GVCN trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THPT …………………………………………………..………Trang 8 II.Cơ sở thực tiễn……………………………………………………..Trang 10 1/ Đặc điểm chung của trường THPT Lê Quý Đôn………………......Trang 10 2/ Thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở trường THPT Lê Quý Đôn…..Trang 10 III. Biện pháp thực hiện………………………………………………Trang 11 1/ Các nhóm kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh THPT………...Trang 11 2/ Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT………...Trang 12 a/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm...Trang 12 b/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua hoạt động NGLL………..Trang 16 c/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bằng cách tổ chức các hoạt động văn hóa và thể dục thể thao.........................................................................Trang 20 IV. Kết quả đạt được………………………………………………….Trang 22 C - KẾT LUẬN……………………………………………………..Trang 24 D – TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..Trang 27 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT. STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Chữ viết tắt THPT GVCN NGLL THCS TDTT GVBM GDCD BGH CMHS Chữ viết đầy đủ Trung học phổ thông Giáo viên chủ nhiệm Ngoài giờ lên lớp Trung học cơ sở Thể dục thể thao Giáo viên bộ môn Giáo dục công dân Ban giám hiệu Cha mẹ học sinh ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT A – ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: 2 Hiện nay, vấn đề đạo đức của một số bộ phận học sinh, thanh thiếu niên đang trên đà xuống cấp ở mức báo động, theo thống kê của cơ quan công an thì số lượng đối tượng thiếu niên bổ học, sống lang thang, bụi đời đã lên đến gần 20.000 ( năm 2010 ) thậm chí những đối tượng này thông qua Internetkết thành các băng nhóm sử dụng ma túy, gây nhiều vụ đánh nha, cướp tài sản… ngày càng có xu hướng gia tăng, điển hình như vụ một học sinh lớp 7 đánh thầy giáo ngất ngay tại lớp (tỉnh An Giang), hay vụ nữ sinh lớp 12 Trường THPT Diễn Châu 2 (Nghệ An) cũng đã bất ngờ chuyển dạ và sinh con khi đang trên lớp học trong khi cả gia đình, nhà trường và bạn bè không ai biết nữ sinh này có thai, dư luận chưa hết bàng hoàng thì bất ngờ lại xảy ra cái chết bất ngờ của ba nữ sinh lớp 7 Trường THCS Phan Chu Trinh (Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông), cả ba em đều là những học sinh khá giỏi, ngoan ngoãn, chuyên cần trong học tập, có trách nhiệm với gia đình nhưng vì bố say xỉn, hay bị bố la mắng…Điều này cho thấy các em học sinh ngày nay đang thiếu hụt rất nhiều những kĩ năng sống. Đạo đức, lối sống của học sinh hay sinh viên đều được hình thành từ môi trường gia đình - nhà trường - xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang phát triển mạnh mẽ kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của học sinh cộng với sự phối hợp quản lý của các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo cũng như các em học sinh thiếu sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục của gia đình. Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường hiện nay cũng chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu là nặng về dạy “chữ” nhẹ về dạy “người”: một số nơi khi học sinh vi phạm như đánh nhau là xử lí kỉ luật mà chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Trong nhà trường vẫn còn có thầy, cô giáo vi phạm chuẩn mực đạo đức, chưa thực sự làm gương để học sinh noi theo.Về phía học sinh, nhiều em còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt, kĩ năng sống còn kém, chưa biết 3 ứng xử với lối sống có văn hóa, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chưa phân biệt được điều hay lẽ phải và các sai phạm của mình, chủ yếu là đua đòi, phạm tội một cách hồn nhiên. Ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống còn buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có điều kiện kinh tế, dù nhận thức được nhưng do thiếu ý chí phấn đấu vươn lên nên tự buông thả mình và dẫn tới vi phạm pháp luật. Với thực tiễn như trên, bản thân tôi nhận thấy rằng việc giáo dục, giúp cho học sinh ở trường THPT Lê Quý Đôn nói riêng và học sinh trường phổ thông nói chung là điều hết sức cấp thiết. Và tôi cũng mạnh dạn chọn vấn đề “giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông qua công tác chủ nhiệm” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. II. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm: 1/ Tổng kết kiến thức, kinh nghiệm, những suy nghĩ của bản thân về vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để cùng trao đổi với đồng nghiệp đang thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở trường THPT Lê Quý Đôn nói riêng và các trường phổ thông nói chung. Thông qua đó đề xuất một vài biện pháp góp phần thiết thực vào công tác giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. 2/ Việc viết sáng kiến kinh tôi coi đây là việc làm rèn luyện cho mình sự năng động, sáng tạo và luôn học tập không ngừng để là tấm gương cho học sinh noi theo, để góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng đất nước, không để tụt hậu trong thời đại mới. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1/ Đối tượng nghiên cứu: - Các tổ chuyên môn, Đoàn thanh niên, Ban nề nếp, đội ngũ giáo viên, công nhân viên. - Học sinh trường THPT Lê Quý Đôn nói chung, học sinh các lớp nói riêng là: Lớp 12B3 năm học 2012-2013 và lớp 12B3 năm học 2014 – 2015. 2/ Phạm vi nghiên cứu: 4 Do tuổi đời và tuổi nghề chưa nhiều và khối lượng công việc của mỗi người giáo viên đặc biệt GVCN là không ít nên ở sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ tập trung nghiên cứu vào xây dựng các biện pháp để giáo dục các kĩ năng sống cơ bản nhất cho học sinh THPT phổ thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, họat động giáo dục NGLL và các hoạt động văn nghệ - TDTT. IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập các lí luận về các kĩ năng sỗng cơ bản của học sinh phổ thông và các biện pháp để giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh từ các bài báo giáo dục, dân trí, tập san, mạng Internet… 2. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập và rèn luyện của học sinh 3. Phương pháp điều tra: Trao đổi, nói chuyện với học sinh, GVBM, CMHS, hàng xóm nơi ở của học sinh. 4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: + Tham khảo kinh nghiệm chủ nhiệm của các trường bạn. + Tham khảo các bản báo cáo tổng kết của nhà trường 5. Phương pháp thực nghiệm: Áp dụng vào lớp 12B3 năm học 2014 – 2015 6. Phương pháp so sánh : So sánh giữa lớp không áp sáng kiến kinh nghiệm (12B3 năm học 2012 – 2013) với lớp áp sáng kiến kinh nghiệm (12B3 năm học 2014 – 2015) V. Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2012 – 2013 đến năm 2014 – 2015. B – NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: 1/ Thế nào là kỹ năng sống? 5 Hiện nay giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng quan tâm đưa vào chương trình giảng dạy cho học sinh trong các trường học. Bởi việc giáo dục kĩ năng sống có vai trò rất to lớn: kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Có thể nói rằng kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân là vì kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp cho con người biến kiến thức thành thái độ - hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp, họ thường có thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình. Ngược lại người thiếu kĩ năng sống thường sẽ bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Vậy kĩ năng sống là gì? Có rất nhiều cách để định nghĩa về kĩ năng sống mà cho đến ngày nay vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng nhất, cụ thể như: Theo Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO): kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày – đó là những kĩ năng cơ bản như kĩ năng đọc, viết, làm tính, giao tiếp ứng xử, giới thiệu bản thân, thuyết trình trước đám đông, làm việc nhóm, khám phá những thay đổi của bản thân, tư duy hiệu quả… Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khoẻ mạnh - đó là những kĩ năng mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Theo PGS. TS Nguyễn Thanh Bình – Viện NCSP – Trường ĐHSP Hà Nội: kĩ năng sống là năng lực, khả năng tâm lý - xã hội của con người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống một cách tích cực và giao tiếp có hiệu quả. 6 Mở rộng khái niệm: kĩ năng sống không phải là năng lực cá nhân bất biến trong mọi thời đại, mà là những năng lực thích nghi cho mỗi thời đại mà cá nhân đó sống. Do đó, kĩ năng sống vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính dân tộc – quốc gia, vừa mang tính xã hội – toàn cầu. Từ những khái niệm trên, ta có thể hiểu rằng kĩ năng sống trong phạm vi lứa tuổi học sinh thường gắn liền với phạm trù kiến thức, kĩ năng và thái độ mà học sinh được rèn luyện trong quá trình giáo dục. 2/ Thế nào là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh? Mục tiêu cơ bản của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là làm thay đổi hành vi của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững. Giáo dục kĩ năng sống chính là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kĩ năng thích hợp với thực tiễn xã hội ở mỗi thời kì. 3/ Vì sao cần phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh? Chúng ta đều biết: cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó khăn, những mất mát đau thương,….đòi hỏi con người cần phải vượt qua. Vậy con người vượt qua bằng cách nào? Con người cần có những kĩ năng nhất định để vượt qua, tồn tại và phát triển. Là những người làm công tác giáo dục, luôn đồng hành với quá trình phát triển của học sinh chúng ta càng thấy rõ sự cần thiết giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi lẽ, giáo dục kĩ năng sống chính là định hướng cho các em con đường sống tích cực trong xã hội hiện đại với ba mối quan hệ cơ bản: con người - chính mình; con người - tự nhiên; con người - các mối quan hệ xã hội. Có được kĩ năng sống các em sẽ biết chuyển dịch kiến thức – “cái mình biết” và thái độ, giá trị - “cái mình nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”…thành những hành động cụ thể trong thực tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực và mang tính chất xây dựng? Tất cả đều nhằm giúp các em thích ứng được với sự phát triển 7 nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ và vững vàng, tự tin bước tới tương lai. Cụ thể là: - Trong quan hệ với chính mình: giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh biết gieo những kiến thức vào thực tế để gặt hái những hành động cụ thể và biến hành động thành thói quen, rồi lại gieo những thói quen tích cực để tạo ra số phận cho mình. - Trong quan hệ với gia đình: giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh biết kính trọng ông bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau, động viên, an ủi nhau khi gia quyến có chuyện chẳng lành… - Trong quan hệ với xã hội: giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh biết cách ứng xử thân thiện với môi trường tự nhiên, với cộng đồng như: có ý thức giữ gìn trật tự an toàn giao thông; giữ vệ sinh đường làng, ngõ phố; bảo vệ môi trường thiên nhiên…Từ đó, góp phần làm cho môi trường sống trong sạch, lành mạnh, bớt đi những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu hiểu biết của chính con người gây nên. Với những lí do nêu trên, tôi thiết nghĩ việc giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh nói chung và đối với giáo dục kĩ năng sống nói riêng ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết cần tiến hành triển khai sâu rộng nhanh chóng, dù là muộn nhưng có còn hơn không. 4/ Vai trò và nhiệm vụ của GVCN trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường phổ thông. Giáo dục kĩ năng sống là một trong năm nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” giai đoạn 2008 – 2013 do Bộ Giáo dục phát động theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì nhà trường có vai trò chủ đạo còn GVCN được coi là một khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến mức độ thành công của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường.GVCN lớp là người hiểu các em học sinh nhất, gần gũi với các em nhất trong thời gian các em học tập ở trường nên các em dễ chia sẽ với thầy cô 8 chủ nhiệm về những khó khăn mà các em gặp phải hơn là GVBM. Từ đó GVCN dễ dàng tác động giáo dục đến các em cũng như giúp các em điều chỉnh hành vi chưa đúng theo hướng tích cực, có lợi nhất. Bên cạnh đó, GVCN lớp còn là người được nhà trường giao trách nhiệm trực tiếp tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt tập thể……. Theo tôi muốn có thành công trong công tác chủ nhiệm của mình thì đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm đó cần có “ tâm” và có “tài”. Đây là yếu tố tiên quyết và không thể thiếu.“Tâm” của giáo viên chủ nhiệm là thể hiện ở chỗ: luôn coi mỗi học sinh là một người thân yêu của mình, khi đó chúng ta sẽ sẵn sàng giúp đỡ học sinh không tính toán, không sợ phiền phức hay tốn công sức và thời gian.“Tài” của người giáo viên chủ nhiệm là ở chỗ: luôn mềm dẻo, không cứng nhắc, rập khuân trong giáo dục học sinh. Ngoài ra, GVCN còn phải biết căn cứ vào kế hoạch chung của Sở giáo dục, của BGH nhà trường, đặc điểm của lớp, của địa phương để xây dựng cho mình một kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học trong công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp mình chủ nhiệm đồng thời biến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thành một thói quen, kĩ năng của mình trong suốt quá trình làm công tác chủ nhiệm. Mỗi giáo viên nói chung, GVCN nói riêng đều phải là những tấm gương cho học sinh noi theo ở mọi lĩnh vực như lối sống, đạo đức, tác phong, ứng xử, rèn luyện trong chuyên môn….. nghĩa là phải biết “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách” khi đó lời nói của chúng ta với học sinh mới thực sự có hiệu quả cao nếu không có thể dẫn đên hậu quả hoàn toàn ngược lại. Muốn làm một giáo viên chủ nhiệm thành công cũng cần phải có kinh nghiệm, không ngừng học hỏi, trao dồi kinh nghiệm để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. II. Cơ sở thực tiễn: 1/ Đặc điểm chung của trường THPT Lê Quý Đôn: 9 - Trường THPT Lê Quý Đôn nơi tôi công tác được thành lập từ năm 2007, cách xa trung tâm thị xã gần 60 km, quy mô còn nhỏ với 12 /13 lớp học hàng năm. Chất lượng đầu vào của học sinh thấp không như mong muốn (xét tuyển hồ sơ không thi tuyển). - Một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong trường, hội cha mẹ học sinh, ban ngành đoàn thể địa phương chưa có sự nhận thức đúng mức về vị trí vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh mà coi đó là nhiệm vụ của riêng BGH nhà trường. 2/ Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THPT Lê Quý Đôn: a/ Giáo viên: Giáo viên bộ môn GDCD, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, hoạt động giáo dục NGLL…. đã được tập huấn các địa chỉ, được BGH yêu cầu trong giảng dạy phải có sự tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tuy nhiên do các nguyên nhân nào đó mà giáo viên thực hiện vẫn còn rất hạn chế, chưa thực sự hiệu quả. b/ Trong các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục NGLL, sinh hoạt dưới cờ: BGH cũng đã có chỉ đạo lồng ghép để giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh nhưng thực hiện còn ít, chưa trải đều trong năm, không thường xuyên và hiệu quả đem lại cũng chưa được như mong muốn. c/ Việc tổ chức các cuộc thi hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao…: Hàng năm trường có chỉ đạo Đoàn Thanh niên lên kế hoạch và tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo kế hoạch của ngành và tổ chức các hội thi cắm hoa, văn nghệ, TDTT nhưng các hoạt động này quy mô nhỏ, chất lượng chưa cao, trong đó mục tiêu rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh chú trọng thiếu đầy đủ. III. Biện pháp thực hiện: 1/ Các nhóm kĩ năng sống cơ bản cần giáo dục cho học sinh phổ thông: 10 Năm 1996 UNESCO đã đưa ra một báo cáo về giáo dục cho thế kỉ 21 dựa trên bốn trụ cột: Học để biết (Learning to know); Học để làm (Learning to do); Học để chung sống (Learning to live together); Học để tự khẳng định mình (learning to be). Bốn trụ cột của sự học do UNESCO đề xuất cũng tương ứng với bốn nhóm kĩ năng sống cơ bản cần giáo dục ở lứa tuổi học sinh đó là: Nhóm kĩ năng nhận thức; nhóm kĩ năng thực tiễn; nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng cá nhân. a/ Học để biết – kĩ năng sống liên quan đến nhận thức. Học để biết vừa là phương tiện vừa là mục đích của cuộc sống. Là phương tiện khi người học thực hiện việc học để hiểu thế giới xung quanh mình, để sống một cuộc sống đáng được tôn trọng, để phát triển các kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp với người khác. Là mục đích khi việc học xuất phát từ lòng ham thích khám phá kiến thức, kiến thức càng rộng thì người học càng hiểu biết nhiều khía cạnh của cuộc sống. Khi học tập có mục đích như vậy sẽ khuyến khích trí tò mò trí tuệ, mài giũa khả năng phê phán và thúc đẩy người học phát triển các phán xét độc lập của cá nhân. Như vậy học để biết là học thế nào để làm chủ được các công cụ học tập, là học cách học chứ không phải là thuần túy tiếp thu kiến thức, học để phát triển sự tập trung, rèn luyện kỹ năng ghi nhớ và nâng cao khả năng tư duy. b/ Học để làm – kĩ năng sống liên quan đến thực tiễn. Học để làm liên quan đến thế giới của công việc, giúp học sinh chuẩn bị cho cuộc sống làm việc sau này. Học sinh không thể chỉ được nghe thấy hoặc nhìn thấy mà cần được trải nghiệm, thực hành bằng các hoạt động cụ thể để tiếp thu kiến thức mới. Học để làm thực chất là học cách làm, là sự chuyển dịch từ các kĩ năng làm việc cụ thể sang kĩ năng sáng tạo trong công việc. Kĩ năng làm việc có tương tác chặt chẽ với nhóm kĩ năng xã hội khi môi trường làm việc ngày càng đòi hỏi sự hợp tác nhóm và các mối quan hệ xã hội. c/ Học để chung sống – kĩ năng sống liên quan đến xã hội. 11 Học để chung sống là một trụ cột quan trọng, then chốt của giáo dục hiện đại, giúp con người có thái độ hòa bình, khoan dung, hiểu biết, tôn trọng lịch sử, truyền thống và các giá trị văn hóa, tinh thần của các đối tượng khác nhau. Ở mức độ lứa tuổi học sinh, học để cùng chung sống thể hiện ở sự hòa nhập với tập thể, kĩ năng ứng xử trong gia đình, cách thể hiện cái tôi cá nhân và sự đóng góp tích cực trong tập thể trường, lớp. d/ Học để tự khẳng định - kĩ năng sống nhận thức bản thân. Học để tự khẳng định mình nêu lên một nguyên tắc cơ bản của giáo dục là góp phần hoàn thiện sự phát triển của con người về trí não, thể chất, trí thông minh, cảm xúc, thẩm mỹ và tinh thần… Các kĩ năng nhận thức bản thân sẽ đảm bảo cho mọi người có được sự tự do trong tư duy, phán xét, cảm nhận, sáng tạo để phát triển tài năng của mình và kiểm soát được cuộc sống của mình. 2/ Các biện pháp cụ thể giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông: a/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua sinh hoạt 15 phút đầu giờ và tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm: * Thực trạng: Phần lớn sinh hoạt 15 phút đầu buổi học là để lớp sửa bài tập, tập hát các bài hát về Đoàn Đẳng, Bác Hồ…hay ngồi tự học cho trật tự và các tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm thì chủ yếu là GVCN và BCS lớp tổng kết, đánh giá các hoạt động trong tuần và đề ra kế hoạch cho tuần tới. Tổ chức sinh hoạt thế này sẽ tạo cho học sinh cảm thấy nhàm chán, thậm chí là gây áp lực về các lỗi mà các em mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em không thích tiết sinh hoạt chủ nhiệm, thậm chí là sợ hãi rồi bỏ tiết. GVCN trong quá trình đánh giá ưu - khuyết điểm của học sinh thường chủ quan xem việc vi phạm nội quy và những biểu hiện chưa tốt của học sinh là do các em không cố gắng, đôi khi xem đó là biểu hiện đạo đức không tốt, vô hình chung GVCN đã qui chụp hành vi của học sinh thành đạo đức học sinh, biện pháp thường sẽ được áp dụng là làm bản 12 tự kiểm, xử lí kỉ luật, hạ hạnh kiểm…Điều này dễ dẫn đến việc học sinh không có niềm tin vào thầy cô, bạn bè và đôi khi không tin vào bản thân mình. Các em học sinh còn trong độ tuổi cần được dạy dỗ, giáo dục, chia sẽ và thông cảm. Vì vậy, người GVCN cần lắng nghe các em trình bày, cần cảm thông và tin tưởng các em trong những trường hợp, hoàn cảnh mà các em phải phạm lỗi, khi hiểu được các em GVCN có thể hướng dẫn, tư vấn cho các em sửa chữa lỗi lầm, hướng các em giải quyết các vấn đề tích cực hơn trong xã hội ngày nay đầy cạm bẫy, rủi ro, thử thách và không dễ dàng cho tuổi mới lớn. Trong tiết sinh hoạt lớp, GVCN có thể cung cấp cho học sinh những hiểu biết đó thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui nhộn, giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Và cũng nhờ vào các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẽ chia của thầy cô mà các em sẽ có được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân cách. * Biện pháp: Phương pháp tổ chức trò chơi : Tiết sinh hoạt lớp có thể “khởi động” bằng một trò chơi “Tìm tên cho nhóm”. GVCN chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm đi tìm một túi bánh kẹo dựa theo một lời gợi ý từ giáo viên chủ nhiệm (GVCN). Trong mỗi túi kẹo đều có một gợi ý và từ những gợi ý đó, các em phải tự đoán tên cho nhóm mình. Trò chơi tưởng như rất đơn giản nhưng lại khiến không ít học căng thẳng suy nghĩ khi ba lần đoán tên mà vẫn không nằm trong đáp án. Đáp án là sáu chữ “đức, tín, nhẫn, nhân, hạnh, tâm”, GVCN có thể kể về một bác chủ tiệm tạp hóa lớn bị bạn bè lật lọng khi cả hai hùn vốn làm ăn với lời nhắn nhủ: Hãy lấy những chữ đã tìm được làm chuẩn mực đạo đức, làm hành trang để bước vào đời. Sau màn “khởi động” tiếp tục “tăng tốc” với trò chơi “Truyền tin”. Hàng loạt thông điệp đã được truyền đi dưới dạng “rỉ tai” từ người này qua người khác với những kết quả không trọn vẹn, sau khi ban giám khảo đọc kết quả 13 nhận được từ các đội chơi thì cả lớp cười ồ lên. Thế nhưng, khi đáp án chính thức được công bố, tất cả học sinh mới hiểu rằng: đây không chỉ là một trò chơi đơn thuần mà ẩn chứa trong đó là kết quả hoạt động trong tuần với những lỗi mắc phải, điểm thi đua, thứ hạng của lớp so với toàn trường. Cũng từ đáp án đó, GVCN đưa ra nhận xét những ưu, khuyết điểm, dặn dò HS phải thực sự cố gắng để hoàn thành mục tiêu của cả tập thể. Vậy là tiết sinh hoạt diễn ra nhẹ nhàng khô có tiếng quát tháo nhưng GVCN vẫn cung cấp đầy đủ cho các thành viên trong lớp nội dung chính của giờ sinh hoạt. Ngoài ra các em còn có dịp được khám phá bản thân mình với trò chơi “Tự khám phá bản thân”. Tất cả học sinh, mỗi em đều được phát một chiếc áo làm bằng giấy trắng A0. Chiếc áo trắng sẽ lần lượt được các bạn trong lớp “kể” ra những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân người mặc áo. Hàng loạt những nhận xét xấu, tốt về tính cách của bạn mình đã được “kê khai” đầy đủ với những lời lẽ rất… học trò. Sau màn ghi chép vui nhộn, một số học sinh đã tự đánh giá được bản thân thông qua những điều bạn mình thổ lộ. Dù chỉ ra khuyết điểm nhưng không em nào tỏ ra phật ý hay có suy nghĩ bạn… chơi xỏ mình. Ngược lại, đây chính là dịp cho các em nhìn lại chính mình để hiểu nhau hơn, qua đó biết cách phát huy mặt mạnh, mặt còn hạn chế trong chính con người mình. Phương pháp nghiên cứu tình huống: Với phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của học sinh, lôi kéo các em vào những tình huống có vấn đề yêu cầu các em phải giải quyết vấn đề. GVCN nên đưa ra những tình huống có tính giáo dục, sát với thực tiễn cuộc sống của học sinh hay tình huống đang đựơc các em quan tâm nhiều nhất. Ví dụ: GVCN ra tình huống: “Giả sử em rất muốn thi vào trường đại học mà em thích, nhưng bố mẹ em không đồng ý. Em sẽ làm gì? Tại sao em quyết định như vậy” GVCN chia lớp thành 2 nhóm, cho các em trao đổi 5 phút. Sau đó, cử đại diện các nhóm đưa ra ý kiến của mình trong vòng 10 phút nếu hết thời gian thì vào 14 các buổi sinh hoạt tiếp theo, GVCN tổng kết và đưa ra nhận xét, hướng dẫn học sinh cách chọn nghề phải căn cứ vào các yếu tố: năng lực, sở trường của mình, nhu cầu và sự phát triển của xã hội….Như vậy qua tình huống trên GVCN đã hình thành và rèn luyện được cho học sinh kĩ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệp. Phương pháp đóng vai: Sử dụng phương pháp này GVCN sẽ tạo được sự hứng thú và khả năng sáng tạo của học sinh, khích lệ được sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực. Tuy nhiên, nếu tổ chức không tốt có thể trở thành cơ hội để học sinh chơi đùa, trêu chọc nhau. Do vậy, GVCN phải tổ chức sao cho phần “diễn” chỉ là phụ mà quan trọng hơn là phần thảo luận sau đó. Tình huống đưa ra phải thể hiện được tư duy phê phán và khả năng sáng tạo, vừa là nội dung của kĩ năng sống này nhưng cũng vừa là phương tiện để hình thành kĩ năng sống khác. Ví dụ: GVCN ra tình huống cho học sinh đóng vai: “Các bạn đang chơi trong sân trường một bạn từ đâu tới xô vào người bạn trong nhóm, cả hai người cùng ngã. Mặc dù người kia sai, nhưng bạn trong nhóm vẫn đỡ người đó dậy, nói lời xin lỗi. Tuy nhiên, đáp lại thái độ lịch sự của bạn trong nhóm, người kia chửi tục và đe doạ bạn trong nhóm”. Khi nhóm học sinh diễn xong, GVCN hỏi: “Nếu là các em trong tình huống trên em sẽ xử lý như thế nào”? GVCN phân lớp thành các nhóm thảo luận tình. Sau đó cho đại diện các nhóm đứng lên trình bày ý kiến của mình bằng cách đóng vai. Cuối buổi GVCN tổng kết và đưa ra cho học sinh biết các bước giải quyết mâu thuẫn như sau: + Bước 1: Kiềm chế cảm xúc - sử dụng kĩ năng thư giãn. + Bước 2: Xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn + Bước 3: giải quyết mâu thuẫn theo hướng tích cực. Phương pháp đóng vai đã giáo dục được cho sinh kĩ năng giải quyết xung đột có hiệu quả tích cực. Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác: 15 Phương pháp này sử dụng trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm sẽ giúp cho GVCN và học sinh có thời gian trò chuỵện nhiều hơn, đồng thời cũng giáo dục được hiểu được kĩ năng sống “giải quyết vấn đề và ra quyết định”. Tuy nhiên phương pháp này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán nên GVCN cần khéo léo kết hợp tốt với các phương pháp khác. Ví dụ: GVCN đọc cho học sinh nghe mẫu truyện “ Hãy thử một cách khác” ( Hạt giống tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống). Câu chuyện kể về một chú ruồi cố tìm cách thoát thân bằng cách chui qua tấm kính của cửa sổ, mặc dù chú đã cố gắng hết sức lực nhưng vẫn không qua được và cuối cùng chú ruồi đã chết. Trong khi cách đó không xa là một cánh cửa đang rộng mở GV nhấn mạnh chi tiết “Nếu chú ruồi không khoá chặt mình vào một lối nghĩ duy nhất mà thử tìm cách khác, chú đã tìm ra lối thoát một cách dễ dàng”. Sau khi đọc xong, GVCN dùng phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp động não để tiến hành vói những câu hỏi sau: Em có thích mẫu truỵên này không? Vì sao em thích? Nếu em ở trong trường hợp như chú ruồi em sẽ làm gì để thoát thân? Tại sao em lại làm như vậy? Câu chuyện nhắc nhở chúng ta điều gì? Học sinh lần lượt trả lời xong, GVCN thuyết trình cho các em hiểu về ý nghĩa của mẫu truyện. Từ đó thuyết trình cho học sinh hiểu về kĩ năng sống “giải quyết vấn đề và ra quyết định”. Năm bước căn bản để giải quyết vấn đề và ra quyết định: xác định vấn đề; động não về các khả năng; đánh giá các khả năng; lên kế hoạch hành động; đánh giá và điều chỉnh. Trong khi thuyết trình GVCN phân tích ví dụ để chứng minh. b/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua hoạt động giáo dục NGLL: * Thực trạng: Theo Nghị quyết tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nhấn mạnh: Đổi mới theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học vào thực tiễn. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức 16 hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội , ngoại khóa,… Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Nhằm phát triển hài hòa đức, trí, thể, mĩ. Đồng thời mỗi giáo viên chúng ta ai cũng biết rằng bên cạnh việc cung cấp kiến thức cho học sinh thì việc trang bị các kĩ năng sống là rất cần thiết và luôn song hành để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kĩ năng vào thực tế cuộc sống của bản thân mình có hiệu quả tích cực nhất. Để có được các kĩ năng sống cơ bản đó thì hoạt động NGLL có một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc và mở rộng ứng dụng thực tế, trải nghiệm được nhiều vấn đề trong các hoạt động xã hội cũng như gây được nhiều hứng thú trong học tập. Hoạt động giáo dục NGL đã được BGH trường THPT Lê Quý Đôn chỉ đạo và đưa vào giảng dạy hàng năm, việc lên lớp là do GVCN phụ trách bám sát vào các gợi ý hoạt động trong phân phối chương trình của nhà trường để thực hiện tổ chức hoạt động giáo dục. Tuy nhiên khi thực hiện ở những nội dung của một hai tháng đầu năm học thì học sinh có phần chủ động và tích cực tham gia. Nhưng cách tổ chức cứ lặp đi lặp lại theo một mô típ có sẵn khiến học sinh thấy nhàm chán và đôi khi còn lảng tránh không muốn tham gia hoạt động dẫn đến vắng rất nhiều hoặc giáo viên, học sinh cứ nghe đên có lịch học NGLL là kêu lên mệt mỏi mặc dù GVCN cũng đã rất nhiệt tình, nghiêm túc tổ chức, thế là vô hình chung việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua hoạt động NGLL đã không có kết quả cao, chưa đạt được mục tiêu giáo dục. Và để phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, đưa hoạt động giáo dục NGLL trở về đúng vị trí quan trọng, đạt được hiệu quả mục tiêu đề ra mang lại tác dụng giáo dục tốt cho học sinh thì việc nâng cao nhận thức về đổi mới phương pháp, đa dạng hóa cách thức tổ chức hoạt động là việc làm cần thiết ngay từ bây giờ ở trường THPT Lê Quý Đôn nói riêng, và nhiều trường THPT hiện nay nói chung. * Biện pháp: + Tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua hoạt động giáo dục NGLL 17 + Thiết kế các chủ đề giáo dục kĩ năng sống phù hợp với nội dung, hoạt động NGLL ở trường THPT + Sử dụng linh hoạt các hình thức, hoạt động tổ chức giáo dục + Các biện pháp hỗ trợ khác… Các biện pháp khi đề xuất thực hiện cần phải đảm bảo yêu cầu về mục tiêu, sự kế thừa, tính khả thi và hệ thống của nội dung giáo dục. * Tổ chức mẫu chủ đề của tháng 1 – Lớp 10: THANH NIÊN VỚI VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC. I.Mục tiêu: - Biết được một số đặc điểm cơ bản của nền văn hoá dân tộc. - Có thái độ trân trọng nền văn hoá, lịch sử của dân tộc mình; tôn trọng tất cả các dân tộc và các nền văn hoá. - Hiểu được trách nhiệm của học sinh trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. - Phát triển được kĩ năng thu nhận thông tin, kĩ năng nghiên cứu,biểu đạt các vấn đề văn hoá xã hội. II.Nội dung hoạt động: “Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc qua trò chơi dân gian và trang phục truyền thống” Hoạt động 1: Giá trị, sức sống và nét đẹp của trò chơi dân gian * Bước 1: GV tổ chức cho học sinh khởi động chương trình bằng việc chơi một số trò chơi dân gian như đẩy gậy, kéo co, bịt mắt bắt dê….nhưng do trường tôi dạy trong lớp học thì tôi cho học sinh chơi bịt mắt đạp bong bóng, mỗi tổ cử 1 bạn tham gia làm trọng tài và một bạn tham gia chơi, các em này bị bịt mắt và dùng chân đạp cho quả bóng trong vòng tròn vỡ ra, rồi tiếp tục cho đến khi hết số bóng trong vòng tròn thì trọng tài tính xem bạn nào đạp vỡ được nhiều bong bóng nhất là chiến thắng. Hoặc chơi đẩy gậy: GVCN chuẩn bị 1 cây gậy và dây thừng để học sinh thực hiện ngay trên sân khấu lớp học. Mỗi tổ lựa chọn 1 đội chơi với 2 hạng cân 35 - 40 và 40 - 45 thi tài với nhau, những thành viên còn lại sẽ là những cổ động 18 viên cho đội thi của mình. Các đội chơi sẽ hết sức hứng thú cố gắng sử dụng hết khả năng để đạt được chiến thắng. Sự cổ vũ của các cổ động viên làm cho phần thi càng thêm sôi nổi, quyết liệt hơn. * Bước 2: GVCN chia lớp thành 2 nhóm và phát cho các nhóm tờ giấy A3 và yêu cầu các nhóm viết tên các trò chơi dân gian. Thời gian ghi trò chơi dân gian vào giấy là 5 phút sau đó nộp lại cho GVCN. Tiếp tục GVCN đưa lại giấy kể tên trò chơi dân gian đó và yêu cầu các đội chơi thực hiện 2 trò chơi, trong số đó. Đội nào thực hiện được yêu cầu trên sẽ dành chiến thắng. * Bước 3: Sau khi thực hiện xong một số trò chơi dân gian GVGN nêu một số câu hỏi sau: - Em có thích chơi các trò chơi dân gian không? - Lí do gì mà các trò chơi dân gian luôn được lưu giữ lại trong cuộc sống? - Việc thực hiện các trò chơi dân gian của đội em như thế nào?. - Tại sao các trò chơi dân gian lại có giá trị, sức sống và nét đẹp như vậy? - Em biết chơi trò chơi dân gian khi nào? Qua trò chơi dân gian gợi lại điều gì trong em? * Bước 4: Sinh hoạt 1- 2 tiết mục văn nghệ Hoạt động 2: Trang phục truyền thống và bản sắc văn hoá * Bước 1: GVCN sử dụng máy chiếu hoặc ti vi cho học sinh xem hình ảnh các trang phục truyền thống của dân tộc Việt Nam. Thời gian 5 phút. Sau khi xem xong GVCN chia lớp thành hai nhóm và yêu cầu mỗi nhóm cử 1 học sinh lên bảng ghi tên của 54 dân tộc ở Việt Nam. Đội nào kể được nhiều tên hơn thì giành chiến thắng. Thời gian 5 phút. * Bước 2: GVCN đặt câu hỏi cho cả hai đội chơi: Em hãy kể tên các dân tộc sống trên địa bàn huyện Tuy Đức? (Thời gian 5 phút) Sau khi 2 đội chơi kể tên xong GVCN cho 2 đội bốc thăm giới thiệu về những đặc điểm cơ bản của một dân tộc sống trên địa bàn huyện Tuy Đức. * Bước 3: Thi hóa trang với trang phục một dân tộc thiểu số bất kì. (Thời gian thực hiện 25 - 30 phút). 19 Sau khi các thành viên thực hiện các phần xong GVCN đưa ra các câu hỏi cho cổ động viên như sau: - Em nhận xét gì về trang phục dân tộc mà đội em và đội bạn đã vẽ? - Tại sao các trang phục này lại thể hiện giá trị văn hoá của các dân tộc? - Ngày nay các trang phục này có còn phản ánh được bản sắc và giá trị của dân tộc không? - Em nghĩ gì khi một số ít giới trẻ thể hiện cách sống thiếu văn hoá như: ăn mặc hở hang, màu mè, quái dị và cách sống tự do buông thả…? Như vậy, theo cách tổ chức này tôi nghĩ là học sinh hiểu nội dung giáo dục một cách thoải mái hơn, không bị gò bó, ép buộc. Từ các phần thi mà các em tìm hiểu dần về chủ đề đặt ra qua đó các em tự cảm nhận và rút ra những kết luận cho mình. Mặt được lớn nhất ở đây là các em tự xác nhận giá trị bản sắc văn hoá, để rồi tự đưa ra quan điểm nên hay không nên giữ gìn nó. Từ đó thái độ đặt ra cho người học là cần phải giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản, giá trị, bẳn sắc văn hoá địa phương và đây cũng là việc để giữ gìn nét văn hoá chung nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay văn hoá lai căng thương mại đang xâm nhập vào nước ta. c/ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bằng cách tổ chức các hoạt động lồng ghép giáo dục văn hóa và thể dục thể thao: Hàng năm BGH nhà trường đều có tổ chức các trò chơi dân gian như kéo co; đẩy gậy, bắn nỏ; nhảy dây, bóng chuyền, cắm hoa, nấu ăn.... các hội thi văn nghệ, thể dục thể thao vào 20/11 và 26/3. GVCN lên kế hoạch và cố vấn cho học sinh tham gia tích cực, hiệu quả. Qua các hoạt động này sẽ mang lại rất nhiều hứng thú cho học sinh đồng thời có tác dụng lớn trong rèn luyện thể lực cũng như kỹ năng hoạt động tập thể, giao tiếp, hợp tác, biểu diễn, biểu đạt các vấn đề cho học sinh. Một số hình ảnh về hoạt động phong trào của học sinh: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan