Trang 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do thực hiện đề tài
Trong xu hướng quốc tế hoá mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế
Việt Nam đang dần từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Để quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thành công, Đảng và nhà nước ta đã
rất chú trọng phát triển hoạt động kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Chỉ có
thông qua các hoạt động kinh tế quốc tế, chúng ta mới có thể phát huy được tiềm
năng thế mạnh của đất nước, đồng thời tận dụng được vốn và công nghệ hiện đại
của các nước phát triển để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền
kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kinh tế quốc tế mở rộng, dẫn đến sự phát triển của thanh toán quốc tế như
một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu thương mại quốc tế của các doanh
nghiệp trong nước.
Đứng trước yêu cầu đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tham
gia hoạt động thanh toán quốc tế từ năm 1993. Trải qua 17 năm hoạt động, hoạt
động TTQT tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đã đạt được rất nhiều
thành quả, góp phần đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng, là một nguồn thu phí lớn
cho ngân hàng. Tuy nhiên, do còn mới mẻ, hoạt động Thanh toán quốc tế tương đối
phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro nên hoạt động TTQT tại Ngân hàng Đầu Tư và
Phát Triển Việt Nam vẫn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề rủi ro trong
TTQT, một vấn đề gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về tài sản vật chất mà cả uy
tín trên trường quốc tế của ngân hàng. Bên cạnh đó những lý luận về quản trị rủi ro
trong lĩnh vực thanh toán quốc tế vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu
nghiên cứu, phòng ngừa và hạn chế rủi ro ngày càng cao của các ngân hàng cũng
như doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trang 2
Vì vậy, để đạt được mục tiêu của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
là “phát triển bền vững”, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra là nghiên cứu
và phân tích các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế và tìm ra
các giải pháp để quản trị, hạn chế tối đa các rủi ro trong hoạt động TTQT. Xuất phát
từ thực tế đó và với mong muốn tìm ra những hướng mới cho vấn đề quản trị rủi ro
trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường quản
trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2. Mục tiêu của đề tài:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động quản trị rủi ro
Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam giai đoạn 20062010. Qua đó đánh giá thực trạng quản trị rủi ro thanh toán quốc tế, rút ra những ưu
điểm hạn chế, đồng thời phân tích nguyên nhân của các hạn chế đó
- Đề xuất các nhóm giải pháp khả thi đối với ngân hàng nhà nước, ngân hàng
Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam và các đơn vị liên quan nhằm nâng cao năng lực
quản trị rủi ro, hạn chế các rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng
Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Các rủi ro TTQT và hoạt động quản trị rủi ro TTQT tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng hoạt động TTQT và quản trị rủi ro TTQT
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006-2010
4. Phương pháp thực hiện
- Luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, tổng hợp, phân tích, diễn giải,
quy nạp, so sánh trên cơ sở số liệu thống kê của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam để nghiên cứu
Trang 3
- Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình
nghiên cứu khoa học liên quan.
- Sử dụng các công cụ phân tích, phần mềm phân tích Excel,…
- Luận văn sử dụng phương pháp chuyên gia
5. Kết quả đạt được
- Đề tài làm rõ những lý luận cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế, rủi ro
và quản trị rủi ro nói chung, các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp quản trị rủi ro
trong hoạt động thanh toán quốc tế tại các NHTM VN
- Có cái nhìn tổng quan về hoạt động TTQT và công tác quản trị rủi ro TTQT
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đánh giá ưu nhược điểm và tìm
nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi và có hiệu quả để hoạt động TTQT
của Ngân hàng ngày càng phát triển bền vững.
6. Kết cấu của luận văn:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro trong hoạt động Thanh
toán quốc tế
- Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động Thanh toán quốc tế tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 2006-2010
- Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động Thanh toán
quốc tế tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Trang 4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1.1.1. Khái niệm và bản chất hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi
về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức,
cá nhân nước này với các tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ
chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan [2].
1.1.1.2. Bản chất hoạt động thanh toán quốc tế của các NHTM
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế chỉ được tiến hành trong những điều kiện và
môi trường kinh doanh nhất định.
Nghiệp vụ TTQT vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước vấn đề quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các bên phải được giải quyết và quy định thành những điều kiện gọi là điều kiện
TTQT: điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm, điều kiện về thời gian, điều kiện
về phương thức thanh toán. Các điều kiện trên khi được vận dụng một cách hợp lý
sẽ đạt được hiệu quả về kinh tế, tránh được những rủi ro, tổn thất cho các bên áp
dụng.
Nghiệp vụ TTQT giữ mối quan hệ mật thiết với các nghiệp vụ Ngân hàng
quốc tế quan trọng khác.
- Với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: nhằm phục vụ nhu cầu TTQT bằng các
loại ngoại tệ khác nhau, hạn chế rủi ro hối đoái trong thanh toán và kinh doanh của
khách hàng và cũng nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận của ngân hàng.
- Với hoạt động tài trợ ngoại thương: nhằm hỗ trợ nguồn tài chính cho khách
hàng xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện TTQT.
Trang 5
- Với các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro: thông tin tín dụng, bảo lãnh ngân
hàng…
- Chỉ khi mạng lưới các chi nhánh ngân hàng tại nước ngoài và các ngân
hàng đại lý rộng khắp thì hoạt động TTQT của NHTM mới thực sự được tiến hành
và phát triển.
Nghiệp vụ TTQT có mối quan hệ với các hoạt động kinh doanh của NHTM.
Đó là mối quan hệ chặt chẽ với chính sách tiền tệ tín dụng, chế độ quản lý
ngoại hối của mỗi quốc gia. Đồng thời việc tổ chức, quản lý và thực hiện nghiệp vụ
TTQT phải dựa trên cơ sở các luật lệ, tập quán quốc gia, các quy ước quốc tế, hiệp
định thương mại giữa các nước. Do vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử, sự phát triển kinh
tế thế giới nói chung, của mỗi quốc gia nói riêng, hoạt động TTQT cũng mang sắc
thái và đặc trưng riêng.
1.1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại
thương phát triển. Đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, tăng nhanh tốc
độ chu chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dùng
tiền mặt trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung gian, đồng thời hoạt động
thanh toán quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể vào Việt Nam bằng các
nghiệp vụ kiều hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu.
1.1.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại
- TTQT giúp các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh ngoại tệ, bảo
lãnh và các dịch vụ khác.
- TTQT đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng, giúp cho ngân hàng thu
hút thêm khách hàng về giao dịch, từ đó tăng quy mô hoạt động và thị phần trên thị
trường.
Trang 6
- TTQT làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: Trong quá trình thực hiện
các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng thương mại luôn có
một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát
sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng thanh khoản cho ngân hàng.
- Thực hiện TTQT, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng tròn dịch
vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến nhau như tài
trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ được giám sát, theo dõi kỹ
lưỡng bởi nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn
nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện
thực hiện quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính
sách kinh tế đối ngoại mà nhà nước đề ra.
- TTQT làm tăng cường quan hệ đối ngoại: thông qua việc bảo lãnh cho
khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương
mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa
trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối
quan hệ ngày càng rộng mở.
1.1.2.3. Đối với khách hàng
- Vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân
hàng thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được
tiến hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi phí.
- Tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng được
đảm bảo hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương thức
thanh toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm thiểu rủi
ro, tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch ngoại thương với đối tác nước
ngoài.
- Trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không đủ khả
năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để thanh toán
hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu, đáp ứng nhu
cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc thực hiện thanh toán quốc
Trang 7
tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xuất
nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng và những điều chỉnh về chiến lược
khách hàng.
1.1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế
1.1.3.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
Khái niệm
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu..) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu,
người cung ứng dịch vụ..) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền
do khách hàng yêu cầu [2].
Đặc điểm
Từ khái niệm cho thấy phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán
đơn giản, trong đó người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán với
nhau thông qua dịch vụ ngân hàng, ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thực
hiện việc thanh toán theo ủy nhiệm của người mua, chỉ có trách nhiệm chuyển đúng
số tiền cần chuyển một cách khẩn trương, an toàn đến đúng địa chỉ theo yêu cầu khi
nhận được lệnh chuyển tiền, ngoài ta không bị rằng buộc gì.
Trong phương thức chuyển tiền, việc có trả tiền hay không phụ thuộc vào
thiện chí của người nhập khẩu. Người nhập khẩu sau khi nhận hàng có thể không
tiến hành chuyển tiền, hoặc cố tình kéo dài thời hạn chuyển tiền nhằm chiếm dụng
vốn của người xuất khẩu, do đó, làm cho quyền lợi của người xuất khẩu không
được bảo đảm. Chính vì nhược điểm này mà trong ngoại thương phương thức
chuyển tiền thường chỉ được áp dụng trong các trường hợp hai bên mua bán có uy
tín và tin cậy lẫn nhau.
Trang 8
1.1.3.2. Phương thức ứng trước
Người mua chấp nhận giá hàng của người bán và chuyển tiền thanh toán
cùng với đơn đặt hàng chắc chắn (không hủy ngang), nghĩa là việc thanh toán xảy
ra trước khi hàng hóa được người bán gửi đi
1.1.3.3. Phương thức nhờ thu
Khái niệm
Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó bên bán (nhà xuất khẩu) sau khi
giao hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ
chứng từ thông qua Ngân hàng thu hộ cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh
toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác [2].
Đặc điểm
Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thu hộ tiền
cho người xuất khẩu, ngân hàng không có bất cứ trách nhiệm nào đối với việc trả
tiền của người mua. Dựa trên cơ sở giấy ủy thác và bộ chứng từ của người bán,
ngân hàng tiến hành thu hộ tiền, ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra chứng
từ và không liên quan gì đến việc ủy thác đó có được người mua chấp nhận trả tiền
hay không.
Phân loại: Có hai loại nhờ thu:
* Nhờ thu phiếu trơn: là nhờ thu theo chứng từ tài chính không kèm theo chứng
từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu nhờ ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn
cứ vào hối phiếu do mình lập ra mà không kèm theo điều kiện nào cả, còn chứng từ
gửi hàng sẽ được gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
* Nhờ thu kèm chứng từ: là loại nhờ thu có kèm chứng từ thương mại, trong đó
nhà xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ
vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện nhà nhập
khẩu phải trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn để đổi lấy chứng từ đi
nhận hàng. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi của người bán sẽ được đảm
bảo hơn phương thức nhờ thu phiếu trơn và chuyển tiền, thời gian thanh toán thì
ngắn hơn và chi phí ít hơn so với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Do
Trang 9
vậy, phương thức này được sử dụng trong phương thức xuất nhập khẩu với những
hợp đồng có giá trị nhỏ và thanh toán dịch vụ đối với các khách hàng quen và tin
cậy.
1.1.3.4. Phương thức tín dụng chứng từ
Khái niệm
Tín dụng chứng từ hay còn gọi là thư tín dụng (L/C) là phương thức thanh
toán, trong đó, theo yêu cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức
thư, gọi là L/C (Letter of Credit –L/C), trong đó ngân hàng phát hành cam kết trả
tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ ba khi người này xuất trình cho ngân
hàng phát hành bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện và điều khoản
quy định trong L/C [2].
Các loại chứng từ chủ yếu thường được quy định trong L/C:Hóa đơn thương
mại (Commercial invoice), Chứng từ vận tải: Vận đơn đường biển (bill of lading),
vận đơn hàng không (airway bill) hoặc vận đơn đường sắt (railway bill), Chứng từ
bảo hiểm (Insuarance certificate), Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin), Hối
phiếu (Draft), Phiếu đóng gói (Packing list), Các chứng từ khác như: Giấy chứng
nhận số lượng (Certificate of Quantity), giấy chứng nhận kiểm tra chất lượng
(Inspection certificate), biên lai bưu điện, các chứng nhận của người hưởng lợi..
Đặc điểm
Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi ra đời
lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Người mua căn cứ vào hợp đồng để
làm đề nghị mở thư tín dụng. Người bán căn cứ vào các điều kiện của thư tín dụng
tiến hành giao hàng và nếu xuất trình được các chứng từ phù hợp với các điều
khoản, điều kiện của thư tín dụng sẽ nhận được thanh toán từ ngân hàng phát hành.
Tính độc lập của thư tín dụng không hủy bỏ trách nhiệm của ngân hàng phát hành
khi hợp đồng mua bán đã được hủy bỏ nhưng thư tín dụng vẫn còn hiệu lực. Do đó
người bán khi nhận được thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của thư tín
dụng, nếu có điều khoản nào chưa phù hợp phải yêu cầu người mua tiến hành sửa
đổi thư tín dụng cho phù hợp trước khi thực hiện giao hàng.
Trang 10
Trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các ngân hàng chỉ giao dịch căn cứ vào
chứng từ, chứ không liên quan đến hàng hóa. Ngân hàng cam kết thanh toán cho
người hưởng khi họ xuất trình được bộ chứng từ thể hiện trên bề mặt là phù hợp với
các điều khoản của thư tín dụng mà hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người mua
đã nhận được hàng hóa hay chưa, hàng hóa có đúng quy cách hay không.
1.1.3.5. Phương thức bồi hoàn bằng điện:
Hình thức này cũng buộc người mua mở L/C như bình thường, khi người
bán xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng thông báo, ngân hàng sẽ kiểm tra, nếu
thấy bộ chứng từ phù hợp với L/C thì sẽ trả tiền ngay cho người bán. Người xuất
khẩu sẽ nhận được tiền hàng sớm, chỉ độ vài ngày. Sau đó ngân hàng thông báo sẽ
chuyển chứng từ cho ngân hàng mở L/C và ngân hàng này sẽ hoàn tiền bằng điện
cho ngân hàng thông báo.
1.2. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA CÁC
NHTM
1.2.1. Rủi ro
1.2.1.1. Khái niệm và bản chất rủi ro
Theo từ điển Tiếng Việt do Trung tâm từ điển học Hà Nội xuất bản năm
1995 “Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến”. Một số từ điển khác
đưa ra khái niệm tương tự như “ Rủi ro là sự bất trắc, gây ra mất mát hư hại” hay “
Rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó khăn hoặc điều không chắc
chắn”…
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tác giả Hồ Diệu cho rằng “ Rủi ro là sự
tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến”
hoặc “ Rủi ro là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp”….
Qua khái niệm về rủi ro, chúng ta thấy rủi ro có ba tính chất quan trọng:
Trang 11
Một là: Rủi ro là sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Đó là những sự kiện mà người ta
không lường trước một cách chắc chắn.
Hai là: Rủi ro là những sự cố gây ra tổn thất, một khi rủi ro đã xảy ra là để lại
hậu quả cho con người, mặc dù nó có thể nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng
Ba là: Rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi. Thông thường mọi người đều mong
muốn những sự kiện may mắn, tốt đẹp sẽ đến với mình cho nên rủi ro là sự kiện
ngoài mong đợi.
Như vậy, một sự kiện được coi là rủi ro phải đồng thời thỏa mãn ba tính chất
nêu trên. Nếu sự kiện đã biết trước chắc chắn xảy ra hoặc xảy ra không gây tổn thất
hoặc theo mong muốn của con người thì không được coi là rủi ro.
1.2.1.2. Phân loại rủi ro
Rủi ro, tổn thất tồn tại dưới rất nhiều dạng khác nhau. Phân loại rủi ro chỉ
mang tính chất tương đối trong mối quan hệ tác động của rất nhiều yếu tố. Sau đây
là một số tiêu thức phân loại rủi ro điển hình nhất:
Theo tính chất rủi ro
* Rủi ro suy đoán (còn gọi là rủi ro suy tính hay rủi ro đầu cơ) là rủi ro mà
trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn với những nguy cơ gây ra tổn thất. Đây
là loại rủi ro luôn gắn liền với khả năng thất bại trong hoạt động kinh doanh, đầu tư,
đầu cơ.
* Rủi ro thuần túy (còn được gọi là rủi ro thuần): Là những rủi ro chỉ có thể dẫn
đến những thiệt hại mất mát mà không có cơ hội kiếm lời. Rủi ro loại này có
nguyên nhân từ những đe dọa, nguy hiểm luôn rình rập như những hiện tượng tự
nhiên bất lợi hoặc những hành động sơ ý, bất cẩn của con người hoặc là những hành
động xấu của người khác gây ra…và nó làm phát sinh một khoản chi phí (để bù đắp
thiệt hại).
Theo phạm vi ảnh hưởng của rủi ro
* Rủi ro cơ bản: Là những rủi ro sinh ra từ những nguyên nhân ngoài tầm kiểm
soát của con người. Hậu quả của rủi ro cơ bản thường rất nghiêm trọng, khó lường,
có ảnh hưởng tới cộng đồng và toàn bộ xã hội. Hầu hết các rủi ro cơ bản đều xuất
Trang 12
phát từ sự tác động tương hỗ thuộc về kinh tế, chính trị, xã hội. Nó có thể bao gồm
nhiều loại rủi ro như: nạn thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, tiền tệ, lạm phát, chiến
tranh, xung đột chính trị, động đất, núi lửa phun, bão, lụt..
* Rủi ro riêng biệt: Là những rủi ro xuất phát từ các biến cố chủ quan và khách
quan của từng cá nhân, tổ chức. Loại rủi ro này chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của từng
cá nhân hoặc tổ chức. Nếu xét về hậu quả, đối với một tổ chức có thể rất nghiêm
trọng nhưng ảnh hưởng không nhiều đến xã hội. Trong kinh doanh quốc tế thì rủi ro
riêng biệt bao gồm: sai lầm trong lựa chọn chiến lược, chính sách kinh doanh, sai
lầm trong lựa chọn đối tác, mặt hàng kinh doanh, đổ vỡ, biển thủ, mất tích….
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của các NHTM
1.2.2.1. Khái niệm
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là những rủi ro về kinh tế phát sinh
trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân phát
sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia TTQT (nhà xuất khẩu, nhập khẩu, ngân hàng,
các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian..) hoặc những nhân tố khách quan
khác gây nên [5].
1.2.2.2. Phân loại rủi ro thanh toán quốc tế theo nguyên nhân
Rủi ro trong TTQT của các NHTM có thể được phân loại theo nguyên nhân
phát sinh rủi ro:
Rủi ro do tác nghiệp
- Khái niệm: Rủi ro trong hoạt động TTQT là những rủi ro xảy ra ngay trong
quá trình thao tác nghiệp vụ TTQT.
- Nguyên nhân: Rủi ro này mang tính chất chủ quan, nó do trình độ, năng lực xử
lý tình huống của cán bộ TTQT của NHTM.
+ Ngân hàng chuyển tiền: Do nhận chuyển tiền cho những hợp đồng thanh toán
vi phạm chế độ quản lý hạn ngạch nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại hối, những hợp
đồng thanh toán không có thật được lập để lợi dụng hoạt động phi pháp..
Trang 13
+ Ngân hàng uỷ nhiệm và nhận nhờ thu: Do giao bộ chứng từ nhận hàng cho
khách hàng trước khi nhận được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu,
nhận và gửi chỉ thị thanh toán không rõ ràng.
+ Các ngân hàng có liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ:
Ngân hàng phát hành: phát hành thư không đúng theo các điều kiện của đơn xin
mở L/C, hoặc có những điều khoản bất lợi, dẫn đến các rủi ro, kiểm tra chứng từ
không phát hiện được sai sót mà thực hiện thanh toán sẽ gặp khả năng rủi ro không
được hoàn lại tiền từ nhà nhập khẩu.
Ngân hàng xác nhận : Bằng việc gắn thêm các cam kết thanh toán theo thư tín
dụng khi ngân hàng phát hành không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán
cho ngân hàng thì có rủi ro xảy ra như rủi ro thương mại của ngân hàng phát hành,
họ không có khả năng thanh toán, rủi ro do kiểm tra bộ chứng từ
Ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo L/C sẽ không có bất cứ một cam
kết nào khi thông báo thư tín dụng nhưng việc xác thực một thư tín dụng hay sửa
đổi thư tín dụng qua các khóa mật hoặc kiểm tra cẩn thận vể tính chân thật của nó sẽ
có những rủi ro do đã thông báo L/C giả mạo không xác thực mà không lưu ý cho
người được thông báo.
Ngân hàng chiết khấu, thương lượng: Ngân hàng này bao gồm các rủi ro của
ngân hàng phát hành, ngân hàng hoàn trả tiền của người hưởng và rủi ro kiểm tra
chứng từ. Nếu ngân hàng thương lượng không kiểm tra chứng từ giao hàng của nhà
xuất khẩu một cách cẩn thận, thích đáng thì những sai sót của bộ chứng từ đã được
thương lượng sẽ bị ngân hàng phát hành từ chối một cách hợp pháp.
Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu
- Khái niệm: Rủi ro tín dụng xảy ra khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng để
thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế theo những điều kiện thanh toán đã
thỏa thuận với đối tác nước ngoài.
- Nguyên nhân: Rủi ro tín dụng gây ra cho các ngân hàng xuất phát từ các
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Trang 14
Nguyên nhân chủ quan:
+ Khả năng áp dụng quy chế và năng lực của cán bộ trong quá trình thẩm định
món vay xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện các phương thức
thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán theo L/C, thanh toán ứng trước, chiết
khấu hối phiếu và chứng từ, đó là các vấn đề như thẩm định phương án vay vốn,
phân tích năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách
hàng, khả năng phân tích các thông tin rủi ro từ phía đối tác của khách hàng, của
ngân hàng nước ngoài.
+ Sự phối hợp giữa thực hiện nghiệp vụ TTQT và những dịch vụ cung ứng tín
dụng của cán bộ, đó là các vấn đề về điều kiện thanh toán, sửa đổi L/C, ký hậu và
bảo lãnh vận đơn nhận hàng…
Nguyên nhân khách quan: Đối tác của nhà nhập khẩu không thực hiện hợp
đồng đúng, đủ, kịp thời về hàng hóa và điều kiện thanh toán làm phá vỡ kế hoạch
tiêu thụ, kế hoạch sản xuất – kinh doanh của nhà nhập khẩu, hàng hóa bị mất mát,
hàng kém phẩm chất phát sinh trong quá trình vận chuyển, đối tác không có khả
năng thanh toán, ngân hàng nước ngoài đang trong quá trình sát nhập giải thể, phá
sản…
Rủi ro tỷ giá
- Khái niệm: Rủi ro tỷ giá là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn
định bằng đồng tiền nước ngoài. Khi tỷ giá hối đoái biến động so với tỷ giá khi ký
kết hợp đồng xuất khẩu sẽ có lợi cho người này và thiệt cho người khác
- Tác động của rủi ro tỷ giá:
+ Đối với nhà xuất khẩu: tỷ giá biến động sẽ phá vỡ kế hoạch đã được tính toán
của nhà xuất khẩu, chẳng hạn khi giá cả đồng tiền trong nước so với đồng ngoại tệ
tăng (tỷ giá hối đoái giảm) sẽ bất lợi cho nhà xuất khẩu vì tiền bán hàng thu về bằng
ngoại tệ sẽ được ít đồng nội tệ hơn do vậy mua được ít yếu tố đầu vào hơn làm cho
kinh doanh xuất khẩu có thể bị thua lỗ. Biến động tỷ giá hối đoái giảm còn ảnh
hưởng khi nhà xuất khẩu nhận tài trợ xuất khẩu từ ngân hàng bằng nội tệ để phục vụ
sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
Trang 15
+ Đối với nhà nhập khẩu: khi tỷ giá hối đoái biến động tăng (giá cả đồng nội tệ
so với đồng ngoại tệ giảm) sẽ bất lợi cho nhà nhập khẩu vì họ mua ngoại tệ thanh
toán cho hàng hóa nhập khẩu với giá cao nhưng giá cả tiêu thụ hoặc nguyên vật liệu
còn phụ thuộc cung cầu thị trường không thể bù đắp nổi với biến động thay đổi tỷ
giá. Những khoản tín dụng bằng ngoại tệ do ngân hàng cung cấp sẽ đến hạn trong
tương lai càng trở nên lớn hơn do cộng thêm tỷ lệ tỷ giá hối đoái tăng.
+ Đối với các ngân hàng thương mại: Trong quá trình thực hiện thanh toán cho
khách hàng, vấn đề quản lý nguồn ngoại tệ và hoạt động kinh doanh ngoại tệ để
đảm bảo nhu cầu thanh toán trên cơ sở cân đối tài sản có bằng ngoại tệ là vô cùng
quan trọng, nhằm tránh những rủi ro do biến động tỷ giá gây nên.
Rủi ro quốc gia
- Khái niệm: Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính
trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối và chính sách ngoại thương của một
quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu
không nhận được hàng hóa. Vì vậy loại rủi ro này là do những nguyên nhân khách
quan gây nên:
+ Xảy ra chiến tranh, đảo chính, biểu tình ở các nước
+ Những cấm vận trong thanh toán: nước nhập khẩu bị phong tỏa tài khoản do
những món nợ nước ngoài chưa trả, hoặc do quan hệ không bình thường giữa hai
nước có quan hệ kinh tế quốc tế làm cho các hợp đồng ngoại thương, hiệp định
thương mại bị hủy bỏ giữa chừng.
+ Xảy ra khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính –
tiền tệ gây ra những khó khăn trong thanh toán.
+ Xảy ra những thiên tai lớn, nghiêm trọng như động đất, núi lửa, bão lụt…
Rủi ro do thông tin, truyền tin
- Khái niệm: Đây là những rủi ro xảy ra trong quá trình truyền tin, thực hiện
thanh toán bằng thư, điện hay trong quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin sai lệch
với yêu cầu của khách hàng. Ngày nay những rủi ro này rất đáng kể do cả những
nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên.
Trang 16
- Nguyên nhân chủ quan: Ngân hàng tiếp nhận và xử lý thông tin sai lệch với
khách hàng, đối tác của khách hàng và ngân hàng nước ngoài, khả năng biến động
tỷ giá. Các thao tác trong quá trình truyền tin không đúng quy định, kỹ thuật dẫn
đến các sai sót, nhầm lẫn và tổn thất cho ngân hàng.
- Nguyên nhân khách quan: Trong quá trình truyền tin, gửi các chứng từ thương
mại giữa các ngân hàng, thực hiện thanh toán bằng thư, điện (thư điện thanh toán,
hoàn tiền, sửa đổi, xác nhận, chấp nhận…) có thể bị thất lạc nhầm lẫn, chậm trễ hư
hỏng, rách nát gây ra tổn thất cho các bên và cho các ngân hàng.
Rủi ro do lừa đảo trong TTQT: Là các rủi ro xảy ra do một trong hai bên
mua và bán có hành vi lừa đảo. Đây là một trong những vấn đề đang được cảnh báo
cho các ngân hàng và ngày càng có xu hướng gia tăng.
- Nguyên nhân: Thuộc loại này thì nguyên nhân rủi ro điển hình nhất là một
trong hai bên mua và bán có hành vi lừa đảo:
+ Bên bán: Thực hiện các hoạt động mua bán lòng vòng thông qua môi giới để
lừa đảo người mua thanh toán nhưng không có hàng hoặc để tiêu thụ những hàng
hóa rởm, kém phẩm chất.
+ Cả hai bên mua và bán cấu kết lập bộ chứng từ giả mạo để được thanh toán
theo phương thức L/C. Các hợp đồng ma được thiết lập để thanh toán qua ngân
hàng từ nước này sang nước khác của bọn tội phạm thực hiện rửa tiền. Ngoài ra các
hành vi lừa đảo trong thanh toán séc du lịch, thẻ tín dụng cũng gia tăng.
1.2.3. Rủi ro theo các phương thức thanh toán quốc tế ở các NHTM
1.2.3.1. Rủi ro trong phương thức chuyển tiền
Rủi ro đối với người mua: Sẽ rất bất lợi cho người mua nếu sau khi chuyển
tiền xong, người bán bị phá sản hoặc giao hàng không đúng số lượng, chủng loại,
chất lượng kém hay không bảo đảm thời gian giao hàng theo đúng thỏa thuận làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình.
Rủi ro đối với người bán: Nếu người mua thanh toán sau khi xuất hàng thì
việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do đó bên bán dễ bị bên
mua chiếm dụng vốn trong thanh toán.
Trang 17
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua: khi Ngân hàng cho vay thanh
toán để người mua nhập hàng, khi hàng về không đúng phẩm chất, quy cách,
thương vụ thua lỗ, người mua mất khả năng thanh toán, gây tổn thất cho ngân hàng
không thu được nợ.
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán: Khi ngân hàng cho vay thu
mua, sản xuất hàng xuất khẩu, người bán không thu hồi được tiền, ảnh hưởng đến
việc thu hồi nợ của Ngân hàng.
Rủi ro xảy đến với Ngân hàng trong phương thức thanh toán bằng chuyển
tiền cũng có thể do công nghệ thanh toán lạc hậu, chất lượng đường truyền kém dẫn
đến việc chuyển sai hoặc chuyển nhầm số tiền cần thanh toán. Bên cạnh đó, rủi ro
trong phương thức này có thể do sự tắc trách, cẩu thả của cán bộ thanh toán dẫn đến
thanh toán nhầm hoặc chậm thanh toán.
1.2.3.2. Rủi ro trong phương thức ứng trước
Phương thức thanh toán ghi sổ thuận lợi cho người bán, rủi ro cho người
mua. Sau khi nhận tiền người bán có thể chủ tâm không giao hàng, giao hàng thiếu,
không có khả năng giao hàng như thỏa thuận, hoặc thậm chí bị phá sản. Do phải
thanh toán trước nên người mua có thể bị áp lực về tài chính, tình hình có thể trở
nên xấu hơn nếu hàng hóa đến chậm hoặc bị khiếm khuyết.
Bên cạnh đó người bán cũng có thể gặp rủi ro nếu sau khi đặt hàng mà người
mua không thực hiện chuyển tiền, trong khi hàng hóa đã được người bán thu mua.
Người bán có thể phải chịu chi phí quản lý, chi phí lưu kho…..
1.2.3.3. Rủi ro trong phương thức nhờ thu
Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi
cho bên bán (thanh toán không bình đẳng) giữa sự trả tiền và nhận hàng tách rời,
không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng mà không chịu trả
tiền hoặc trì hoãn việc trả tiền.
Trang 18
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu kèm chứng từ, người bán thông
qua Ngân hàng giữ hộ hồ sơ hàng hóa mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng
hóa của mình, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có
thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hóa (không cần nhận
hàng), không thanh toán khi giá cả trên thị trường biến động dẫn đến bất lợi cho
người bán trong việc giải tỏa hàng hóa và gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng hóa.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Trong phương thức nhờ thu, người mua do quy định họ phải có trách nhiệm
trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu trước khi nhận hàng vì vậy không có điều
kiện kiểm tra hàng hóa trước, người mua có thể gặp trường hợp hàng hóa giao
không đúng quy cách, phẩm chất với chứng từ hoặc với hợp đồng.
Rủi ro đối với ngân hàng trung gian thu hộ: Đối với các ngân hàng ngoài
sự cẩn trọng khi thực hiện đúng chỉ thị ủy nhiệm thu thì rủi ro chủ yếu mà ngân
hàng gặp phải là rủi ro tín dụng.
1.2.3.4. Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
Khi phát hành L/C là ngân hàng phát hành đã cam kết thanh toán cho người
thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với
các điều kiện và điều khản của L/C, do đó khi người mua không thanh toán hay
không muốn thanh toán L/C thì lúc này Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Rủi ro này
không thuộc về mối quan hệ tín dụng, vậy nên khi Ngân hàng nhận được thư yêu
cầu mở L/C, Ngân hàng cần xem xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có
thể có các phán quyết chính xác trước khi mở L/C.
Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
Đối với ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khóa
của Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong
thông báo L/C cho người xuất khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác
thực của L/C này, nếu trong việc này Ngân hàng thông báo không cẩn trọng sẽ dẫn
đến rủi ro cho Ngân hàng thông báo và người xuất khẩu.
Trang 19
Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu
Trong trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ
chứng từ không phát hiện ra sai sót hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện
thanh toán hoặc chiết khấu cho người bán Ngân hàng sẽ phải chịu mọi rủi ro nếu
Ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng
chiết khấu đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì Ngân hàng đó sẽ không có
quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên nhà nhập khẩu buộc phải
thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu, rủi ro thuộc về phía người mua nếu người
bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả mạo, người mua sẽ phải gánh chịu những
thiệt hại do lừa đảo từ phía người bán.
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: Chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được
những quy định của L/C nên việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối
thanh toán.
1.2.3.5. Rủi ro trong phương thức bồi hoàn bằng điện
Rủi ro lớn đến ngân hàng
Tuy phương thức này có bắt buộc mở L/C tức là đã có sự đứng ra bắt đầu
của ngân hàng tuy nhiên một rủi ro không thể tránh khỏi đó là việc ngân hàng thông
báo trả tiền cho người bán và việc ngân hàng mở L/C bồi hoàn tiền cho ngân hàng
thông báo đều dựa trên chứng từ, trong khi tình trạng thật giả của chứng từ (nếu
người bán cố tình làm bộ chứng từ giả) thì không thể kiểm tra được, khi người mua
phát hiện ra và không chịu thanh toán thì thiệt hại sẽ thuộc về ngân hàng. Hoặc khi
người mua từ chối nhận hàng vì nhiều lý do khác nhau, không trả tiền cho ngân
hàng thì ngân hàng cũng chịu thiệt.
Rủi ro đối với người nhập khẩu: trong phương thức thanh toán này do
người bán được nhận tiền sớm nên dễ có động cơ tiêu cực như giao hàng không
đúng như trong hợp đồng về chủng loại, số lượng và chất lượng…ảnh hưởng đến
việc kinh danh của người mua.
Trang 20
1.3. QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
Ở CÁC NHTM
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện, liên
tục và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những
tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro, đồng thời tìm cách biến rủi ro
thành những cơ hội thành công [11] .
Quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là:
- Dự kiến trước với chi phí nhỏ nhất các nguồn lực tài chính cần thiết trong
trường hợp có rủi ro xảy ra.
- Kiểm soát các rủi ro bằng cách loại bỏ, giảm nguy cơ hoặc di chuyển một cách
hợp lý rủi ro cho các đối tác kinh tế.
- Đo lường những hậu quả của rủi ro gây ra và dự kiến các biện pháp tổ chức
nhằm giảm tới mức thấp nhất thiệt hại về người và của đối với ngân hàng.
Như vậy, quản trị rủi ro trong hoạt động TTQT thực chất là những biện pháp
mang tính chủ động nhằm phát hiện, phòng ngừa, loại bớt, khoanh lại rủi ro để giảm
nhẹ tổn thất trên cơ sở tính toán và so sánh với chi phí quản trị rủi ro.
1.3.2. Nội dung quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế
1.3.2.1. Nhận dạng rủi ro có thế xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế
Nhận dạng rủi ro là việc xác định một danh sách các rủi ro mà ngân hàng có
thể gặp phải khi tiến hành hoạt động thanh toán quốc tế xuất phát từ những nguyên
nhân khách quan cũng như các nguyên nhân chủ quan. Danh sách các rủi ro càng
chi tiết và đầy đủ càng tốt cho hoạt động thanh toán quốc tế của các bên tham gia.
Để nhận dạng rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế, các nhà quản trị cần:
* Nghiên cứu nguồn rủi ro từ hoạt động thanh toán quốc tế
Trong quá trình tiến hành các hoạt động thanh toán thông thường các ngân
hàng phải đối mặt với các nguồn rủi ro sau đây:
- Rủi ro phát sinh từ phía khách hàng
- Xem thêm -