Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Kế toán - Kiểm toán Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các dn chế biến lúa gạo của cần thơ...

Tài liệu Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các dn chế biến lúa gạo của cần thơ

.PDF
238
120
73

Mô tả:

1  MỞ ĐẦU  I. LÝ DO NGHIÊN CỨU  Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97  triệu ha (chiếm khoảng 12%  diện  tích đất  của  cả  nước), dân  số  trên 17,7  triệu người,  chiếm hơn 20% dân  số  cả  nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản  xuất hơn 50%  sản lượng  lúa  và hơn 90%  lượng gạo  xuất  khẩu của  cả  nước,  thu  về  nguồn  ngoại  tệ  khoảng 2,7  tỉ  USD/năm.  Vì  vậy,  có  thể  khẳng định  sản xuất  và chế  biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần  rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, là tiền đề cho quá trình  công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.  Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của  nhiều  tuyến  giao thông  thủy,  bộ  và hàng  không quan trọng. Có hai  con  sông  lớn  là  sông  Tiền  và  sông  Hậu  trải dài  khắp  các  tỉnh,  thành  trong  vùng, hệ  thống các  cảng  biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần Thơ, đặc biệt là có kênh Quan Chánh  Bố cho tàu trọng tải lớn ra vào sông Hậu đã được khởi công vào năm 2009 và dự kiến  hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 1A đi từ TP. HCM đến Cần Thơ và đến tỉnh Cà  Mau, nơi tận cùng của tổ quốc; các tuyến quốc lộ từ Cần Thơ đi đến các tỉnh Vĩnh  Long,  Sóc  Trăng,  Đồng  Tháp,  Kiên  Giang,  An  Giang  hướng  về  Phnôm  Pênh  (Campuchia); cùng với đó là sân bay Cần Thơ được đầu tư nâng cấp để trở thành sân  bay quốc tế, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011. Với những lợi thế trên,  thành phố Cần Thơ có đủ điều kiện để phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo và trở  thành trung tâm chế biến lúa gạo của vùng ĐBSCL.  Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ  đã có những bước phát triển đáng khích lệ như: giá trị sản xuất kinh doanh của năm  sau đều  tăng  cao  so  với năm  trước,  kim  ngạch  xuất  khẩu  gạo  tăng  trưởng  khá  cao  trong nhiều năm liền, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chất lượng và mẫu mã sản 2  phẩm ngày càng được cải tiến, qua đó đã góp phần làm nâng cao hiệu quả kinh doanh  của các doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người trồng lúa.  Tuy vậy, nếu so với những tiềm năng và  yêu cầu của quá trình hội nhập kinh  tế quốc tế thì các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ còn rất nhiều  hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nhỏ, các doanh nghiệp  còn  gặp  khó  khăn  về  vốn,  chất  lượng  nguồn  nhân  lực  chưa  cao,  trong  khi  trình  độ  công  nghệ  còn  thấp;  công  tác  nghiên  cứu  thị  trường,  quảng  cáo,  xây  dựng  thương  hiệu chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua tranh bán  giữa  các doanh nghiệp  với nhau  vẫn  còn diễn ra;  vấn  đề ô nhiễm môi  trường  trong  sản xuất và chế biến đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái tự nhiên  và đời sống của người dân. Vì vậy, để hội nhập với kinh tế quốc tế, nhất là sau khi  Việt  Nam  đã gia  nhập  Tổ  chức  thương  mại  thế  giới  (WTO),  các  doanh nghiệp chế  biến  lúa gạo  của thành phố Cần Thơ cần phải có chiến lược phát triển dài hạn, bền  vững, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có, khắc phục những yếu kém, tồn  tại  của  mình nhằm nâng  cao năng  lực  sản  xuất  kinh  doanh,  thúc đẩy  kinh  tế  xã hội  phát triển và góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là đối với người trồng  lúa. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020”  để làm luận án tiến sĩ nhằm góp phần phát triển bền vững các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo trong thời gian tới và sự phát triển đó sẽ góp phần  thúc đẩy quá trình  công  nghiệp hóa ­ hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thành phố.  II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  1. Mục tiêu chung  Mục tiêu chung của luận án là khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh  doanh lúa gạo, cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để thấy được vai trò  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của thành phố  Cần Thơ và toàn vùng ĐBSCL hiện nay. Thông qua những kết quả điều tra, luận án  đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành  phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp 3  nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố  Cần Thơ đến năm 2020.  2. Mục tiêu cụ thể  Để giải quyết mục tiêu chung, luận án nghiên cứu ba mục tiêu cụ thể sau:  ­  Thứ  nhất:  Khái  quát  tổng  quan  về hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  lúa  gạo,  cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển sản xuất  kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo là phù hợp với tình hình thực tiễn và  quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ  chức thương mại thế giới (WTO).  ­  Thứ  hai:  Thông  qua  kết  quả  điều  tra,  phân  tích  thực  trạng  sản  xuất  kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành phố Cần Thơ. Từ đó, đánh giá những  thành công và hạn chế của các doanh nghiệp trong thời gian qua.  ­ Thứ ba: Đề xuất các giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh các doanh  nghiệp chế biến  lúa gạo  của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 nhằm góp phần vào  việc thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố và cả vùng phát triển một cách bền vững.  III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU  1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là quá trình  hình thành và phát triển  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.  2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Là các doanh nghiệp  chế biến  lúa gạo  trên địa bàn TP. Cần Thơ. Số liệu nghiên cứu của luận án tập trung từ năm 2000 đến  năm 2009, các giải pháp đề xuất sẽ được áp dụng từ nay đến năm 2020, giai đoạn mà  nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp để cơ bản trở thành một nước công nghiệp  hóa, hiện đại hóa.  IV. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI  Thời gian qua, việc nghiên cứu ngành hàng lúa gạo đã được nhiều tác giả quan  tâm. Do những hạn chế về thông tin và điều kiện nghiên cứu, dưới đây tác giả xin nêu  một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án. 4  ­  Tác  giả  Nguyễn  Công  Thành  (2010),  Viện  lúa  ĐBSCL,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá và phát triển sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và tập huấn nâng  cao  nhận  thức  cho  các  thành  viên  trong  hoạt  động  này  tại  tỉnh  Hậu  Giang”,  đã  phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và thực trạng về nhận thức  của tất cả các thành viên có liên quan. Từ đó tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và sự  hiểu  biết  của họ  để  đẩy  mạnh  hoạt  động  sản  xuất,  xuất  khẩu  lúa  gạo  của  tỉnh  Hậu  Giang trong thời gian tới.  Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng đã điều tra và phân tích chiều  hướng phát triển, tốc độ tăng trưởng, sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu lúa gạo;  hiện  trạng  về  sản  xuất  và  xuất  khẩu;  thuận  lợi  và  khó  khăn  của  nông  dân,  cán  bộ  khuyến  nông,  thương  lái  và nhà  xuất  khẩu;  hiện  trạng  về  sự  nhận  thức  của  cán  bộ  khuyến  nông,  nông  dân  và  các  thành  viên  trong  hệ  thống  thu  mua,  chế  biến,  xuất  khẩu lúa gạo.  Từ những nội dung nghiên cứu trên đề tài đã xây dựng các giải pháp thiết thực  nhằm  tham  mưu  cho  chính  quyền  địa  phương  trong  việc  điều  chỉnh  chính  sách  và  hoạt động để phục vụ tốt hơn  cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và cải thiện đời sống  người nông dân. Đây là đề tài nghiên cứu một cách tổng hợp từ sản xuất đến tiêu thụ  lúa gạo, đối tượng nghiên cứu bao gồm nông dân, cán bộ khuyến nông, thương lái và  nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này không có phân tích và không có đưa  ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [37].  ­  Tác  giả  Cao  Minh  Nghĩa  (2005),  Viện  Kinh  tế  TP.HCM,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp chế  biến  thực  phẩm  trên  địa  bàn  TP.HCM”,  đã  đánh  giá  rõ  thực  trạng  phát  triển  của  ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố, phân tích sâu những  lợi thế và tồn tại trong phát triển của ngành, nguyên nhân của những tồn tại, đặc biệt  là các nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành chế biến thực phẩm và làm  giảm tỷ trọng của ngành so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong các năm 2003  và 2004. Qua đó định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong  thời gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển ngành cho 5  tương xứng với vị trí của ngành trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn  thành phố Hồ Chí Minh.  Các nội dung được đề cập đến trong đề tài này bao gồm: phân tích thực trạng  tăng trưởng ngành CNCB thực phẩm của TP. HCM giai đoạn 1995 ­ 2004 và đưa ra  các so sánh với cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phân tích thực trạng  tăng  trưởng  bảy  ngành  chế  biến  thực  phẩm  trên  địa  bàn  thành  phố  như:  ngành  chế  biến thịt, chế biến thủy hải sản, chế biến dầu thực vật, chế biến bơ, sữa, sản xuất sản  phẩm  từ  tinh  bột  (mì  ăn  liền),  sản  xuất  bánh,  kẹo,  sản  xuất  rượu,  bia,  nước  uống  không cồn.  Từ những phân  tích đó,  tác  giả đã  đề  xuất hệ  thống 9 giải pháp để nâng cao  năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các kiến nghị với Chính phủ, Bộ, ngành để đẩy  mạnh tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm nêu trên. Tuy nhiên, đề tài đã không  sử dụng phương pháp phân tích SWOT và phương pháp chuyên gia để phân tích, để  trên  cơ  sở  đó đưa  ra  các  hệ thống  giải  pháp.  Vì  đây  là  đề  tài  nghiên  cứu  về ngành  CNCB thực phẩm nên trong đề tài không có nghiên cứu về chế biến lúa gạo [20].  ­  Tác  giả  Lê  Văn  Gia  Nhỏ  (2005),  trong  công  trình  nghiên  cứu  “Phân  tích  ngành  hàng  lúa  gạo  thơm  tỉnh  Long  An  và  lúa  gạo  cao  sản  tỉnh  An  Giang”,  đã  phân tích  hiệu quả kinh doanh của các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo, phân  tích tác động chính sách của Chính phủ đến ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, đánh giá  lợi  thế  so  sánh  của bốn nhóm mặt hàng  gạo xuất  khẩu:  gạo  thơm đặc sản,  gạo chất  lượng cao, gạo chất lượng trung bình và gạo chất lượng thấp, từ đó đề xuất các chính  sách hỗ trợ quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo.  Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, nông dân là đối tượng đạt được lợi  ích  nhiều  nhất  trong  các  tác  nhân  tham  gia  ngành  hàng  lúa  gạo.  Bên  cạnh  đó,  các  chính sách của Nhà nước liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo gần như  không  ảnh hưởng  đáng  kể đến  lợi nhuận  của các  tác  nhân  tham  gia  trong quá  trình  sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, việc sản xuất và xuất  khẩu gạo của Việt Nam có lợi thế so sánh cao, đặc biệt là nhóm gạo thơm đặc sản và  nhóm gạo chất lượng cao. 6  Từ những phân  tích đó,  tác  giả  đã  đề  xuất  ba  chính  sách đối  với  Chính phủ.  Một là, tập trung vào việc phát triển vùng nguyên liệu và chế biến xuất khẩu gạo đặc  sản và  gạo chất  lượng  cao. Hai  là,  khuyến  khích  tư nhân  tham  gia  xuất  khẩu nhằm  làm tăng khả năng cạnh tranh trong thị trường thu mua lúa gạo và tăng khả năng tìm  kiếm thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới. Ba là, các chính sách liên quan đến vấn  đề quota xuất khẩu, đó là: tổ chức đấu thầu quota xuất khẩu và Chính phủ sử dụng  khoản thu từ đấu thầu này để hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho sản xuất, chế biến và  xuất khẩu, đồng thời cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp nhu cầu  xuất khẩu gạo lớn hơn hạn ngạch nhưng phần xuất khẩu vượt trội này phải chịu thuế  xuất  khẩu.  Tuy  nhiên,  trong  đề  tài  này,  tác  giả  đã  không  phân  tích  thực  trạng  và  không đưa ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [21].  ­ Tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2008), trong công trình nghiên cứu “Phân tích  chuỗi giá trị gạo của thành phố Cần Thơ, đã phân tích về doanh thu, chi phí và hiệu  quả sản xuất, kinh doanh của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị gạo, gồm có:  nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ. Đồng thời,  tác giả đã phân tích kinh tế chuỗi giá trị gạo ở hai trường hợp: gạo tiêu thụ nội địa và  gạo  xuất  khẩu.  Trong  công  trình  nghiên  cứu  có  sử  dụng  phương  pháp  phân  tích  SWOT về tình hình sản xuất lúa của nông dân, phân tích mô hình năm áp lực cạnh  tranh của Michael Porter đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo, phân  tích lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Cần Thơ cũng được tác  giả đề cập đến.  Kết quả nghiên cứu cho thấy, dù gạo tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, lợi ích của  người nông dân đạt được trên mỗi kg gạo nhiều hơn so với những tác nhân còn lại.  Tuy nhiên, đời sống của bà con nông dân vẫn còn nghèo, nguyên nhân chủ yếu là do  diện tích đất canh tác ít (bình quân 0,5 ha/hộ). Trong khi đó, thương lái, doanh nghiệp  chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ có lợi ích đạt được trên mỗi kg gạo thấp hơn  nông dân nhưng do không bị giới hạn tự nhiên về sản lượng tiêu thụ, năng lực tốt thì  tiêu thụ nhiều, năng lực không tốt thì tiêu thụ ít cho nên tổng lợi nhuận họ có thể thu  về  là  rất  lớn.  Bên  cạnh  đó,  nghiên  cứu  cũng  chỉ  ra  rằng,  trong  tình  hình  hiện  nay 7  chuỗi giá trị gạo xuất khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa. Chính vì  vậy,  các  doanh  nghiệp  chế  biến,  xuất  khẩu  gạo  quan  tâm  tìm  kiếm  hợp  đồng  xuất  khẩu nhiều hơn là khai thác thị trường nội địa.  Từ những phân tích trên, tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao chuỗi giá trị  gạo của thành phố Cần Thơ, bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, giải  pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chế biến, phân phối và giải pháp nâng cao giá  trị tăng thêm cho toàn chuỗi.  Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích chuỗi giá trị gạo của thành phố  Cần Thơ cho nên trong phần phân tích thực trạng tác giả không nghiên cứu sâu  vào  hoạt động chế biến, mà chỉ trình bày khái quát làm cơ sở bổ sung để đề xuất một số  giải pháp nâng cao chuỗi giá trị gạo [6].  ­ Tác giả  Diệp Hoàng Sơn (2008), trong công trình nghiên cứu “Hoạch định  chiến  lược  marketing  mặt  hàng  gạo  xuất  khẩu  đồng  bằng  sông  Cửu  Long”,  đã  phân tích, đánh  giá  các nội dung  như: đánh  giá  tình hình  sản xuất  lúa  gạo  khu  vực  ĐBSCL, phân  tích hiện  trạng chế biến  và  kinh doanh  gạo  xuất khẩu  của  các doanh  nghiệp đóng trên địa bàn, tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ gạo trên thế giới và xây  dựng chiến lược marketing xuất khẩu gạo.  Kết quả của công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng  sản xuất  lúa  gạo,  đủ cung  cấp nhu  cầu  an ninh lương  thực  trong  nước  và  có  dư  để  xuất  khẩu  từ  4  đến  4,5  triệu  tấn  gạo  đến  năm  2015,  Việt  Nam  xếp  hạng  trên  trung  bình so với các nước xuất khẩu gạo, nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới trong thời gian  tới rất cao nên sẽ thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam.  Tuy nhiên, sản xuất lúa ở đây vẫn còn manh mún, nguồn nguyên liệu mang tính thời  vụ cao, hệ thống kho bãi dự trữ thiếu, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp  kinh doanh xuất khẩu gạo chưa được xây dựng hoàn chỉnh và nghiêm túc, hệ thống  thông tin chưa hoàn thiện.  Trên  cơ  sở  của  những  đánh  giá  đó,  tác  giả  tiến  hành  xây  dựng  chiến  lược  marketing  hỗn hợp, bao  gồm:  sản phẩm, giá  cả, phân phối  và  chiêu  thị.  Đồng  thời, 8  kiến nghị một số giải pháp cần phối hợp đồng bộ các thành phần: nông dân sản xuất  lúa, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, hệ thống tín dụng và Nhà nước [25].  Qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng chưa có một công trình  nào nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống và đề xuất các giải pháp có tính chiến  lược nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.  V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đề tài sẽ được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát  triển khách quan  về kinh tế  ­ xã hội, các  quan điểm  và  chính sách của Nhà nước về  lĩnh vực lúa gạo.  Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê  mô tả, phân tích thống kê, so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra và phương pháp  chuyên gia.  VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN  Luận án là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên  cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học sau:  ­ Một là, rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển sản xuất  kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong thời gian tới.  ­  Hai  là,  góp  phần đánh  giá  thực  trạng  phát  triển  của  các  doanh  nghiệp  chế  biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Qua đó, rút ra  được những điểm mạnh, điểm  yếu,  cơ  hội  và  thách  thức  của  các doanh nghiệp chế  biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước nói chung và TP. Cần Thơ  nói riêng.  ­ Ba là, đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi để phát triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ nhanh và bền vững; trên cơ sở  khai thác một cách hợp lý các nguồn nguyên liệu của địa phương và vùng ĐBSCL.  ­ Bốn là, xác định được mức độ quan trọng của các giải pháp, nhằm giúp các  danh nghiệp chế biến  lúa  gạo  của TP.  Cần  Thơ  xây  dựng  chiến  lược phát triển  sản 9  xuất kinh doanh đến năm 2020. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn làm tài liệu tham  khảo bổ  ích  cho  các nghiên  cứu  khoa  học  liên  quan  đến  lĩnh  vực  chế  biến  của  các  ngành hàng khác trong vùng ĐBSCL và cả nước.  VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN  Kết cấu của luận án gồm 03 chương ngoài phần mở đầu và kết luận:  Chương 1: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp  chế biến lúa gạo.  Chương 2: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.  Chương 3: Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020.  Vì thời gian và trình  độ của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên luận án không  thể tránh được những thiếu sót nhất định, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và  các bạn. 10  CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  Với  phương pháp  nghiên  cứu  nêu  ở phần mở đầu,  chương  1  sẽ  trình bày sự  hình thành và phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, đặc điểm hoạt động  sản xuất kinh doanh, vai trò của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, cũng  như  những  nhân  tố  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh  nghiệp. Trong chương này, cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh  doanh lúa gạo của một số  doanh nghiệp trong nước và trên thế giới nhằm rút ra các  bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng cho các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của  thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.  1.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với  xã hội loài người; mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị  trường  và  đưa  ra  những  chiến  lược  đúng  đắn  nhằm  đạt  được  những  mục  tiêu  mà  doanh nghiệp đã đề ra.  Hoạt động sản xuất kinh doanh có các đặc điểm sau:  ­ Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh tế, chủ thể kinh tế có thể là  cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.  ­ Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của  hoạt động sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải  để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận.  ­ Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được,  đó là sản phẩm hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Người chủ thể sản xuất phải chịu  trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra. 11  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới thị trường. Trong đó, các  chủ thể kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là: quan hệ với các bạn hàng,  với chủ thể cung cấp các yếu tố đầu vào, với khách hàng, với các đối thủ cạnh tranh  và với Nhà nước. Các mối quan hệ này giúp cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản  xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.  ­  Hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  phải  luôn  nắm  được  các  thông  tin  về  sản  phẩm của doanh nghiệp trên thị trường như các thông tin về số lượng, chất lượng, giá  cả sản phẩm, thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng, thông tin về kỹ thuật  công nghệ, về chính sách kinh tế tài chính, pháp luật Nhà nước có liên quan đến sản  phẩm của doanh nghiệp.  ­  Hoạt động  sản  xuất kinh  doanh phải  có  sự vận động  của đồng  vốn:  Vốn  là  yếu tố có vai trò quyết định rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở đánh  giá  tiềm  lực  của doanh nghiệp.  Không  có  vốn  thì  không  thể  có hoạt động  sản  xuất  kinh doanh. Chủ thể kinh tế sử dụng vốn để mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất, thuê  lao động,…  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng  xã  hội,  tạo điều  kiện  cho  tích  lũy vốn phát  triển  sản  xuất, phát  triển kinh  tế  xã hội,  phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ giao lưu hàng hóa, tạo ra sự phân công  lao động xã hội và cân bằng cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế.  ­ Mục đích chủ yếu và bao trùm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đó là  lợi nhuận.  Từ những đặc điểm  của hoạt động sản xuất kinh doanh  nêu trên, có thể hiểu  khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh:  Hoạt động sản xuất kinh doanh là các hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn  tại nền kinh tế thị trường, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương  tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao  gồm  quá  trình  đầu  tư,  sản  xuất,  vận  tải,  thương  mại,  dịch  vụ,...)  trên  cơ  sở  vận  dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời  nhiều nhất [1]. 12  1.2. SỰ HÌNH THÀNH  VÀ  PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ  BIẾN LÚA GẠO  Theo chiều dài lịch sử, lúc đầu nền kinh tế của mỗi nước đều là nền kinh tế tự  nhiên, mang nặng tính tự cấp, tự túc, đa số sống bằng nghề nông. Ngoài việc trồng  trọt, chăn nuôi, đánh bắt, khai thác để có sản phẩm, người nông dân đã tự mình bảo  quản, chế biến, thậm chí tự mình chế tạo ra cả công cụ lao động. Trong dân cư hầu  như không có hoặc có rất ít sự phân công lao động xã hội và sự trao đổi sản phẩm.  Dần  dần,  lực  lượng  sản  xuất  và  năng  suất  lao  động  tăng  lên  xuất  hiện  sản  phẩm thừa  và do những  yêu  cầu  của  cuộc sống dẫn đến nhu  cầu  trao đổi  sản phẩm  thừa đó với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất và thúc đẩy sự phân công xã hội.  Sự hình thành các loại lao động sản xuất đã làm cho sản phẩm của từng loại lao động  đó chuyển thành hàng hóa, thành những vật ngang giá với nhau, dùng làm vật phẩm  trao  đổi  với  nhau  và  hình  thành  thị  trường.  Kinh  tế hàng  hóa  phát  triển,  thị  trường  từng bước mở rộng ra, đưa đến chỗ ngày tăng thêm những ngành công nghiệp riêng  biệt tách ra khỏi nông nghiệp. Theo đó, CNCB tách ra trở thành một ngành kinh tế  độc lập. Ngành này có mặt ở các hoạt động chế biến khác nhau, tạo ra nhiều loại sản  phẩm hàng hóa đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau  và chính từ đây ngành CNCB các  sản  phẩm  từ  nông  nghiệp  như:  lúa  gạo,  lúa  mì,  ngũ  cốc,  hoa  quả,…  đã  được  hình  thành.  Như vậy, sự hình thành và phát triển của CNCB nói chung, CNCB lúa gạo nói  riêng là do quá trình phân công lao động xã hội dưới tác động của quá trình phát triển  lực lượng sản xuất được diễn ra ở một số quốc gia trên thế giới.  Ngày nay, trong điều kiện thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học công  nghệ, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ; trình  độ lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động ở mức rất cao, mọi lĩnh vực trong nền  kinh tế của các nước đều chịu tác động sâu sắc bởi các nhân tố quốc tế, thì sự hình  thành và phát triển CNCB ở mỗi nước cũng không thể tách rời các tác động quốc tế  đó. Chính nhờ những tác động đó, các nước đi sau có điều kiện “đi tắt”, rút ngắn các  giai đoạn phát triển CNCB hơn so với các nước đi trước. 13  Ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những  kết quả đáng kể. Lúa gạo làm ra không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mỗi gia  đình, mỗi địa phương mà còn thừa một khối lượng lớn để bán đi nơi khác. Để phục  vụ cho việc sản xuất lúa gạo, nghề đóng cối xay ra đời ở khắp các vùng trong cả nước  và phát triển rất nhanh cho đến khi người Pháp nắm độc quyền ngành xay xát lúa gạo  với những nhà máy xay xát lúa gạo hiện đại ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX.  Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nhà  máy xay xát lúa gạo phát triển rất nhanh, nó không dừng lại ở hoạt động xay xát mà  còn  thêm  vào  đó  các  công  đoạn  khác  như:  đánh  bóng  gạo, phân  loại hạt  gạo, phân  loại gạo với tấm và cám, đóng gói, bảo quản,… Với sự bổ sung những công đoạn đó  thì các nhà máy xay xát lúa gạo trở thành các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.  Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều ưu thế vượt trội so  với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo,  mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường  không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn luôn gắn kết với sự ổn định kinh tế,  chính trị xã hội đối với sự  phát triển của đất nước. Để nâng cao sức cạnh tranh của  mặt hàng lúa gạo, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng. Có  thể nói sau hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, thời gian tới sẽ là giai đoạn phát  triển nhanh chóng của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo, sự phát triển này sẽ theo  các xu hướng như:  ­ Các doanh nghiệp  chế biến lúa gạo  sẽ phát triển theo mô hình khu liên hợp  chế biến lúa gạo để nâng cao chất lượng sản phẩm sau chế biến. Khu liên hợp sẽ thực  hiện tất cả các chức năng từ sấy lúa cho đến xay xát, chế biến và tồn trữ lúa gạo. Các  công nghệ được  sử  dụng  trong  khu  liên  hợp  này  là  những  công  nghệ  hiện đại, đáp  ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trong nước và quốc tế.  ­  Các  doanh nghiệp  sẽ  gắn  kết  với  nông dân  sản  xuất lúa để  xây  dựng vùng  nguyên liệu cho doanh nghiệp nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và hướng tới phát  triển một cách bền vững. 14  ­ Các doanh nghiệp phát triển theo hình thức Công ty cổ phần; trong đó, nông  dân, các hợp tác xã nông nghiệp sẽ là những cổ đông của công ty nhằm góp phần làm  nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo [28].  1.3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH  NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  1.3.1. Quy trình chế biến lúa gạo  Quy trình chế biến lúa gạo hiện nay được thể hiện ở biểu đồ 1.1 dưới đây:  Lúa  nguyên liệu  Sàng tạp  chất  Bóc vỏ  Thùng rê  Sàng  phân ly  Sàng tách  đá  Cân,  Đóng gói  Máy  tách màu  Thùng chứa  thành phẩm  Trống  chọn hạt  Máy  đánh  bóng  Máy sát  trắng  Nguồn: Khảo sát của tác giả tại Công ty Nông nghiệp Sông Hậu, 2009  Biểu đồ 1.1: Sơ đồ quy trình chế biến lúa gạo  Lúa nguyên liệu sau khi qua sàng tạp chất để tách các tạp chất như rác, dây,  kim loại sẽ qua hệ thống bóc vỏ (vỏ lúa còn gọi là trấu), kế tiếp lúa sau khi bóc vỏ sẽ  được đưa qua thùng rê rồi đến sàng phân ly và sàng tách đá … Tiếp theo, qua công  đoạn xát  trắng để  tách bớt lượng  cám  trước  khi  vào hệ  thống máy  đánh bóng nước  kiểu phun sương nhằm cải thiện độ bóng bề mặt gạo. Kế tiếp, gạo được đưa vào hệ  thống  trống phân  loại hạt  theo  chiều dài để phân  ly  thành  từng  loại như:  gạo  thành  phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3 và đưa vào các silo chứa riêng biệt. Tại đây, tùy theo yêu  cầu, gạo được đưa qua máy tách màu điện tử để loại ra các tạp chất màu lẫn trong gạo  như hạt đen, hạt đỏ, hạt vàng, hạt bạc bụng. Cuối cùng, gạo thành phẩm sẽ vào thiết  bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng cho trước để xuất kho.  Quy trình công nghệ nói trên là quy trình điển hình, tiên tiến. Đây là quy trình  khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm, mức độ tự động hóa cao, dễ vận  hành, thu được gạo thành phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu và hoàn toàn có  khả năng cạnh tranh được với các sản phẩm gạo hiện có trên thị trường thế giới. 15  Hiện nay, một số doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ đã  đầu tư trang bị các thiết bị chế biến lúa gạo tiên tiến của các hãng sản xuất có uy tín  như Bùi Văn Ngọ, Sinco, Satake,... Thiết bị chế biến lúa gạo của các hãng này có độ  tin cậy cao, sản phẩm qua chế biến đạt những yêu cầu cơ bản như độ xát trắng, tỷ lệ  thóc,  tỷ  lệ  tấm, độ  ẩm, hạt màu, độ đồng đều,  vệ  sinh  và hạn  chế  tối  thiểu  tạp chất  trước khi đóng gói.  1.3.2. Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Nguyên  liệu  sử  dụng  trong  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  gồm  có  lúa  hàng hóa và gạo bán thành phẩm, do đó để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định thì  vấn đề quy hoạch vùng sản xuất lúa và quy hoạch diện tích đất trồng lúa có ý nghĩa  rất quan trọng.  (1)  Nguồn  nguyên  liệu  là  lúa  hàng  hóa:  Lúa  được  người  nông  dân  trồng  ở  khắp các tỉnh, thành trong cả nước, với sản lượng hàng năm đạt gần 40 triệu tấn và  vùng ĐBSCL là nơi sản xuất lượng lúa hàng hóa lớn nhất của cả nước, với sản lượng  hàng năm đạt trên 20 triệu tấn.  Bảng 1.1: Sản lượng lúa cả năm vùng ĐBSCL và cả nước giai đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: Tấn  Nơi sản xuất  2005  2006  2007  2008  2009  1/ Vùng ĐBSCL  19.385.620  18.075.036  19.221.771  21.166.627  20.483.400  2/ Cả nước  35.832.900  35.849.500  35.942.700  38.729.800  38.895.500  Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010 [26]  (2)  Nguồn  nguyên  liệu  là  gạo  bán  thành  phẩm:  Gạo  bán  thành  phẩm  được  cung cấp bởi các nhà máy xay xát lúa gạo có quy mô nhỏ. Lúa sau khi trãi qua các  công đoạn như sàng tạp chất và bóc vỏ thì được gọi là gạo bán thành phẩm (hay còn  gọi là gạo nguyên liệu). Từ gạo nguyên liệu, sẽ qua các nhà máy chế biến có quy mô 16  lớn hơn để thực hiện các công đoạn tiếp theo cho đến công đoạn cuối cùng là đóng  gói và được gọi là gạo thành phẩm để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.  1.3.3. Máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Các máy và móc thiết bị chủ yếu của doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm:  ­ Máy làm sạch lúa: Đây là máy thực hiện công đoạn đầu tiên của quá trình chế  biến, nó có nhiệm vụ loại bỏ các tạp chất như: đá, rơm rạ, kim loại,... lẫn trong lúa để  làm sạch lúa trước khi đi vào chế biến.  ­ Máy bóc vỏ: Lúa sau khi qua công đoạn làm sạch sẽ qua máy bóc vỏ để tách  lớp thóc bên ngoài của hạt lúa, đây là công đoạn rất quan trọng của quá trình chế biến,  nó có  ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo như ảnh hưởng  số lượng hạt bị gãy, số  lượng tấm sau khi bóc vỏ.  ­  Máy  xát  trắng: Lúa  sau  khi  bóc  vỏ  sẽ qua công đoạn  xát  trắng để  tách bớt  lượng cám ở trong hạt gạo trước khi đánh bóng.  ­ Máy đánh bóng: Máy đánh bóng có chức năng làm cho hạt gạo trắng bóng,  giúp nâng cao chất lượng và giá trị của hạt gạo.  ­ Máy phân loại hạt: Máy phân loại hạt có chức năng phân loại gạo thành các  loại như gạo thành phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3.  ­  Máy  tách  màu:  Sau  khi  phân  loại  gạo  với  các  loại  tấm,  gạo  được  đưa  qua  máy tách màu để loại ra các tạp chất màu còn lẫn trong gạo như: hạt đen, hạt đỏ, hạt  vàng, hạt bạc bụng.  ­ Thiết bị cân và đóng gói: Sau các công đoạn nêu trên, cuối cùng gạo thành  phẩm sẽ  qua  thiết bị  cân  và đóng  gói  tự động  theo  yêu  cầu  trọng  lượng để  tiêu  thụ  trên thị trường.  Như vậy, máy móc và thiết bị chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm  có: máy sàng tạp chất, máy bóc vỏ, máy xát trắng, máy đánh bóng, máy phân loại hạt,  máy tách màu, thiết bị cân tự động và đóng gói.  Hiện nay, các máy móc  và  thiết bị này có trên thị trường khá đa dạng  về mẫu  mã, tính năng sử dụng và trình độ về công nghệ là khá hiện đại. Do vậy, để tạo ra sản 17  phẩm gạo đạt chất lượng cao, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đổi mới máy móc,  thiết bị và công nghệ một cách hợp lý.  1.3.4. Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Lao  động  trong  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  có  thể  chia  làm  03  nhóm  chính:  (1) Nhóm cán bộ quản lý và kinh doanh: Do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế  ngày  càng  cao, do đó  cán bộ quản  lý  và  kinh  doanh phải có  trình  trình quản  lý của  người CEO, phải có hiểu biết về kinh doanh trong môi trường toàn cầu hóa. Vì vậy,  các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ  này mới đáp ứng được yêu cầu của công việc, chứ không thể tuyển dụng mới là có thể  sử dụng được ngay.  (2) Nhóm kỹ sư kỹ thuật và công nhân kỹ thuật bậc cao: Đây là các kỹ sư, công  nhân  kỹ  thuật  bậc  cao  của  các  ngành  cơ  khí,  điện,  công  nghệ,…  những  người  này  thường đảm đương công tác tại bộ phận kỹ thuật, chuyên phụ trách các công việc về  cơ khí, điện, vận hành và sửa chữa các máy móc, thiết bị trong các phân xưởng chế  biến.  Ngày  nay,  với  yêu  cầu  đổi  mới  công  nghệ  theo  hướng  hiện  đại,  đòi  hỏi  lực  lượng  lao động này  phải  thường  xuyên  được đào  tạo để nâng  cao  trình  độ  tay  nghề  nhằm  theo  kịp  với  xu  hướng  phát  triển  rất  nhanh  về  khoa  học  công  nghệ  như  hiện  nay.  (3) Nhóm công nhân lao động phổ thông: Những lao động này thường làm các  công việc liên quan nhiều đến chân tay như đóng gói, bốc xếp, quản lý kho tàng, bến  bãi,… các lao  động này thường không đòi hỏi cao về trình  độ chuyên môn, chỉ  yêu  cầu có sức khỏe tốt, nhiệt tình trong công việc. Công tác đào cho lực lượng lao động  này khá đơn giản, chỉ là đào tạo nghiệp vụ cho các công việc thường làm hàng ngày  và trong thời gian ngắn hạn.  1.3.5. Vốn trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  phụ  thuộc vào thời vụ sản xuất lúa, trong năm có hai mùa vụ lúa chính, đó là: Đông Xuân  và Hè Thu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động rất lớn để 18  thu  mua  lúa  nguyên  liệu  nhằm  giúp  cho  các  doanh nghiệp  chủ  động  hơn  trong  quá  trình sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp có quy mô sản  xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới  máy móc, thiết bị các doanh nghiệp này cần phải có một lượng vốn khá lớn (có thể  lên đến hàng  chục  tỷ  đồng), nhưng hiện  tại  đa  phần  các  doanh  nghiệp đều  gặp  khó  khăn về vốn.  1.3.6. Thị trường của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm thị trường  trong nước và nước ngoài.  1. Đối với thị trường trong nước: Việt Nam có dân số khoảng 87 triệu người,  hàng năm tiêu dùng ước khoảng 17 triệu tấn gạo, đây là thị trường rất rộng lớn và ổn  định của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo. Dự báo trong thời gian tới thị trường tiêu  thụ trong nước sẽ tăng lên rất nhanh, nguyên nhân là do dân số tăng (ước đạt khoảng  100 triệu người vào năm 2020) và do các ngành CNCB khác phát triển rất nhanh, mà  các ngành này sử dụng lúa gạo là nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất.  Hiện nay, với sản lượng lúa hàng năm đạt khoảng 39 triệu tấn (tương đương 23  triệu tấn gạo), ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đảm bảo an ninh lương  thực quốc gia thì chúng ta vẫn còn dư trên dưới 6 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.  2.  Đối  với  thị  trường  nước  ngoài:  Thị  trường  xuất  khẩu  gạo  của  các  doanh  nghiệp  Việt  Nam  gồm  nhiều  nước  ở  nhiều  châu  lục  khác  nhau  như:  Châu  Á,  Châu  Âu, Châu Phi, Trung Đông (xem bảng 1.2). Trong năm 2009, các doanh nghiệp của  Việt  Nam  đã  xuất  khẩu hơn 5,95  triệu  tấn gạo, đạt  kim ngạch  xuất  khẩu gần 2,7 tỷ  USD, chiếm khoảng 15% thị phần của thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Trong đó,  các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã xuất khẩu được  557 ngàn tấn, đạt kim ngạch trên 240 triệu USD.  Dự  báo  trong  thời  gian  tới  thị  trường  xuất  khẩu  gạo  chủ  yếu  của  các  doanh  nghiệp Việt Nam vẫn là các nước ở khu vực Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và một số  nước ở khu vực Trung Đông. 19  Bảng  1.2:  Cơ  cấu  thị  trường  xuất  khẩu  gạo  của  doanh  nghiệp  Việt  Nam  giai  đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: %  Năm  Stt  Thị trường  2005  2006  2007  2008  2009  1  Châu Á  49,8  48,9  56,9  74,4  55,2  2  Châu Phi  43,9  43,3  27,9  15,2  24,3  3  Châu Âu  5,2  0,7  5,1  6,3  13,1  4  Trung Đông  1,1  6,8  7,1  2,1  4,8  5  Châu Mỹ  0,0  0,0  2,9  0,1  1,4  6  Châu Đại Dương  0,0  0,2  0,1  1,8  1,2  Nguồn: Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, 2010 [29]  1.4.  VAI  TRÒ  CỦA  CÁC  DOANH  NGHIỆP  CHẾ BIẾN  LÚA  GẠO ĐỐI  VỚI  NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN  1.4.1. Cung cấp và đảm bảo an ninh lương thực  Tất cả người dân Việt Nam đều sử dụng lúa gạo làm lương thực chính, từ gạo  có  thể  chế  biến  thành  các  sản  phẩm  khác  như  bột,  phở,  bún  và  rất  nhiều  loại  thực  phẩm  khác được  làm  từ  gạo.  Vì  vậy,  lúa  gạo  đã  trở  thành  nguồn  lương  thực  chính  trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân.  Việt Nam trong nhiều năm liền được xếp vào nhóm các nước dẫn đầu về xuất  khẩu gạo, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quốc  tế. Có thể nói, lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho  người dân, ngoài ra còn là ngành kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao  động, đặc biệt là lao động ở những vùng nông thôn, qua đó đã góp phần tích cực vào  việc  xóa  đói  giảm  nghèo.  Trong  những  năm  gần  đây  chính  sách  phát  triển  kinh  tế  nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Nhà nước luôn gắn liền với phát triển ngành  hàng lúa gạo. 20  1.4.2. Góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân và hiện đại hóa khu vực  nông thôn  Chế biến lúa gạo giúp cho giá trị sản phẩm của người nông dân sản xuất ra được  nâng lên, từ đó lợi nhuận từ sản xuất lúa đạt được cao hơn, người nông dân trồng lúa  sẽ chuyên tâm đầu tư cho sản xuất tốt hơn làm cho sản lượng và chất lượng lúa ngày  được  nâng  cao.  Do thu nhập ngày  được nâng  lên, người dân có điều kiện  cùng  với  Nhà  nước  đầu  tư  xây  dựng  cơ  sở  hạ  tầng  khu  vực  nông  thôn  như  hạ  tầng  về  giao  thông, điện, nước, thủy lợi,... ngày càng tốt hơn để phục các yêu cầu của sản xuất và  đời sống người dân.  Bảng 1.3: Lợi nhuận từ sản xuất lúa của nông dân giai đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: Triệu đồng  Lợi nhuận  Lợi nhuận thu được từ  Năm  Năm  Năm  Năm  Năm  2005  2006  2007  2008  2009  19,37  22,47  24,86  26,50  28,26  01 ha lúa  Nguồn: Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL, 2010 [40]  Ghi chú: Lợi nhuận này được tính cho hai vụ lúa chính trong năm là Đông Xuân và Hè Thu.  1.4.3. Góp phần giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn  Các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  đã  góp  phần  giải  quyết  việc  làm  cho  lao  động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Năm 2009, số lao động đang làm việc trong các  doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ khoảng 22.000 ngàn người,  trong đó lao động có trình độ chuyên môn thấp chiếm khoảng 70% tổng số lao động  (lực lượng lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn), với mức thu nhập bình quân  khoảng 2,6 triệu đồng/tháng.  Ngoài ra, các doanh nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp,  qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và làm tăng tỷ trọng  của khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở địa phương.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan