VIỆN HÀN LÂM
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH THÚY
ĐỒ GỐM MEN THỜI LÝ VÀ THỜI TRẦN
TRONG KHO BẢO TÀNG HÀ NỘI
Chuyên ngành : Khảo cổ học
Mã số : 60.22.03.17
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHẢO CỔ HỌC
HÀ NỘI, 2016
VIỆN HÀN LÂM
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH THÚY
ĐỒ GỐM MEN THỜI LÝ VÀ THỜI TRẦN
TRONG KHO BẢO TÀNG HÀ NỘI
Chuyên ngành : Khảo cổ học
Mã số : 60.22.03.17
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHẢO CỔ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Tống Trung Tín
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp tư liệu và kết quả nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu và tư liệu nêu trong luận án là trung thực. Những ý kiến
khoa học chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng
Tác giả luận án
Ngô Thị Thanh Thúy
năm 2016
MỤC LỤC
1.1.
1.2.
2.1.
2.2.
3.1.
3.2.
3.3.
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH PHÁT HIỆN, NGHIÊN
CỨU CÁC SƯU TẬP ĐỒ GỐM MEN THỜI LÝ, THỜI TRẦN
TRONG KHO BẢO TÀNG HÀ NỘI
Một số khái niệm chuyên ngành
Tình hình phát hiện, sưu tầm và nghiên cứu đồ gốm men thời Lý,
thời Trần ở Thăng Long - Hà Nội
Tiểu kết chương 1
Chương 2: CÁC LOẠI HÌNH GỐM MEN THỜI LÝ, THỜI TRẦN
TRONG KHO BẢO TÀNG HÀ NỘI
Đồ gốm men thời Lý
Đồ gốm men thời Trần
Tiểu kết chương 2
Chương 3: ĐẶC TRƯNG-KỸ THUẬT SẢN XUẤT, GIÁ TRỊ
LỊCH SỬ-VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ GỐM MEN THỜI LÝ, THỜI TRẦN TRONG KHO BẢO
TÀNG HÀ NỘI.
Đặc trưng và kỹ thuật sản xuất
Đôi nét về giá trị lịch sử-văn hóa của đồ gốm men thời Lý, thời
Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội
Vấn đề bảo quản hiện vật và phát huy giá trị bộ sưu tập
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng kê
Phụ lục 2: Bản đồ
Phụ lục 3: Bản ảnh
Phụ lục 4: Bản vẽ
Phụ lục 5: Kết quả phân tích mãu gốm men thời Lý, thời Trần bằng
phương pháp Khoa học tự nhiên
1
9
9
11
25
27
27
50
91
93
93
128
139
141
145
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Ba
BEFEO
BTHN
BLT
BTHN
BTLSVN
BTLSQG
Bv
CTQG
ĐHQG
ĐHKHXH & NV
Đkđ
Đkm
ĐT
ĐV
Gm
GS
HLV
KCH
KHLSVN
KHTN
KHXH
KL
NCLS
NPHMVKCH
Nxb
PL
TBKH
Tk
TP
TS
VC
VKCH
VHNT
VHTT
VHTT&DL
Bản ảnh
Bulletin de L’Ecole Francaise d’ Extrême-Orient
Bảo tàng Hà Nội
Bến Long Tửu
Bảo tàng Hà Nội
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Bản vẽ
Chính trị Quốc gia
Đại học quốc gia
Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn
Đường kính đáy
Đường kính miệng
Đền Thượng
Đầu Vè
Gốm men
Giáo sư
Hoa Lâm Viên
Khảo cổ học
Khoa học Lịch sử Việt Nam
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội
Kim Lan
Nghiên cứu lịch sử
Những phát hiện mới về khảo cổ học
Nhà xuất bản
Phụ lục
Thông báo khoa học
Thế kỷ
Thành phố
Tiến sỹ
Văn Cao
Viện Khảo cổ học
Văn hóa nghệ thuật
Văn hóa thông tin
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BẢN ĐỒ, BẢN ẢNH, BẢN VẼ, KẾT QUẢ
PHÂN TÍCH MỘT SỐ MẪU GỐM MEN THỜI LÝ VÀ THỜI TRẦN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP KHTN
Phụ lục 1: Bảng kê
Bảng 1:
Đặc điểm chất liệu xương gốm một số mẫu gốm men thời Lý qua quan
sát bằng mắt thường
Bảng 2:
Kết quả phân tích lát mỏng thạch học thành phần khoáng vật xương
gốm thời Lý và thời Trần
Bảng 3:
Kết quả phân tích thành phần hóa học phân tích xương gốm thời Lý và
thời Trần qua phương pháp phổ xạ plasma ICP-MS
Bảng 4:
Đặc điểm chất liệu qua quan sát bề ngoài một số mẫu gốm men thời
Trần
Bảng 5:
Kết quả phân tích thành phần hóa học phân tích men gốm bằng phương
pháp phân tích nhiễu xạ tia A-XRD
Bảng 5.1: Kết quả phân tích lát mỏng thạch học thành phần khoáng vật xương
gốm
Bảng 5.2: Kết quả phân tích thành phần hóa học phân tích men gốm
Bảng 5.3: Kết quả phân tích thành phần hóa học phân tích xương gốm
Bảng 6:
Kết quả phân tích chất liệu gốm celadon ở Xóm Hống
Bảng 7:
Thống kê gốm men thời Lý tại di tích Văn Cao-Hoàng Hoa Thám
Bảng 8:
Thống kê gốm men thời Trần tại di tích Văn Cao-Hoàng Hoa Thám
Bảng 9:
Thống kê gốm men thời Lý (Tk 11-13) còn dáng
Bảng 10:
Thống kê gốm men thời Lý (Tk 11-13)
Bảng 11:
Thống kê gốm men thời Trần (Tk 13-14) còn dáng
Bảng 12:
Thống kê mảnh gốm men thời Trần (Tk 13-14)
Phụ lục 2. Bản đồ
Bản đồ thời Lê ký hiệu A2499 (Tk 15-18)
Phụ lục 3: Bản ảnh
(từ Bản ảnh 1 đến Bản ảnh 321)
Phụ lục 4: Bản vẽ
(từ Bản vẽ 1 đến Bản vẽ 37)
Phụ lục 5: Kết quả phân tích một số mẫu gốm men thời Lý, thời Trần bằng
phương pháp KHTN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bảo tàng Hà Nội hiện nay là nơi lưu giữ nhiều di vật được phát hiện
hoặc sưu tầm trên địa bàn Hà Nội (bao gồm cả Hà Tây cũ, sáp nhập vào năm 2008).
Trong số các di vật của Bảo tàng có một khối lượng không nhỏ đồ gốm men thuộc
giai đoạn Lý, Trần với nhiều nguồn khác nhau. Đó là những sưu tập thu được từ các
cuộc điều tra, thám sát, khai quật do các cơ quan nghiên cứu tiến hành như: Viện
Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân
văn, ĐHQG Hà Nội, Bảo tàng Nhân học với hàng trăm hiện vật (gồm những mảnh
đế, miệng, thân gốm…). Ngoài ra trong kho Bảo tàng Hà Nội còn lưu giữ khoảng
720 đồ gốm men còn khá nguyên dáng thuộc thời Lý và thời Trần được tiếp nhận từ
các cơ quan Công an, Hải quan và một số tập thể, cá nhân hiến tặng [90].
Có thể nói các hiện vật lưu giữ trong Bảo tàng Hà Nội hiện nay trong đó bao
gồm sưu tập gốm men thời Lý, thời Trần nói trên là những di sản vô cùng quý giá
của dân tộc nói chung và của di sản Thăng Long - Hà Nội nói riêng, vì đó là những
di vật phản ảnh nhiều giá trị lịch sử - văn hóa do tiền nhân để lại còn lưu truyền đến
ngày nay.
Song, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, việc nghiên cứu bộ sưu tập này trong
thời gian qua là rất ít, mới chỉ có một đợt năm 1992. Việc nhận diện giá trị của bộ
sưu tập mới chỉ là bước đầu dựa trên kết quả nghiên cứu cách đây đã 24 năm, nhiều
kết quả giám định đã lạc hậu, nhiều thành tựu mới được bổ sung, việc lập hồ sơ
khoa học với bộ sưu tập này vẫn còn sơ sài, do vậy rất cần được nghiên cứu bổ sung
hoàn thiện. Thêm nữa, việc công bố phát huy giá trị của bộ sưu tập này hiện nay gần
như rất hạn chế, chỉ dừng ở một vài di vật trong một vài ấn phẩm [50,77,89…].
Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu và giới thiệu chi tiết của các nhà nghiên
cứu về bộ sưu tập vẫn chưa được tiến hành. Việc phân tích từng di vật, từng sưu tập
theo các dòng men, theo niên đại thời Lý và thời Trần, việc đánh giá giá trị còn rất
nhiều vấn đề chưa rõ ràng, rất hạn chế việc tìm hiểu giá trị của bộ sưu tập và cũng
do vậy, việc nghiên cứu tổng hợp để đánh giá giá trị về bộ sưu tập là rất cần thiết.
1
Là một người làm công tác nghiên cứu tại bảo tàng trong nhiều năm qua, chúng tôi
rất quan tâm đến bộ sưu tập này và đã tập trung nhiều thời gian thu thập đối chiếu
để làm rõ hơn về loại hình và niên đại từng hiện vật.
1.2. Trong một số năm gần đây, ngành khảo cổ học đã tiến hành nghiên cứu
đồ gốm men thời Lý, thời Trần tại hàng loạt các địa điểm thuộc kinh đô Thăng
Long và các vùng phụ cận của kinh đô. Đó là những tư liệu quý giá hàng đầu góp
phần chứng minh thuyết phục tình hình sản xuất và sử dụng gốm men Thăng Long
thời Lý, thời Trần, chứng minh Thăng Long là một trung tâm sản xuất gốm men lớn
và đẹp vào bậc nhất thời Lý và thời Trần. Trên cơ sở các đồ gốm men thời Lý và
thời Trần khai quật đang được lưu giữ ở kho Bảo tàng Hà Nội tác giả cố gắng tổng
hợp, hệ thống, phân loại để có nhận thức bước đầu về mối quan hệ giữa đồ gốm
trong các di tích khảo cổ với các đồ gốm trong sưu tập ngẫu nhiên thu được từ các
nguồn các nhau, qua đó tăng thêm việc đánh giá các giá trị xác thực của tổng thể đồ
gốm men thời Lý, thời Trần được lưu trữ trong kho Bảo tàng Hà Nội
[96,97,99,101,102,104,105,107,111].
1.3. Về mặt lịch sử-văn hóa, gốm men nói chung, gốm men thời Lý, thời
Trần nói riêng là một nguồn sử liệu vật chất quan trọng góp phần nghiên cứu lịch sử
- văn hóa và văn minh thời Lý, thời Trần. Thông qua việc nghiên cứu đồ gốm men
thời Lý, thời Trần, tác giả cố gắng liên hệ, so sánh để hiểu thêm đôi nét về lịch sử văn hóa thời Lý, thời Trần ở Thăng Long nói riêng cũng như văn hóa thời Lý, thời
Trần nói chung.
1.4. Cuối cùng, chúng ta biết rằng, hiện nay Bảo tàng Hà Nội đã có cơ sở
khang trang, rộng rãi. Nhu cầu trưng bày phục vụ khách tham quan và công tác
nghiên cứu đang được đặt ra cấp thiết, nhu cầu trưng bày các sưu tập hiện vật trong
đó có gốm men càng cấp thiết hơn. Thực tế, nếu không đi sâu vào nghiên cứu hơn
nữa, bộ sưu tập gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội chưa thể
phát huy được tác dụng hữu hiệu, đáp ứng yêu cầu cấp bách nói trên. Xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn công tác quản lý hiện vật và phát huy trưng bày của Bảo tàng Hà
Nội, mặc dù biết rằng đây là một đề tài rất khó, bản thân không phải là một nhà
2
khảo cổ học nhưng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đồ gốm men thời Lý
và thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội”.
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, luận án hy vọng có những đóng góp nhất
định vào việc hiểu biết một cách tương đối toàn diện và hệ thống về sưu tập gốm
men thời Lý, thời Trần hiện đang lưu giữ tại kho Bảo tàng và qua đó góp phần hiểu
thêm về một thời kỳ quan trọng trong tiến trình lịch sử gốm sứ Việt Nam, góp phần
hoàn thiện nội dung hệ thống phích phiếu hiện vật gốm thời Lý, thời Trần; đáp ứng
yêu cầu công tác phát huy trưng bày trong hệ thống chính và trưng bày chuyên đề;
tăng cường nội dung cho công tác thuyết minh, hướng dẫn tham quan tại Bảo tàng Hà Nội.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Nghiên cứu “Đồ gốm men thời Lý và thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội”
nhằm 3 mục đích sau đây:
- Hệ thống hóa những kết quả nghiên cứu đã có về gốm men thời Lý, thời
Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
- Bước đầu nghiên cứu tổng hợp, phân loại và so sánh để xác định các đặc
trưng của sưu tập gốm thời Lý, thời Trần ở kho Bảo tàng Hà Nội trên các phương
diện dòng men, loại hình, trang trí và kỹ thuật chế tạo để qua đó đóng góp vào việc
nghiên cứu lịch sử gốm sứ Thăng Long nói riêng và lịch sử phát triển của đồ gốm
Việt Nam nói chung. Cũng qua đó góp phần hiểu thêm về lịch sử - văn hóa Thăng
Long nói riêng và lịch sử - văn hóa Việt Nam nói chung.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất các giải pháp bảo quản, bảo tồn và
phát huy giá trị của các sưu tập gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các hiện vật gốm men thuộc thế kỷ 11 - 14 thu thập được từ các cơ quan
Công an, Hải quan trong những năm 1989 - 1990 cùng các hiện vật gốm men do các
nhà sưu tầm tư nhân hiến tặng hiện đang lưu giữ tại kho Bảo tàng Hà Nội,
- Các hiện vật gốm men thuộc thế kỷ 11 - 14 do các cuộc khai quật, khảo sát
thuộc địa bàn Thủ đô Hà Nội đã được bàn giao cho Bảo tàng Hà Nội quản lý như:
các địa điểm khảo cổ học đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, Văn Cao - Hoàng Hoa Thám,
3
di tích Kim Lan, Đền Thượng (Cổ Loa), di tích Bến Long Tửu, Đầu Vè… hiện đang
lưu giữ lại Bảo tàng Hà Nội,
- Khi cần thiết, luận án có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với một số đồ
gốm men thời Lý, thời Trần được phát hiện ở các khu vực khác thuộc Hoàng Thành
Thăng Long - Hà Nội đã được công bố như địa điểm 18 Hoàng Diệu, Đoan MônKính Thiên, 62-64 Trần Phú, Thiên Trường (Nam Định), Chu Đậu (Hải Dương),
thành nhà Hồ (Thanh Hóa), các hiện vật gốm men thời Lý, thời Trần của Thăng
Long - Hà Nội hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và một số bảo tàng
trong nước và thế giới đã được nghiên cứu và công bố nhằm làm rõ thêm các đặc
trưng và giá trị của các sưu tập đồ gốm men thời Lý, thời Trần được lưu giữ trong
kho Bảo tàng Hà Nội.
3.2. Những vấn đề cần giải quyết trong luận án
- Sưu tầm, tổng hợp tình hình nghiên cứu về các sưu tập đồ gốm men thời Lý
và thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội,
- Hệ thống và phân loại các loại hình gốm men thời Lý và thời Trần trong
kho Bảo tàng Hà Nội,
- Nghiên cứu, so sánh, tìm hiểu các đặc trưng đồ gốm men thời Lý và thời
Trần trên các phương diện chất liệu, kiểu dáng, dòng men, hoa văn và kỹ thuật sản xuất,
- Bước đầu đánh giá giá trị lịch sử văn hóa của các sưu tập gốm men thời Lý
và thời Trần ở kho Bảo tàng Hà Nội,
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm bảo quản, bảo tồn với sưu tập đồ
gốm men thời Lý và thời Trần ở kho Bảo tàng Hà Nội.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án.
- Đề tài sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như phân loại,
thống kê, mô tả, đo vẽ, chụp ảnh hiện vật. Sử dụng phương pháp phân tích so sánh
giữa các sưu tập còn lưu giữ ở kho Bảo tàng Hà Nội với các hiện vật tiêu biểu phát
hiện ở các khu vực khác.
- Đề tài cũng sử dụng phương pháp liên ngành dân tộc - khảo cổ học trong
việc tiến hành khảo sát quy trình sản xuất ở một số lò gốm Bát Tràng hiện nay để
tìm hiểu rõ hơn kỹ thuật sản xuất đồ gốm men thời Lý, thời Trần.
4
- Luận án cũng chú ý tiến hành lựa chọn và phân tích thành phần hóa học
bằng các phương pháp khoa học tự nhiên một số mẫu gốm men ở các địa điểm Kim
Lan, Văn Cao và 62 - 64 Trần Phú, nhằm góp phần tìm hiểu đặc trưng chất liệu
xương gốm, men gốm và nhiệt độ nung, thông qua đó góp phần tìm hiểu thêm về kỹ
thuật sản xuất đồ gốm men thời Lý, thời Trần được phát hiện ở Thăng Long - Hà
Nội. Trong luận án này được sự giúp đỡ của Th.s Lê Cảnh Lam (Viện Khảo cổ
học), chúng tôi sử dụng một số phương pháp như sau (PL 5):
+ Phương pháp phân tích thạch học lát mỏng: đơn vị phân tích là Viện Địa
chất khoáng sản, địa chỉ: Đường Chiến Thắng, Hà Đông, Hà Nội. Phương pháp này
sẽ cưa cắt rời mẫu gốm dưới dạng phiến mỏng, mài nhẵn và đặt lên một tấm kính để
nghiên cứu kết cấu hạt dưới kính hiển vi bằng ánh sáng khúc xạ. Phương pháp này
cho biết kích thước các hạt trong xương gốm để đánh giá độ nghiền mịn hay thô của
nguyên liệu để kết luận quy trình lọc, nghiền đất kỹ lưỡng hay đơn giản; cho biết
phần trăm lỗ hổng trong xương gốm để đánh giá độ xốp và độ ngậm nước của gốm;
cho biết gốm có trộn bã thực vật, mảnh vụn vỏ sò hay không trộn.
+ Phân tích thành phần hóa học gốm bằng phương pháp Huỳnh quang tia XXRF (X-Ray Fluorescence). Mẫu được phân tích thành phần tại Viện Nghiên cứu
sành sứ - thủy tinh công nghiệp, địa chỉ: 132 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội.
Mẫu được phân tích thành phần bề mặt của xương gốm và men gốm. Phương
pháp XRF được áp dụng cho chất rắn nói chung kể như đá, hợp kim, gốm, sứ, thủy
tinh. Phương pháp này sử dụng thiết bị chiếu tia X vào mẫu vật. Mỗi nguyên tố sẽ
bị kích thích và nhảy điện tử electron từ lớp ngoài vào lớp trong. Khi điện tử chuyển
lớp điện tử sẽ phát ra năng lượng. Máy sẽ đo năng lượng đó để xác định nồng độ
hàm lượng của các nguyên tố được chứa trong chất liệu xương gốm và men gốm.
+ Phương pháp phân tích quang phổ phát xạ plasma/khối phổ ICP-MS
(Inductively coupled plasma/mass spectrometry): Phương pháp này được thực hiện
phân tích tại Trung tâm phân tích thí nghiệm địa chất, địa chỉ: Km 9 - đường
Nguyễn Trãi - Thanh xuân - Hà Nội. Phương pháp phân tích quang phổ phát xạ
plasma/ khối phổ, dùng để phân tích thành phần các nguyên tố vô cơ, kim loại với
độ chính xác cao, có thể phân tích các nguyên tố vết với hàm lượng ppm (10-6). Cho
5
phép phân tích đồng thời 36 chỉ tiêu nguyên tố vô cơ. Ứng dụng trong phân tích
gốm khảo cổ cho biết các thành phần chính có trong xương và men, đồng thời cho
biết các nguyên tố vi lượng có hàm lượng 10-6 trong mẫu.
Từ thành phần hóa học men và xương có thể biết được nguyên tố nào tạo ra
màu sắc của men, và giải thích vì sao gốm thấu quang hay không thấu quang.
+ Phương pháp phân tích nhiễu xạ tia X (XRD) (X-ray diffraction): Tiến
hành phân tích tại Viện Vật liệu xây dựng, địa chỉ: 235 đường Nguyễn Trãi, P.
Thanh Xuân Trung, Q. Thanh Xuân, TP. Hà Nội.
Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) phân tích cấu trúc của vật chất, dạng thù
hình của tinh thể từ đó xác định tên của khoáng vật tạo thành trong gốm. Các
khoáng chất tồn tại trong gốm cho phép đoán định nhiệt độ nung và cấu tạo tạo hình
học của khoáng chất để xác định lý giải về tính hợp lý trong đơn phối liệu nguyên
liệu và kết quả của quá trình nung.
+ Phân tích Nhiệt trọng lượng, nhiệt vi sai, Phương pháp TG-DTA (Thermal
gravimetric - Differential Thermal Analysis). Địa chỉ phân tích tại Viện Vật liệu xây
dựng, 235 đường Nguyễn Trãi, P. Thanh Xuân Trung, Q. Thanh Xuân, TP. Hà Nội.
Phương pháp này nghiên cứu sự thay đổi trọng lượng và hiệu ứng nhiệt khi nung
mẫu lên 1300OC. Sự tăng hay giảm của trọng lượng và sự tỏa nhiệt hay thu nhiệt
trong quá trình nung gắn với sự đốt cháy, bay hơi, kết tinh, chuyển pha của mẫu bị
nung được máy phân tích ghi lại dưới dạng giản đồ biến thiên nhiệt độ, trọng lượng,
hiệu ứng nhiệt. Căn cứ vào sự thay đổi trọng lượng và nhiệt để đoán định mẫu có
chứa vật liệu hữu cơ không? mẫu đã được nung đến nhiệt độ nào?
- Tổng hợp nhiều phương pháp để xác định niên đại gốm men thời Lý, thời
Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội. Trong Bảo tàng học và khảo cổ học, việc nghiên
cứu xác định niên đại cho từng di vật, từng sưu tập là công việc cốt lõi, cơ bản vô
cùng quan trọng. Để có thể thực hiện được điều này, chúng tôi đã học hỏi từ các nhà
khảo cổ học và nhận thấy rằng có có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau như:
+ Phương pháp nghiên cứu địa tầng,
+ Phương pháp phân tích C14,
+ Phương pháp so sánh loại hình học,
6
+ Phương pháp phân tích tìm hiểu các dấu vết kỹ thuật,
+ Nghiên cứu niên đại từ việc tìm hiểu các chữ Hán được ghi trên đồ gốm,
+ Phương pháp chuyên gia.
Nhìn chung việc tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau cho phép hiểu được
niên đại của đồ gốm ngày càng chính xác hơn. Ở điều kiện các sưu tập Bảo tàng,
phương pháp chuyên gia được các cơ quan Bảo tàng, các nhà Bảo tàng học triệt để
vận dụng. Các chuyên gia đã công bố hàng loạt các sách chuyên khảo về đồ gốm
với các chú dẫn cẩn thận và ảnh màu rất đẹp. Chúng tôi xem đó như một cuốn cẩm
nang tra cứu hỗ trợ cho việc xác định niên đại. Các chuyên gia cũng trực tiếp hướng
dẫn và nghiên cứu xác định niên đại cho các sưu tập gốm của Bảo tàng Hà Nội.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án.
- Tập hợp tương đối đầy đủ cho đến thời điểm hiện nay các kết quả nghiên
cứu về đồ gốm men thời Lý, thời Trần được lưu giữ tại kho Bảo tàng Hà Nội bao
gồm các sưu tập ngẫu nhiên và các sưu tập khảo cổ học.
- Xác định một số đặc trưng của đồ gốm men thời Lý, thời Trần trên các
phương diện loại hình, chất liệu, dòng men, kỹ thuật sản xuất, diễn biến các đồ gốm
men từ thời Lý sang thời Trần. Xác định bằng phương pháp khoa học tự nhiên thành
phần khoáng vật, thành phần hóa học của chất liệu xương gốm, men gốm và độ
nung của một số mẫu gốm thời Lý, thời Trần, qua đó góp phần hiểu thêm các đặc
trưng cơ bản của gốm men thời Lý, thời Trần.
- Xác định bước đầu các giá trị lịch sử - văn hóa được thể hiện qua đồ gốm
men thời Lý, thời Trần và qua đó góp phần hiểu thêm lịch sử - văn hóa thời Lý, thời Trần.
- Từ kết quả nghiên cứu này, luận án đề xuất một vài kiến nghị góp phần
hoàn thiện bộ hồ sơ khoa học cho việc quản lý đồ gốm men trong kho Bảo tàng Hà
Nội trên cơ sở đó kiến nghị công tác trưng bày, phục vụ tham quan và công tác bảo
quản phục hồi các hiện vật gốm men thời Lý và thời Trần.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
- Việc hoàn thành luận án góp phần nhận thức loại hình, dòng men, hoa văn
và kỹ thuật về các sưu tập gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
7
- Góp phần nhất định vào việc tìm hiểu tiến trình lịch sử gốm men thời Lý,
thời Trần ở Thăng Long nói riêng, thời Đại Việt nói chung và cũng góp phần hiểu
thêm tiến trình lịch sử gốm men Việt Nam, tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.
- Góp phần vào việc bảo tồn và trưng bày phát huy giá trị lịch sử-văn hóa của
gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
7. Bố cục của luận án.
Ngoài mở đầu và kết luận, luận án dày 136 trang, được bố cục thành 3
chương như sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình phát hiện, nghiên cứu các sưu tập đồ gốm
men thời Lý và thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
- Chương 2: Các loại hình gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng
Hà Nội.
- Chương 3: Đặc trưng kỹ thuật-sản xuất, giá trị lịch sử-văn hóa và vấn đề
bảo tồn, phát huy giá trị gốm men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
Để hoàn thành luận án này, tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học xã
hội, lãnh đạo Bảo tàng Hà Nội cùng các bạn đồng nghiệp ở các Bảo tàng, các
chuyên gia thuộc Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, UBND
xã Kim Lan, cán bộ và nhân dân xã Kim Lan, xã Bát Tràng…. Đặc biệt, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn PGS.TS Tống Trung Tín đã hướng dẫn khoa học cho công trình
nghiên cứu này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các Thầy, các Cô
và đồng nghiệp đã hết lòng tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tư
liệu, triển khai nghiên cứu và hoàn thành luận án như: nhà Khảo cổ học Bùi Vinh,
TS.Trần Anh Dũng, TS.Phạm Quốc Quân, TS.Nguyễn Đình Chiến, PGS.TS Trình
Năng Chung, nhà khảo cổ học Đỗ Đức Tuệ, Ths. Lê Cảnh Lam, Thư viện Viện
KCH, Ths. Nguyễn Mai Hương…
Xin cảm ơn tất cả./.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH PHÁT HIỆN, NGHIÊN CỨU CÁC SƯU TẬP
ĐỒ GỐM MEN THỜI LÝ, THỜI TRẦN TRONG KHO BẢO TÀNG HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm chuyên ngành.
Tiếp cận nghiên cứu đồ gốm men thời Lý và thời Trần, trước hết cần hiểu
thêm một vài khái niệm chuyên ngành như “đồ gốm”, “gốm men” và “các dòng
gốm men”.
1.1.1. Đồ gốm.
Trong khảo cổ học “đồ gốm” được dùng như một danh từ chung để chỉ các
loại đồ vật được làm từ các loại đất sét được nung qua những nhiệt độ nhất định.
Nếu nói một cách hình ảnh thì “gốm” là sự hòa quyện giữa đất - nước và lửa dưới
bàn tay khéo léo của con người.
Trong lịch sử, theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học đồ gốm đã có một quá
trình phát triển lâu đời, phát sinh từ thời tiền sử cách ngày nay trên dưới một vạn
năm. Theo các nhà khảo cổ học thì ở Việt Nam, đồ gốm bắt đầu ra đời từ văn hóa
Hòa Bình hoặc hậu Hòa Bình. Lúc mới ra đời, đồ gốm còn mang những đặc điểm
rất thô sơ đơn giản, thuần túy chỉ là các loại đồ vật được làm từ các loại đất sét có
pha trộn thêm một số loại nguyên liệu khác như cát, bã thực vật… Đồ gốm như vậy
nói chung thường có chất liệu thô và có quá trình tồn tại rất lâu kéo dài cho đến tận
ngày nay.
1.1.2. Đồ gốm men.
Đồ gốm men và đồ sứ là tên gọi phổ biến nhất hiện nay trong các văn liệu
khảo cổ. Thuật ngữ này chỉ loại đồ gốm có lớp men được phủ ở trong và ngoài đồ
vật làm cho đồ gốm trở nên đẹp hơn, chắc chắn hơn. Men gốm cơ bản là loại hợp
chất gồm các thành phần khai thác từ các chất liệu thiên nhiên và pha chế theo tỷ lệ
thích hợp để phủ bên ngoài đồ gốm trước khi nung.
“Gốm men” cũng là một khái niệm được sử dụng khá rộng rãi trong giới
nghiên cứu khảo cổ học hiện nay. Tuy nhiên, giữa các nhà nghiên cứu cũng chưa có
cách gọi thống nhất do có những quan niệm khác nhau.
9
Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Khánh Chương thì đồ gốm Việt Nam
được phân chia thành 5 loại: 1. Đất nung, 2. Sành nâu, 3. Sành xốp, 4. Sành trắng, 5. Sứ.
Cách phân loại này dựa trên 2 tiêu chí là xương gốm và niên đại. Nhưng thực
tế lịch sử phát triển đồ gốm Việt Nam không phải trải qua 5 giai đoạn phát triển kế
tiếp nhau như thế [22].
Theo nhà nghiên cứu gốm sứ Nguyễn Đình Chiến thì đồ gốm Việt Nam được
chia làm 4 loại: 1. Đất nung, 2. Sành, 3. Gốm men, 4. Sứ.
Cách phân loại này khác với Trần Khánh Chương là không có sành xốp. Nhìn
chung cách gọi như vậy có phần khái quát hơn cách phân chia của Trần Khánh Chương.
Để nhìn nhận toàn diện hơn, chúng ta có thể tham khảo thêm một số cách
phân loại đồ gốm của các học giả nước ngoài.
Theo nhà nghiên cứu nghệ thuật Noritake Tsuda trong cuốn Sổ tay nghệ
thuật Nhật Bản xuất bản năm 1990, trang 220 thì đồ gốm Nhật Bản cũng được chia
thành 4 loại: 1. Đất nung (Doki), 2. Đất nung có men (Toki), 3. Sành (Sekki), 4. Sứ
(Jiki).
Còn các nhà nghiên cứu Thái Lan, thì đồ gốm ở nước này lại được chia thành
4 loại như sau: 1.Gốm thô tiền sử (Terra cotta) có nhiệt độ nung < 8500C, 2. Đất
nung bán sành (Earthenware) có nhiệt độ nung giữa 8800C - 11500C, 3. Sành
(Stonware) có nhiệt độ nung giữa 11500C - 13300C, 4. Sứ (Porcelan) có nhiệt độ
nung giữa 13000C - 14500C
Đây là cách phân loại dựa trên cả 3 tiêu chí: chất liệu, nhiệt độ nung và niên
đại [137, tr. 171].
Ở phạm vi một luận án đi sâu vào một sưu tập hiện đang lưu giữ trong kho
Bảo tàng Hà Nội, chúng tôi không có ý định đi sâu hơn về các quan niệm đã nói
trên. Điều đó đòi hỏi phải có các đề tài chuyên sâu ở cấp độ lớn hơn. Nhưng nếu
hiểu một cách đơn giản thì “Gốm men” là loại gốm được làm bằng đất sét trắng có
thể có pha thêm một số nguyên liệu khác và được tráng một hay nhiều lớp men. Khi
loại gốm men được nâng lên ở một trình độ cao hơn, độ thiêu kết cao trên 12000C
thì thuật ngữ “Gốm men” được gọi là “Đồ sứ”.
1.1.3. Các dòng gốm men.
10
Đồ gốm men, do cách pha chế nguyên vật liệu, nhìn chung thường tạo ra
nhiều dòng men có màu sắc khác nhau. Vì vậy, giới nghiên cứu nói chung và các
nhà khảo cổ học Việt Nam còn phân chia đồ gốm men theo màu sắc men như “Gốm
men trắng”, “Gốm men vàng’, “Gốm men ngọc”, “Gốm men xanh lục”, “Gốm
men nâu”, “Gốm hoa nâu”, “Gốm hoa lam”… Trong luận án này sẽ sử dụng các
khái niệm các dòng gốm men nói trên làm cơ sở để phân loại và nhận thức đồ gốm
men thời Lý, thời Trần trong kho Bảo tàng Hà Nội.
1.1.4. Đồ gốm “nguyên dáng” và đồ gốm “đủ dáng”
Đồ gốm trong các sưu tập ngẫu nhiên và sưu tập khảo có khi còn tương đối
nguyên vẹn có khi bị sứt mẻ, vỡ, đặc biệt trong các di chỉ khảo cổ học chủ yếu chỉ
còn các mảnh vụn. Trong nhiều trường hợp các mảnh vỡ khi chắp lại vãn cho phép
hiểu được một cách tương đối dáng hình của hiện vật. Do vậy, các nhà khảo cổ học sử
dụng hai thuật ngữ: đồ gốm “nguyên dáng” và đồ gốm “đủ dáng”:
Đồ gốm “nguyên dáng” là đồ gốm còn tương đối nguyên vẹn cho phép hiểu
một cách tương đối đầy đủ dáng, hoa văn, men và các vấn đề kỹ thuật liên quan.
Đồ gốm “đủ dáng” là loại đồ gốm chỉ còn một số mảnh vỡ. Từ những mảnh
vỡ này khi chắp lại có thể cho phép hiểu một cách tương đối về kiểu dáng của di vật.
1.2. Tình hình phát hiện, sưu tầm và nghiên cứu đồ gốm men thời Lý,
thời Trần ở Thăng Long - Hà Nội.
1.2.1. Vị trí và đôi nét lịch sử Thăng Long Hà Nội.
Hà Nội, Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đã được mở
rộng bao gồm cả đất Hà Tây cũ (năm 2008). Đó là vùng đất nằm ở trung tâm Bắc
Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20053’ đến 21023’ vĩ độ Bắc, 105044’ đến 106002’
kinh Đông tiếp giáp với năm tỉnh là Thái Nguyên ở phía Bắc, Bắc Ninh và Hưng
Yên ở phía Đông, Hà Tây (cũ) và Vĩnh Phúc ở phía Tây và phía Nam.
Từ 3500 năm trước, những người tiền Việt cổ - Việt cổ thuộc văn hóa Phùng
Nguyên - Đông Sơn đã đến đây khai phá. Dấu vết của họ đã được khảo cổ học tìm
thấy ở Văn Điển, Triều Khúc và mới đây ở di tích đàn Xã Tắc thuộc khu vực Ô Chợ
Dừa (Đống Đa, Hà Nội).
11
Vùng Hà Nội đến thời thuộc Đường đã dần trở thành An nam đô hộ phủ với
thành Đại La - trung tâm đầu não thống trị của thế lực ngoại bang. Nhưng ở ngay
nơi trung tâm của “An Nam đô hộ phủ”, nhân dân vùng Hà Nội đã dũng cảm đấu
tranh chống lại ách thống trị tàn bạo và chính sách đồng hóa thâm độc của phong
kiến phương Bắc.
Từ thế kỷ 6, cuộc đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền đất nước của Lý
Nam Đế đã đưa Hà Nội cổ, miền đất cửa sông Tô Lịch ở vùng nam sông Hồng đã
bước lên hàng đầu trong lịch sử dân tộc với tên gọi là Tống Bình, Thủ đô của nhà
nước Vạn Xuân (542), nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập đầu tiên.
Thế kỷ 10, sau chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt, Việt Nam thoát khỏi nghìn
năm Bắc thuộc, trong buổi sơ khai của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập, Ngô
Quyền đóng đô ở Cổ Loa, và sau đó Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn đóng đô ở Hoa Lư
(Ninh Bình) để rồi mùa thu năm Canh Tý, vua Lý Thái Tổ ban Chiếu dời đô về
Thăng Long mở ra một chương mới của lịch sử Việt Nam. Kể từ đó, qua thời Trần
(1225-1400), thời Lê sơ (1428-1527), thời Mạc (1527-1592), thời Lê Trung Hưng
(1593-1789) Thăng Long luôn là Kinh đô của Đại Việt. Thời Nguyễn (1802-1945)
Thăng Long là trấn Bắc Thành và thành Hà Nội. Từ năm 1945 đến nay, Thăng
Long - Hà Nội là Thủ đô nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngay từ những năm đầu dời đô về Thăng Long, với khí thế của một quốc gia
tự cường dân tộc mạnh mẽ, vương triều Lý (1010 - 1225) đã cho quy hoạch kinh đô,
xây dựng thành quách, lâu đài, cung điện, đền đài, chùa tháp… tạo điều kiện thúc
đẩy các ngành nghề thủ công phát triển, trong đó có nghề sản xuất gốm men.
Thời Trần (1226 - 1400), nhà nước được chuyển giao trong hòa bình nên nhà
Trần được thừa hưởng một phần di sản quý báu do nhà Lý xây dựng. Trên nền tảng
đó, nhà Trần tiếp tục tiến hành xây dựng mới kinh đô và tiếp tục có nhiều biện pháp
thúc đẩy mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự.
Các vòng thành của kinh đô Thăng Long thời Lý được nhà Trần chú ý củng
cố tu bổ. Trong hoàng cung có hai khu cung điện chính là cung Thánh Từ của
Thượng hoàng và cung Quan Triều của nhà vua. Nối tiếp triều Lý, triều Trần cũng
12
đạt được các thành tích lớn trong kỹ nghệ sản xuất gốm sứ mà các phát hiện khảo cổ
học đã và đang làm rõ điều đó [104].
1.2.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu đồ gốm men thời Lý, thời Trần ở
Thăng Long - Hà Nội
1.2.2.1. Khái quát đôi nét về lịch sử nghiên cứu đồ gốm men thời Lý và thời Trần
Đồ gốm men thời Lý, thời Trần nói chung đã bắt đầu được phát hiện và
nghiên cứu ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20. Từ đó đến nay đã hơn một
thế kỷ qua, các loại hình đồ gốm ở thời kỳ này ngày càng được phát hiện nhiều hơn
và nhận thức ngày một sâu sắc hơn.
Trên đại thể có thể tạm phân chia lịch sử phát hiện và nghiên cứu đồ gốm
men thời Lý, thời Trần ở Việt Nam thành ba giai đoạn: 1900 - 1954; 1955 - 1990;
1991 đến nay.
- Giai đoạn 1: 1900 - 1954.
Đây là giai đoạn mở đầu những phát hiện và nghiên cứu của người Pháp.
Đặc điểm những phát hiện về đồ gốm men thời Lý, thời Trần trong giai đoạn này là
đều do thu lượm hoặc sưu tầm thông qua các phát hiện ngẫu nhiên do làm đường xá,
cầu cống, xây dựng nhà cửa ở khu vực thành Thăng Long mà không qua khai quật.
Hiện nay, theo tài liệu đã công bố của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) thì nhiều đồ gốm men thời Lý, thời Trần do người Pháp
sưu tầm được ở khu vực Thăng Long đã được thu thập về Bảo tàng Louis Finot và
sau đó đã được Bảo tàng tiếp nhận từ sau ngày miền Bắc được giải phóng. Rất
nhiều di vật trong số đó mang rõ đặc điểm nghệ thuật thời Lý, thời Trần và có xuất
xứ sưu tầm ghi trên hiện vật ở các địa điểm như Quần Ngựa, Ngọc Hà, Vạn Phúc,
Hữu Tiệp, Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai, Vĩnh Phúc… Nay, những hiện vật đó đã
được Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đăng ký trong hệ thống tài sản quốc gia và đang
được trưng bày trong hệ thống chính hiện nay của Bảo tàng [12; tr. 59:73].
Cũng theo nhiều văn liệu khảo cổ học, ngoài sưu tập nằm ở Bảo tàng Lịch sử
Quốc gia, còn có một số đồ gốm men thời Lý, thời Trần sưu tầm được dưới thời
Pháp thuộc hiện đang lưu giữ ở một số tổ chức, cá nhân nước ngoài, trong đó đáng
chú ý có Bảo tàng Guimet (Paris - Pháp) hoặc Bảo tàng Hoàng gia Bỉ. Những di vật
13
- Xem thêm -