Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sách - Truyện đọc Ngôn tình Diễn ngôn - Giới và tính dục trong cuộc sống muôn màu...

Tài liệu Diễn ngôn - Giới và tính dục trong cuộc sống muôn màu

.PDF
101
875
55

Mô tả:

Diễn ngôn - Giới và tính dục trong cuộc sống muôn màu Diễn ngôn - Giới và tính dục trong cuộc sống muôn màu ra đời như một hình thức thể hiện vật chất của những ý tưởng và góc nhìn đã được lưu chuyển trên không gian sôi động, mong muốn trở thành nơi đối thoại về tri thức, ý tưởng và sự trải nghiệm của những người tâm huyết với việc xây dựng một xã hội Việt Nam đa dạng, công bằng và tràn đầy tình yêu thương.
VIỆN NGHIÊN CỨU XÃ HỘI, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG DIỄN NGÔN - GIỚI VÀ TÍNH DỤC TRONG CUỘC SỐNG MUÔN MÀU Bản quyền © 2014 ISBN: 978-604-908-860-5 Thiết kế bìa: KiMi Trần Biên tập viên Alpha Books: Nhữ Vân Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Cổ phần Sách Alpha. Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả để sách ngày càng hoàn thiện hơn. Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch: [email protected] Liên hệ hợp tác về nội dung số: [email protected] Liên hệ hợp tác xuất bản & truyền thông trên sách: [email protected] Liên hệ dịch vụ tư vấn, đại diện & giao dịch bản quyền: [email protected] NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC Lời giới thiệu DIỄN NGÔN vốn là tên gọi được lựa chọn cho diễn đàn trực tuyến của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) với những hàm ý về mối quan hệ đa chiều của ngôn ngữ, tri thức và quyền lực. Mượn ý tưởng về diễn ngôn (discourse) của nhà triết học Pháp Michel Foucault, chúng tôi muốn khởi lập một diễn đàn học thuật liên ngành để khám phá những vấn đề của đời sống văn hóa-xã hội Việt Nam từ nhiều góc nhìn mới. DIỄN NGÔN được tạo lập nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng trong cuộc sống. DIỄN NGÔN, đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức, cùng với những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và mối quan hệ quyền lực. Được bắt rễ từ trong ngôn ngữ, DIỄN NGÔN tạo ra niềm tin, niềm tin biến thành tri thức, và tri thức tạo nên quyền lực. Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn khách quan. Chúng tôi tin rằng có nhiều chân lý cùng tồn tại trên cuộc đời này, mọi 6 tiếng nói đều có giá trị, và sự “đa thanh” đó làm nên muôn màu của cuộc sống. Bộ sách DIỄN NGÔN ra đời như một hình thức thể hiện vật chất của những ý tưởng và góc nhìn đã được lưu chuyển trên không gian sôi động của diễn đàn www. dienngon.vn. Bộ sách cùng với diễn đàn trực tuyến DIỄN NGÔN mong muốn trở thành nơi đối thoại về tri thức, ý tưởng và sự trải nghiệm của những người tâm huyết với việc xây dựng một xã hội Việt Nam đa dạng, công bằng và tràn đầy tình yêu thương. Chúng tôi hy vọng sẽ có sự đồng hành của các bạn trong thời gian tới, vì một tương lai tươi đẹp ấy. Ban biên tập Diễn Ngôn Mục lục  Bình ñaúng giôùi 9   Quyeàn ña daïng giôùi tính  Beân kia giôùi tính   Höôùng tôùi töông lai  73  135 59 8 Bình đẳng giới Phần I BÌNH ĐẲNG GIỚI 9 10 Bình đẳng giới 11 Lịch sử “cuộc chiến giới tính” của loài người cho đến nay căn bản vẫn đang viết những chương tiếp theo về chiến thắng của nam giới trước nữ giới về mọi mặt: địa vị xã hội, địa vị gia đình, quan niệm xã hội về vai trò nam-nữ, các định kiến đạo đức về hôn nhân và tình dục... Sự phát triển của khoa học xã hội cùng những thay đổi trong kết cấu xã Ai rửa bát sau khi ăn cơm? Thu Hiền hội phần nào đã vãn hồi một “sự quan tâm” của toàn thể xã hội tới thân phận của người nữ, nhưng ánh sáng từ một ngọn đèn vẫn không xua nổi bóng đêm. Nữ quyền vẫn đặt trong phạm vi nam giới, và cho đến khi nào Eva vẫn chỉ là một xương sườn của Adam, thì thân-phận người nữ vẫn giống “lời nguyền rủa của Thượng đế” hơn là một phép lạ. Các tác giả cũng nhận ra điều ấy. Những chủ đề xoay quanh đường biên của quan niệm xã hội về vai trò của người nữ trong gia đình, tình dục và mại dâm đã vén mở phần nào những khúc mắc trong một xã hội hãy còn dang dở như Việt Nam. Có lẽ, ấn tượng nhất trong các phân tích là cuộc tấn công vào quan niệm của xã hội Việt Nam về mại dâm - tình dục, vốn là những lĩnh vực xã hội đang xảy ra cuộc chuyển biến mạnh mẽ nhất, mặc dù đây cũng là mấu chốt của những nguy cơ khủng hoảng xã hội từ bên trong nền tảng của nó. Mặc dù, chính vấn đề mại dâm cũng khiến người ta nhận ra rằng, thật đáng đau đớn, cuộc chiến chống lại những sức ép của định kiến giới lại xảy ra nơi người phụ nữ bị xã hội lạm dụng nhất. Phong trào nữ quyền là một trong những phong trào dân sự lâu đời nhất. Tuy nhiên, nó cũng là một phong trào khó khăn nhất vì đụng chạm đến lợi ích thiết thân của nhiều người, mà đặc biệt là nam giới. Thật đơn giản, nếu bình đẳng giới xảy ra thực sự, ai sẽ là người vào bếp nấu cơm, rửa bát và giặt giũ quần áo cho gia đình? Câu hỏi cụ thể, nhưng thách thức một trong những bất công lâu đời và phổ biến nhất của loài người. Và có lẽ, nó chính là rào cản lớn nhất vì nó hiện hữu hàng ngày. Quay lại khái niệm cơ bản về vai trò giới, đó là quan niệm xã hội quy định các công việc, trách nhiệm hoặc tính cách (nam tính, nữ tính) là chuẩn mực cho nam giới và nữ giới. Ví dụ đơn giản, phụ nữ làm các công việc nhẹ, thuần thục việc nội trợ gia đình, và nên ăn nói nhẹ nhàng, e thẹn. Nam giới làm các việc nặng, là trụ cột kinh tế gia đình, và nên giao lưu xã hội rộng rãi. Đây là các “quan niệm xã hội” do con người quy định, được xã hội chấp nhận và trở 12 thành chuẩn mực. Tuy nhiên, vì là sản phẩm của con người và xã hội nên nó thay đổi theo thời gian. Ví dụ trước đây phụ nữ không có quyền bầu cử, nay phụ nữ đã được tham gia vào hoạt động chính trị bình đẳng. Nhưng trên thực tế, phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng như nam giới. Các số liệu thống kê ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới vẫn chỉ ra khoảng cách lớn giữa nam và nữ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam chỉ có 10% bộ trưởng, 8% thứ trưởng và 24% đại biểu quốc hội là phụ nữ. Tương tự như vậy, ở Mỹ chỉ có 14% dân biểu và 16% thống đốc bang là phụ nữ. Bất bình đẳng trong gia đình còn nặng nề hơn, đặc biệt về thời gian và khối lượng việc nhà, hoặc bạo lực gia đình phụ nữ phải gánh chịu. Như vậy, rào cản để xóa bỏ những bất công mà phụ nữ đang phải gánh chịu là gì? Có phải đàn ông muốn duy trì lợi thế của mình? Có phải phụ nữ cam chịu hoặc hy sinh hạnh phúc vì chồng con? Vì sao nỗ lực của chính phủ, cũng như hàng chục phong trào nữ quyền và hàng trăm tổ chức xã hội dân sự hoạt động vì quyền của phụ nữ mà vẫn bất lực trước thực trạng này? Nhiều nghiên cứu về giới gần đây đã soi chiếu nguyên nhân cốt lõi ngăn cản tiến bộ trong bình đẳng giới. Đa số giới trẻ vẫn tin rằng các đặc tính như làm việc chăm chỉ, chịu thương chịu khó, khéo léo và khiêm nhường là các đặc trưng của phụ nữ. Tương tự như vậy, các tố chất như Bình đẳng giới 13 mạnh mẽ, quyết đoán, nóng tính và hào phóng là của nam giới. Điều này tưởng như hiển nhiên, nhưng nó tạo ra rào cản cho phụ nữ làm lãnh đạo vì đa số người dân coi nam tính (mạnh mẽ, quyết đoán) là tố chất cần thiết của lãnh đạo. Nói cách khác, “nam tính” và “lãnh đạo tính” trùng nhau nên tạo lợi thế cho nam giới trong việc thăng tiến. Trong công việc cũng có sự phân định về nam tính và nữ tính. Phụ nữ bị gắn với các nghề có thu nhập thấp hơn, ví dụ như nhân viên văn phòng, thợ may, giáo viên tiểu học hay phụ giúp việc. Nam giới được gắn với những việc có thu nhập cao như quan chức chính phủ, cảnh sát và lập trình viên. Phụ nữ thích các công việc ổn định, dành nhiều thời gian cho gia đình, còn nam giới thích việc có thu nhập cao và có thể chu du thiên hạ. Đây là lát cắt cho thấy những định kiến giới vẫn đeo bám trong giới trẻ Việt Nam. Tuy nhiên, điều gây bất ngờ lớn nhất đó là phụ nữ lại là người đang níu kéo những giá trị bất lợi cho vị thế của chính mình. Không có nghĩa nam giới không còn định kiến giới, nhưng dường như họ lại “thoáng” hơn trong việc chấp nhận những giá trị có tính “giải phóng phụ nữ”. Theo một nghiên cứu của viện iSEE, Trung tâm CGFED và Quỹ châu Á, đa số phụ nữ mong đợi bạn đời của họ kiếm được thu nhập cao trong khi chỉ chưa đến 20% nam giới mong đợi phụ nữ làm điều này. Đa số phụ nữ muốn mình ở thế “bị động” và mong đợi nam giới phải 14 là người chủ động trong mối quan hệ yêu đương. Hơn nữa, chính phụ nữ lại ít bất bình hơn khi thấy đa số lãnh đạo là nam, và nhiều phụ nữ hơn nam giới muốn sếp mình là đàn ông. Rõ ràng, chính phụ nữ đang tiếp tay cho sự bất bình đẳng giới trong công việc, gia đình và cả trong quan hệ tình cảm. Có nhiều cách giải thích khác nhau cho hiện tượng này, một trong số đó là trẻ em gái được giáo dục khắt khe hơn trẻ em nam về việc tuân thủ các chuẩn mực xã hội. Chính những người mẹ đã giáo dục con gái mình phải đảm đang, biết nấu ăn, chăm sóc chồng và chịu nhịn khi “cơm chẳng dẻo, canh chẳng ngọt”. Những người mẹ chồng cũng khắt khe hơn với con dâu và mong họ phải tuân thủ chuẩn mực hy sinh, tuân thủ lễ giáo nhà chồng. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của phụ nữ về giá trị của tự do và bình đẳng. Bên cạnh đó, các diễn ngôn phổ biến trong xã hội cũng như của các cơ quan đại diện cho phụ nữ đang cổ súy cho người phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì sự êm ấm của gia đình. Những phẩm chất đạo đức của người phụ nữ gắn liền với sự hy sinh, tính chịu thương chịu khó và nhẫn nhịn vì hạnh phúc gia đình. Điều này mạnh đến mức, ngay những người phụ nữ hoạt động trong phong trào nữ quyền, ngoài xã hội có thể đấu tranh rất hăng nhưng về nhà lại trở lại nhiệm vụ “gìn giữ gia phong.” Những người phụ nữ muốn thể hiện mình bị coi là phá Bình đẳng giới 15 cách, là nguyên nhân của đổ vỡ gia đình, họ chịu sức ép to lớn từ chính những người phụ nữ khác và phải chui vào vỏ bọc chuẩn mực xã hội. Nhưng có lẽ, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất chính là phong trào thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam bị xé lẻ, thiếu thủ lĩnh và không nhận được sự ủng hộ của quảng đại phụ nữ. Phong trào nữ quyền vẫn gói gọn ở trong một số tổ chức xã hội dân sự, chưa trở thành câu chuyện hàng ngày của phụ nữ và nam giới. Hơn nữa, nhiều nhà hoạt động lại đòi hỏi các ưu tiên riêng biệt cho phụ nữ, coi phụ nữ như một nhóm yếu thế hơn là một nhóm phải được đối xử bình đẳng như với nam giới. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tư duy và triết lý hoạt động dựa vào sự ban phát hơn là quyền và bình đẳng. Không ai có thể đòi quyền của mình mạnh bằng chính bản thân mình. Người da đen không thể có quyền bình đẳng nếu họ không dũng cảm đấu tranh và thách thức sự phân biệt chủng tộc. Người đồng tính không thể kết hôn nếu họ giấu mình và mong chờ sự ban ơn của người dị tính. Đã đến lúc, phụ nữ phải thực hiện quyền bình đẳng của mình, và bắt đầu từ một câu hỏi đơn giản trong gia đình: Ai rửa bát sau khi ăn cơm? 16 Bình đẳng giới “Nam tính nho nhã”, “nam tính cơ bắp” đều phải dạy vợ để gìn giữ gia phong? Đào Thế Đức Đặc trưng phổ biến nhất về nam tính ở Việt Nam là quan niệm cho rằng nam giới (thường là chồng, cha) phải là trụ cột và là người ra quyết định chính trong nhà. Nhiều nghiên cứu cho thấy người chồng có vị trí cao hơn người vợ và là người đứng đầu gia đình. Các thành viên tin “quyền quyết định lúc nào cũng phải là của người chồng, trước đây, hiện nay và sau này cũng vậy”. Con cái thể hiện sự ngưỡng mộ về cách cha mình thực thi uy quyền, kỷ luật trong gia đình. Cách nam giới thể hiện uy quyền, cũng như quan niệm về mức độ uy quyền bất khả xâm phạm của mình cũng có sự khác biệt. Một số người cho rằng chồng phải biết “dạy” vợ để vợ phục tùng họ. Dạy ở đây bao gồm dạy để vợ không được cãi chồng và phải biết tuân phục chồng. Theo họ dạy vợ là “quyền của đàn ông”. Có người đề cập đến đòn roi như một biện pháp “dạy” hay “ngăn cấm” vợ 17 cãi lại chồng. Người khác cho rằng tuy nam giới có quyền “dạy” vợ, nhưng cũng nên dùng lời, biện pháp chuyên chính thay vì bạo lực. Dù vậy, vẫn khẳng định vợ và con cái trong nhà phải “theo chồng, theo cha”. Rất ít người cho rằng nam giới không nên có uy quyền, lấn át vợ và quan hệ vợ chồng phải bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Một đặc trưng nữa thường có liên hệ với quan niệm về nam tính, cũng như quan điểm về uy quyền của đàn ông, là người cha phải là người đóng vai trò chính trong dạy dỗ con cái, nhất là con trai. Đặc tính này được thể hiện theo hai cách: người cha phải quản lý việc học hành ở trường của con, đồng thời phải biết chỉ bảo con cái trong cuộc sống. Cha dạy con bao gồm giúp con làm bài tập ở nhà, dạy cho con cả những bài học về xã hội, như làm người đàn ông thì phải thế nào. Có mối quan hệ giữa uy quyền – đặc trưng chính trong quan niệm về nam tính ở Việt Nam – và cách nam giới thể hiện uy quyền thông qua việc dạy bảo cả vợ lẫn con cái. Chính vì vậy, việc bị thách thức uy quyền thường được coi là một lý do chính đáng để nam giới sử dụng vũ lực. Như vậy, là người chỉ giáo, biết giữ nền nếp, kỷ cương và có uy quyền là những đặc trưng chính trong quan niệm thế nào là đàn ông. Đây là những quan điểm phổ biến, được đa số nhất trí ở tất cả các đối tượng, bất kể địa vị xã hội, vị trí địa lý. Điều này cho thấy mức độ phổ biến của những đặc trưng này, cũng như những nếp sống liên quan, 18 trong quan niệm bá quyền ở xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, những đặc trưng về quan niệm nam tính có khác nhau, do ảnh hưởng của các yếu tố xã hội, kinh tế, địa lý. Hình mẫu đàn ông lý tưởng theo mô tả của các nam giới ở Huế, phần lớn là những người được học hành, lớn lên trong những gia đình trung-thượng lưu, khá khác biệt so với những nam giới được phỏng vấn ở Phú Xuyên, Hà Tây, đa số ít được đi học, lớn lên trong các gia đình nghèo. Ở Huế, hình mẫu đàn ông lý tưởng là phải “lịch sự”, “có tri thức”, “có học”. Sức mạnh cơ bắp thường không được nhấn mạnh trong quan niệm thế nào là người đàn ông thực sự. So với nam giới ở các khu vực khác, đàn ông Huế thường điềm đạm, ít nói hơn. Việc đàn ông Huế làm thơ là điều bình thường, vì đối với phụ nữ Huế, đây là một nét hấp dẫn. Chính vì vậy, “con trai mà vai u thịt bắp thì hay bị xem là thô kệch”, cho nên phải “điềm đạm, ít nói, thư sinh”. Vì “Huế nổi tiếng là đất văn hiến” nên người dân ở đây cũng coi trọng học hành hơn (vì như vậy mới tìm được việc làm tốt) so với những hoạt động khác như thể thao. Những người gốc Huế cho rằng, trước đây phụ nữ thường thích nam giới giỏi học hành, thứ mới đến những người giỏi lao động chân tay, “Nhất là học hay, nhì là cày giỏi”. Con gái thường không thích con trai “to khỏe, thích đánh nhau”. Rất ít người cho rằng “đàn ông thực sự” phải khỏe mạnh, đồng thời phải là “chỗ dựa cho vợ con cả về vật chất, tinh thần, sức khỏe”. Bình đẳng giới 19 Khác với Huế, ở Hà Tây, sức vóc lại được coi là tố chất lý tưởng của nam giới. Nhiều người mô tả nam giới có xu hướng thích bạo lực, nóng nảy, trong khi những đức tính như lịch sự, có học thường không được nhắc đến nhiều. Họ cho rằng con trai thì phải cao to, khỏe mạnh, vì như vậy mới đủ sức “chiến đấu”, được nể sợ, và con gái mới thích vì có khả năng bảo vệ cho họ. Nam giới ở Hà Tây thường xuyên nhắc đến với đặc tính nóng tính, nóng nảy nên nếu vợ “hỗn” thì bị chồng đánh là bình thường, trừ khi có người can ngăn. Như vậy, phụ nữ phải tránh lúc chồng “nóng tính” và phải biết “nhịn” khi chồng đang nóng. Những ý kiến về việc nam giới nóng tính này phù hợp với kết quả nghiên cứu hiện nay về quan niệm văn hóa trong sự khác biệt giữa phụ nữ (âm) và nam giới (dương) ở Việt Nam. Những khác biệt rõ ràng giữa Huế và Hà Tây cho thấy vai trò của những yếu tố xã hội, kinh tế, địa lý trong việc hình thành nên một số (dù không phải là tất cả) các quan niệm phổ biến về nam tính, đồng thời cũng cho biết cách hiểu của nam giới về hình mẫu đàn ông lý tưởng chủ yếu được xây dựng dựa trên các giả định về uy quyền của nam giới so với phụ nữ. Tuy các đặc tính của nam tính có khác nhau do yếu tố vùng miền, văn hóa mang lại, nó đều tựu chung về một điểm: Nam giới phải nam tính và phải dạy vợ, con để ổn định gia phong, và củng cố vị thế bá quyền của mình. 20 Bình đẳng giới Dịu dàng là vũ khí hay gông cùm của phụ nữ? Mạnh Hải Bình đẳng giới là vấn đề toàn cầu. Đã có nhiều giải pháp khác nhau, tốn kém nhưng dường như chưa thực sự mang lại hiệu quả. Ở cả các nước phát triển và đang phát triển, tỉ lệ phụ nữ trong vai trò lãnh đạo còn rất thấp. Phụ nữ chỉ chiếm 15,7% cán bộ quản lý trong các tập đoàn kinh tế và 11,4% trong các vị trí CEO. Đại diện của nữ trong các vị trí lãnh đạo chính trị cũng thấp. Ví dụ ở Mỹ chỉ có 14% dân biểu và 16% thống đốc bang là phụ nữ. Tương tự như vậy, ở Việt Nam chỉ có 10% bộ trưởng và 24% đại biểu quốc hội là phụ nữ. Hầu hết các nghiên cứu và phân tích nguyên nhân cho rằng, sự khác biệt giữa nam và nữ là do các yếu tố sinh học, điều kiện kinh tế và cơ hội giáo dục. Rất ít các phân tích về nguyên nhân tâm lý gây ra bất bình đẳng giới. Các thí nghiệm tâm lý đã cho thấy, có những hành vi cụ thể làm nặng thêm định kiến giới dẫn đến bất bình đẳng giới. Ví dụ đàn ông thường tự tiến cử mình, khuếch 21 đại kỹ năng và giá trị của mình khi đàm phán để có mức lương cao và cơ hội tốt hơn. Phụ nữ, ngược lại thường đánh giá thấp giá trị công việc của mình, quan tâm đến các vấn đề nội tâm hơn là công việc, và thường tham chiếu với mức lương thấp hơn sẵn có của phụ nữ khi đàm phán. Hậu quả là phụ nữ nhận lương thấp hơn cho dù làm công việc như nam giới. Các hành vi này được ủng hộ bởi chuẩn mực xã hội. Thái độ tự tâng của nam giới thường được chấp nhận hơn là thái độ tự tâng của nữ giới, đặc biệt là từ phía đàn ông. Tương tự, đàn ông thường nghiêm khắc với những người đàn ông khiêm nhường hoặc “yếu đuối” trong khi phụ nữ lại ủng hộ những người phụ nữ hiền lành. Như vậy, cả đàn ông và đàn bà đều cổ súy cho chuẩn mực tự tâng của đàn ông và hiền dịu của phụ nữ. Các nghiên cứu về tâm lý còn cho thấy nam giới và phụ nữ giao thiệp rất khác nhau. Phụ nữ thường nói một cách ngập ngừng hơn đàn ông, và họ thường nói ngập ngừng với đàn ông hơn là với phụ nữ. Nam giới lại thích những người phụ nữ ăn nói dịu dàng, và họ bị ảnh hưởng bởi phong cách ngập ngừng của phụ nữ hơn. Như là hậu quả, phụ nữ thường nói nhẹ nhàng và bị giảm cơ hội của họ có được những vị trí lãnh đạo trong quản lý, chính trị. Điều này là do các thuộc tính của lãnh đạo thường được gắn với “mạnh mẽ, quyết đoán”, và rõ ràng là không phù hợp với phụ nữ hiền dịu. 22 Như vậy, các chuẩn mực và khuôn mẫu giới được cổ súy bởi xã hội, đặc biệt bởi đàn ông. Nếu những chuẩn mực và khuôn mẫu này không được đánh đổ thì bất bình đẳng giới sẽ chỉ càng trở nên nghiêm trọng. Một chiến lược hiệu quả có thể đóng góp giải quyết vấn đề này đó là “cấy những thông điệp chuẩn mực” tích cực để thay đổi diễn ngôn về giới. Trong cuộc sống, người ta thường làm những gì mà được xã hội chấp nhận hoặc coi là phổ biến. Ví dụ ở Singapore, đường phố sạch sẽ nên không ai vứt rác ra đường và giữ vệ sinh chung được coi là hành vi chuẩn mực. Ở Việt Nam lại có đầy rác ở ngay cả nơi treo biển “cấm đổ rác” nên mọi người tiếp tục vứt rác ra đường vì đó là hành vi được coi là phổ biến. Chính vì vậy, các thông điệp truyền thông về bình đẳng giới nên thay đổi cách nói về vai trò của phụ nữ và nam giới. Cần nhấn mạnh, việc phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán, dấn thân, thành công là bình thường và phổ biến. Tương tự, việc nam giới nhẹ nhàng, không xông pha trong xã hội là bình thường và không phải là hiếm. Diễn ngôn này sẽ cân bằng với các chuẩn mực hiện có, tạo ra sự đa dạng và bình đẳng hơn trong lựa chọn cho cả nam và nữ. Bên cạnh đó, để các thông điệp về bình đẳng giới, ví dụ phòng chống bạo lực gia đình như “đánh vợ là vi phạm pháp luật và không được xã hội chấp nhận” có hiệu quả, cần tránh kèm theo các số liệu chỉ ra rằng hành vi đánh vợ là khá phổ biến. Nếu nói việc này khá phổ biến, có nghĩa Bình đẳng giới 23 “tôi đánh vợ là chuyện bình thường, thiên hạ làm việc đó đầy.” Tương tự như vậy, nếu muốn giảm việc phân biệt đối xử trong tuyển dụng với phụ nữ, các cơ quan quản lý lao động bên cạnh việc đưa ra những quy định rõ ràng, không nên trưng những số liệu để cho thấy việc phân biệt đối xử đang diễn ra tràn lan. Các thông điệp mang tính định hướng sử dụng để cổ vũ cho những hành vi tốt nên nhấn mạnh tính phổ biến của nó trong xã hội. Bằng cách nêu bật tính “đa số” của hành vi tốt, mọi người sẽ tuân thủ một cách tốt hơn. Cùng với các chiến lược về giáo dục và kinh tế, phương pháp tiếp cận tâm lý sẽ bổ sung và đóng góp vào việc xóa bỏ định kiến giới và bất bình đẳng giới, đặc biệt trong các chiến dịch truyền thông. 24 Bình đẳng giới Tình dục, mại dâm và sự thiệt thòi của phụ nữ Thu Hiền “Nam nữ thụ thụ bất thân” là một giá trị “lâu đời” của nhiều người Kinh. Cho đến ngày nay nó vẫn được duy trì ở cả nông thôn và thành thị. Trên thực tế, nó được sử dụng để “quản lý” hành vi tình dục của phụ nữ nhiều hơn là đàn ông. Điều này được thể hiện qua các hình phạt như “cạo đầu bôi vôi” ngày xưa, hoặc những câu châm ngôn cay độc “gái không chồng mà chửa” được dùng ngày nay nhằm lên án và ngăn cản các hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân, hoặc ngoài hôn nhân của phụ nữ. Trong những vụ việc này, người đàn ông dường như vô can và không chịu hình phạt nào của xã hội. Tương tự như vậy, gần đây rộ lên những bàn luận về chuyện mại dâm nam mà khách hàng là những người phụ nữ trung niên. Do những hoàn cảnh khác nhau như độc thân, không thỏa mãn nhu cầu tình dục với chồng, hoặc đơn giản muốn tìm cảm giác lạ mà những người phụ nữ này tìm đến các chàng trai trẻ. Khoan hãy bàn về khía cạnh 25 đạo đức và pháp luật của việc mua bán dâm, chúng ta hãy xem cách xã hội phân biệt đối xử với phụ nữ như thế nào. Thay vì lên án những người bán dâm nam, báo chí và dư luận xã hội lại tập trung vào dè bỉu những người phụ nữ đi mua dâm, lên án lối sống “trác táng” và nhu cầu “dị biệt” của họ. Trong khi nam giới đi mua dâm, tất nhiên cũng với các cô gái trẻ, thì xã hội lại tập trung phê phán những người phụ nữ bán dâm. Trong trường hợp nào, phụ nữ cũng là người có lỗi và cần phải điều chỉnh hành vi tình dục của mình. Tại sao lại như vậy? Lý do đầu tiên là quan niệm xã hội cho rằng phụ nữ phải là người “bị động” trong quan hệ yêu đương và đặc biệt trong quan hệ tình dục. Khi nam giới đi “chinh phục” phụ nữ hoặc được nhiều cô gái thích thì anh ta được coi là “sát gái” hoặc “đào hoa”. Còn khi phụ nữ chủ động hoặc có nhiều người đàn ông thích thì bị khép vào tội “lăng nhăng” hoặc “dâm đãng”. Điều này có nghĩa phụ nữ cần phải gìn giữ trinh tiết và sống “chính chuyên”, dù có nhu cầu tình dục cũng phải kìm nén. Nếu họ chủ động, có nghĩa họ đã phá vỡ khuôn mẫu xã hội tạo ra, và bị lên án bởi cả nam giới và những người phụ nữ khác trong xã hội. Thứ hai, từ trước đến nay phụ nữ bị coi là phải phục vụ đàn ông trong cuộc sống tình dục. Khi được đòi hỏi, phụ nữ phải cắn răng thỏa mãn nhu cầu của chồng dù không muốn. Nếu không, họ có thể phải đối mặt với bạo lực gia đình vì “làm vợ” là một “thiên chức” của người phụ 26 nữ. Mà làm vợ, có nghĩa là thực hành chức năng của “giống cái” – thỏa mãn nhu cầu tình dục của giống đực và sinh con đẻ cái. Chính vì vậy, khi nam giới phải phục vụ nữ giới trong tình dục đã đi ngược lại vai trò giới trong quan hệ tình dục. Nó đe dọa vị thế và nam tính của người đàn ông. Đây là lý do để nhiều người chĩa mũi dùi vào người phụ nữ đi mua dâm. Nhưng có lẽ, nguyên nhân quan trọng nhất đó là quan niệm về tình dục vẫn tồn tại trong xã hội: tình dục phải gắn với hôn nhân và duy trì nòi giống. Đối với nhiều người, tình dục phải gắn với “tính loài” nên tình dục ngoài hôn nhân và không gắn với sinh sản là vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Nó đi ngược lại thuần phong phong mỹ tục. Để duy trì đức hạnh, người phụ nữ phải kìm nén và hy sinh nhu cầu tình dục của mình. Rõ ràng người phụ nữ đi mua dâm đang bị lên án nhiều hơn người đàn ông đi mua dâm. Xét trên khía cạnh quyền bình đẳng, phụ nữ cũng như người đàn ông đều có quyền có cuộc sống tình dục an toàn và thỏa mãn. Nếu quan hệ tình dục của người phụ nữ không vi phạm những giá trị đạo đức (như ngoại tình hoặc quan hệ cận huyết) hoặc sức khỏe (như lây nhiễm bệnh tật) thì cũng cần phải được tôn trọng. Chính vì vậy, việc người phụ nữ đi mua dâm (nếu mại dâm được hợp pháp hóa) cũng cần coi là bình thường và được tôn trọng như người đàn ông đi mua dâm. Bình đẳng giới 27 Hợp pháp hóa mại dâm việc đúng nên làm Bình Lê Con người sở hữu cơ thể của mình, có nghĩa họ có quyền làm bất cứ điều gì với cơ thể của họ. Đây là cốt lõi của tự do và là nguồn gốc của nhiều quyền con người những người đã được thừa nhận và bảo vệ bởi pháp luật. Con người sở hữu cơ thể của mình cũng có nghĩa họ sở hữu sức lao động. Họ có quyền quyết định sử dụng sức lao động của mình vào việc họ muốn, miễn là không xâm phạm quyền của người khác. Như vậy, con người có quyền dùng cơ thể và sức lao động của mình cho việc bán dâm. Điều này cũng giống như những người sử dụng cơ thể và sức lao động của mình để làm tiếp viên hàng không, nhân viên văn phòng, người mẫu hoặc ca sĩ. Mọi người tự do lựa chọn nghề nghiệp, tự do làm hay không làm việc. Không ai có quyền cấm hoặc bắt ép người khác làm việc vì như vậy là vi phạm quyền con người vì lao động bắt buộc (forced labor) và tình trạng nô lệ (slavery) là phi pháp. Câu hỏi đặt ra là tại sao những nghề khác được tôn 28 vinh còn nghề mại dâm thì bị lên án, thậm chí bị thu gom và phạt hành chính? Xét bản chất của mại dâm, ta thấy đây là một hoạt động dựa trên hợp đồng (thường là bằng miệng) giữa hai người trưởng thành, theo nguyên tắc “có đi có lại”. Người bán dâm có trách nhiệm cung cấp dịch vụ, đó là cơ thể và kỹ năng của mình để cho người mua dâm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Người mua dâm có nghĩa vụ trả tiền cho người bán dâm theo thỏa thuận hợp đồng. Vì người bán dâm sở hữu cơ thể của mình, nên họ hoàn toàn có quyền làm điều đó. Còn người mua dâm là công dân nên có tư cách pháp nhân thực hiện giao dịch dân sự này. Tranh cãi về mại dâm thường xuất phát từ giá trị đạo đức của việc mua bán dâm. Nếu xét về đạo đức, chúng ta có thể xem xét từ hai khía cạnh: bản chất của việc bán dâm và ảnh hưởng/hậu quả của việc mua bán dâm. Như thảo luận ở trên, việc mua bán dâm là một việc tự nguyện, người bán dâm đối xử tốt với khách hàng của mình, còn người mua dâm tôn trọng người cung cấp dịch vụ cho mình. Cả hai đều đạt được mục đích, một người có thu nhập một người được thỏa mãn. Chính vì vậy, bản thân hoạt động mua bán dâm không vi phạm đạo đức vì hai người liên quan không bị lợi dụng hoặc tổn hại gì. Nhiều người cho rằng cho phép mại dâm sẽ hạ thấp giá trị của người phụ nữ vì đa số người bán dâm là phụ nữ. Ở đây, có hai vấn đề cần phải làm rõ. Thứ nhất, những người Bình đẳng giới 29 bán dâm có thể là cả nam giới và nữ giới vì cả phụ nữ và đàn ông đều có nhu cầu mua dâm. Thứ hai, những người phụ nữ bán dâm không đại diện cho giới phụ nữ nói chung. Họ chỉ đại diện cho bản thân họ như những con người độc lập, riêng rẽ và có nhân phẩm. Nói cách khác, phụ nữ bán dâm cũng như phụ nữ bán hàng rong, phụ nữ trí thức, phụ nữ giáo viên đều không thể đại diện cho giới phụ nữ nói chung. Chính vì vậy, việc đánh đồng việc phụ nữ bán dâm có nghĩa là hạ thấp nhân phẩm của phụ nữ là không hợp logic. Có ý kiến cho rằng, cho phép mại dâm sẽ dẫn đến sự tan vỡ của gia đình vì vợ hoặc chồng sẽ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Suy luận này là sai lầm vì việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân hay không là quyết định cá nhân dựa trên giá trị đạo đức của họ chứ không phải dựa trên việc có dịch vụ mại dâm hay không. Nếu một người cho rằng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là xấu, là vi phạm đạo đức thì họ sẽ không bao giờ thực hiện điều đó. Ngược lại, nếu đó không phải là giá trị đạo đức họ coi trọng thì họ sẽ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân với bạn tình hoặc người bán dâm, dù cấm hay không. Ngoài ra, mại dâm cũng tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Khi có cầu thì tất có cung. Nhiều người đàn ông và phụ nữ đến tuổi trưởng thành đều có nhu cầu quan hệ tình dục. Nhiều người có người yêu, có bạn tình để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhiều người không có nên phải lựa chọn hoặc là thủ dâm, hoặc là tìm đến dịch vụ mại 30 dâm. Đây là điều bình thường trong xã hội vì quan hệ tình dục là nhu cầu bình thường của đa số mọi người. Còn quan hệ như thế nào, với ai thì là quyền của mỗi người, tùy vào giá trị đạo đức, tôn giáo cũng như điều kiện kinh tế, xã hội của họ. Rõ ràng, nhu cầu này là độc lập với gia đình vì họ là những người trưởng thành, chưa lập gia đình. Như vậy, hoạt động mua bán dâm không vi phạm quyền con người của ai, không làm thấp giá trị của ai, không làm tổn hại giá trị đạo đức tốt đẹp nào, và không phải là nguyên nhân phá vỡ gia đình. Ngược lại, việc cấm hoặc tội phạm hóa mại dâm lại có những vấn đề về công bằng và đạo lý mà chúng ta cần phải phân tích. Thứ nhất, như đã nói ở phần đầu, con người là tự do và bình đẳng, có quyền sở hữu cơ thể của mình, sử dụng sức lao động của mình vào những việc không làm tổn hại đến quyền của người khác. Cấm mại dâm, có nghĩa là tước đi quyền sở hữu cơ thể và sức lao động của những người phụ nữ và nam giới bán dâm. Điều này cũng có nghĩa là họ bị đối xử không bình đẳng như những con người khác trong việc lựa chọn nghề nghiệp của mình. Thứ hai, những người vẫn thực hiện hoạt động bán dâm vô hình chung trở thành yếu thế trong giao dịch hợp đồng mua bán dâm với khách hàng của mình. Khi hoạt động của họ là phi pháp, có nghĩa họ không được bảo vệ, không có quyền lực để đàm phán và bắt khách hàng thực thi nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Điều này dẫn tới Bình đẳng giới 31 những chèn ép, quỵt tiền, hoặc hành hung, đánh đập họ vì đối tác có nhiều quyền lực hơn, sẵn sàng tố cáo họ hành nghề phi pháp. Nhiều người bị ép phải quan hệ tình dục vượt quá sức chịu đựng, hoặc theo cách rủi ro gây đến tổn hại về sức khỏe và bệnh tật. Rõ ràng việc cấm mại dâm đã làm tổn hại ghê gớm đến quyền của những người bán dâm, và đây chính là vấn đề đạo đức cần xem xét. Thứ ba, việc cấm mại dâm dẫn đến hoạt động này được thực hiện trong thế giới ngầm không thể quản lý được. Nhiều người tham gia vào việc môi giới mua bán dâm, thu lợi và thậm chí chèn ép cả khách hàng lẫn người bán dâm gây ra nhiều vấn đề xã hội. Về bản chất, việc môi giới mua bán dâm cũng giống như việc môi giới mua bán nhà đất. Tuy nhiên, vì mại dâm đang bị cấm nên việc môi giới là phạm pháp. Nếu mại dâm được hợp pháp hóa thì rõ ràng việc quản lý dịch vụ này sẽ rõ ràng hơn, minh bạch hơn và những người tham gia vào dịch vụ môi giới có thể đăng ký kinh doanh và nộp thuế. Thuế sẽ được sử dụng cho việc quản lý cũng như chăm sóc y tế cho những người tham gia hoạt động mại dâm. Nhiều người lo lắng nếu hợp pháp hóa mại dâm thì sẽ làm cho hoạt động này bùng nổ. Lo lắng này là không cần thiết vì khi mại dâm là một hoạt động kinh tế bình thường thì việc tăng hay giảm cũng là điều bình thường, nó cũng sẽ tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Nhà nước có thể tham gia điều tiết thông qua quy hoạch, đánh thuế 32 cũng như thúc đẩy các bàn luận về đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội để cho mọi người tự quyết định cho hành vi đúng sai của mình. Việc hợp pháp hóa mại dâm là việc đúng nên làm, vì rõ ràng nó không vi phạm giá trị đạo đức cũng như quyền của bất kỳ ai. Ngược lại, việc cấm mại dâm đang vi phạm quyền sở hữu thân thể và sức lao động của những người bán dâm. Nó tạo ra sự bất bình đẳng và yếu thế cho những người bán dâm. Đây chính là vấn đề đạo đức của việc cấm mại dâm cần được gỡ bỏ. Khi đó, việc hợp pháp hóa mại dâm cũng giúp cho nhà nước quản lý tốt hơn, minh bạch hơn và nhân văn hơn. Bình đẳng giới 33 Đàn ông Việt Nam: bạo lực và ngoại tình? Vũ Hồng Phong Scott và Trương Thị Kim Chuyên (2007) đã nêu lên rằng hình ảnh bạo lực của đàn ông người Kinh nổi lên rất rõ trong các nghiên cứu xuất bản trong nước. Đó là người đàn ông có gia đình, chịu ảnh hưởng của đạo đức Khổng giáo: là người trụ cột trong gia đình, coi trọng dòng họ cha và việc thờ cúng, coi trọng việc có con trai, cũng như coi sử dụng bạo lực như một cách để thể hiện vai trò làm chủ trong gia đình. Người đàn ông đó sẽ bị xem là kém cỏi, mất mặt, hay mất danh dự nếu không phải hay không thể là trụ cột gia đình, không coi trọng việc thờ tự và quan hệ dòng họ, không có con trai, và không “biết” dạy vợ. Các tác giả nước ngoài viết về nam tính ở Việt Nam, như Helle Rydstrøm (2003, 2006) cũng theo lối phân tích kể trên. Theo Helle thì việc đàn ông sử dụng bạo lực đối với vợ của họ có liên quan đến quan niệm dân gian về “tính nóng” và “tính lạnh”, những xúc cảm mà các cựu binh mang về từ chiến trường, và các chuẩn mực đạo đức Khổng giáo. Helle 34 mô tả rằng tính cách của nam giới được cho là có thuộc tính “nóng” một cách tự nhiên, còn của phụ nữ thì có tính “lạnh”. Tính nóng ấy, nói cách khác, được cho là một phần tự nhiên của nam tính. Nam giới thể hiện ‘tính nóng’ thông qua việc sử dụng bạo lực trong việc dạy con (nhất là con trai) và trong quan hệ với vợ, qua đó, thể hiện nam tính của họ. Sự thể hiện “tính nóng” có thể trở nên bạo lực hơn khi nam giới đã uống rượu, hoặc trải qua các cơn đau do chấn thương thời chiến tranh tái phát. Phụ nữ có tính “lạnh” và bị canh giữ bởi những chuẩn mực đạo đức Khổng giáo, cho nên họ có xu hướng chấp nhận sự bạo lực của đàn ông. Như vậy, Helle Rydstrøm và nhiều tác giả khác đã cung cấp một quan điểm khá cứng nhắc về nam tính ở Việt Nam. Có thể thấy rằng trong các nghiên cứu của họ thì nam giới thường được mô tả là những người tạo ra vấn đề cho phụ nữ và trẻ em chứ không phải là những người cũng đang phải chịu đựng những vấn đề của riêng họ. Các nhà nghiên cứu dường như phụ thuộc quá nhiều vào các quan niệm Khổng giáo truyền thống để mô tả về nam tính và nữ tính mà chưa tính đến tác động của những biến đổi kinh tế, xã hội mạnh mẽ ở nông thôn Việt Nam trong những thập kỷ gần đây đối với những hình mẫu nam tính và nữ tính theo truyền thống Khổng giáo đó. Khi trào lưu nghiên cứu về tính dục trở nên nở rộ vào giữa những năm 1980s, thời điểm mà người ta tìm thấy mối liên hệ giữa sự truyền nhiễm HIV và quan hệ Bình đẳng giới 35 tình dục, thì người đàn ông ngoại tình bỗng trở thành đối tượng giám sát của ngành y tế công cộng (Choi et al., 1994; Mitsunaga et al., 2005). Ở Việt Nam, từ giữa những năm 1990 trở lại đây, do ảnh hưởng của trào lưu này, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào chủ đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của nam giới, và gần đây hơn, thì đã tập trung vào quan hệ tình dục trước hôn nhân của nam giới. Hầu hết các nghiên cứu này đều gắn hành vi quan hệ ngoài hôn nhân với các nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, và việc làm lây lan các bệnh đó cho những người ‘bình thường’ khác. Một ví dụ tiêu biểu cho loại nghiên cứu này là công trình của Phinney (2008). Khi nghiên cứu những biến đổi về kinh tế, xã hội thời kỳ sau Đổi Mới ở Hà Nội, Phinney nhận thấy rằng những biến đổi này, như là sự dư dả về tiền mặt, sự bùng nổ của các dịch vụ giải trí, quảng cáo hướng đến nam giới và nam tính, và sự sẵn có của các cơ hội ngoại tình khác, đã góp phần hình thành và thúc đẩy sự ngoại tình ở nam giới. Phinney đã rất giỏi trong việc vận dụng những câu “tục ngữ mới” của người dân Hà Nội vào việc mô tả hiện tượng ngoại tình. Ví dụ, câu “chán cơm, thèm phở” được tác giả dùng ngay làm tiêu đề cho bài báo, đã tạo được sự thú vị rất lớn cho người đọc. “Cơm” là từ lóng để chỉ “người vợ”, còn “phở”, một thứ được cho là ngon hơn cơm, thỉnh thoảng mới được ăn trong thời kỳ bao cấp, là từ lóng để chỉ “người tình” thời nay. 36 Khi mô tả đô thị như là một nơi nam giới có thể dễ dàng có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, Phinney cho rằng điều này có thể làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/ AIDS trong cộng đồng. Cuối bài viết tác giả khuyến nghị rằng cần có biện pháp để nam giới Việt Nam sử dụng bao cao su nhiều hơn, và cần phải có cách để cải thiện sự giao tiếp giữa vợ chồng (hay là những người bạn tình) để có thể phòng tránh sự lây lan của HIV tốt hơn. Có vấn đề gì trong lập luận rằng ngoại tình đang có xu hướng tăng lên và rằng ngoại tình có liên quan đến sự lây lan HIV/AIDS như ta thấy trong nghiên cứu của Phinney không? Hiện tại, không hề có bằng chứng chắc chắn nào nói rằng ngoại tình đã tăng lên, hoặc là tình dục của những người nam giới ngoại tình là không an toàn. Việc gắn ngoại tình với HIV/AIDS có thể gây ra những hệ quả không mong muốn khi mà sự kết hợp của diễn ngôn đạo đức (ví dụ, người ngoại tình là “bạc bẽo”, “không biết giữ mình”, “không chung thủy”) và diễn ngôn y tế công cộng (ví dụ người ngoại tình “có nguy cơ nhiễm HIV cao”) sẽ chỉ làm cho những người này che giấu hành vi của mình hơn để đối phó lại sự kỳ thị chống lại họ. Rõ ràng việc tập trung vào người đàn ông bạo lực và người đàn ông ngoại tình mà các nghiên cứu về nam tính ở Việt Nam trình bày trong bài viết chưa thể hiện được sự đa dạng của các loại nam tính. Hơn nữa, việc một số học giả cố gắng định nghĩa nhóm nam giới bạo lực hay ngoại Bình đẳng giới 37 tình là các nhóm ‘có nguy cơ’ phản ánh sự vượt trội của các chương trình nghiên cứu được tài trợ bởi các quỹ hay các tổ chức có mục đích chính là nâng cao sự bình đẳng giới cho phụ nữ, hay phòng chống sự lan truyền của HIV/ AIDS ở Việt Nam. Theo mạch này, ngày càng nhiều ‘nhóm nguy cơ’ mới sẽ được phát hiện. Ví dụ, gần đây đã có một số người nói đến sự cần thiết phải nghiên cứu nguy cơ nhiễm HIV/ AIDS trong nhóm nam quan hệ tình dục cùng giới (MSM) hoặc nam thành phố lao động tự do. Đặc điểm chung của những người bị gán mác ‘có nguy cơ’ là họ là nhóm yếu thế hơn, hay nói cách khác là cách làm đàn ông của họ không được những nhóm khác có nhiều quyền lực hơn ủng hộ. Những người càng yếu thế thì càng khó có khả năng kháng cự lại cái nhãn ‘có nguy cơ’ mà người ta gán cho họ. Việc này dẫn đến định kiến kỳ thị, tạo ra hình ảnh xấu xí của người đàn ông Việt Nam. Hơn nữa, nó có thể dẫn đến tự định kiến và gây ra những khó khăn cho việc tham gia của đàn ông vào việc phòng chống HIV cũng như bình đẳng giới thật sự. 38 Bình đẳng giới Ai nhốt phụ nữ trong địa ngục gia đình? Thu Hiền Có những người phụ nữ không muốn ly dị dù bị đánh đập, bạo dâm, và hạ nhục, thậm chí phải tự tử để giải thoát mình. Tại sao họ lại cam tâm chịu đựng? Tại sao họ không dám từ bỏ người chồng vũ phu, không yêu thương mình, để thoát khỏi địa ngục trần gian, tìm một tương lại tốt đẹp hơn? Tại sao họ bị nhốt trong nhà tù có tên là bạo lực gia đình? Có nhiều lý do, nhưng đầu tiên đó là quan niệm về gia đình, và vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Tam tòng, tứ đức vẫn là những giá trị còn tồn tại dai dẳng trong xã hội Việt Nam. Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử) nói lên vai trò phụ thuộc, phục dịch của người phụ nữ cho dòng họ nhà chồng. Chuẩn mực của một người vợ tốt là tứ đức gồm công (khéo léo may vá, bếp núc, chăm sóc chồng con), dung (biết chăm sóc thân thể của mình để đẹp cho chồng), ngôn (ăn nói dịu dàng, mềm mỏng đề vừa lòng chồng), hạnh (nết na, hiền thảo, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con). 39 Chính quan niệm Nho giáo này đã đẩy người phụ nữ vào thế bị động, như hạt mưa sa vào trong giếng nước, gặp giếng trong thì hạnh phúc, gặp giếng đục thì tủi hờn. Vị thế “yếu và phụ thuộc”, do quan niệm xã hội tạo ra, làm người phụ nữ không dám phản kháng lại những bất công, bạo lực đối với mình. Có người cũng muốn thoát ra, nhưng ngay lập tức bị bủa vây bởi định kiến xã hội, cho rằng gia đình tan vỡ là do người phụ nữ không biết nhường nhịn, “chín bỏ làm mười”. Họ bị đổ lỗi là nguyên nhân thất bại trong việc giữ lửa cho gia đình. Điều này một lần nữa đẩy người phụ nữ quay lại với cuộc sống địa ngục có tên là bạo lực gia đình. Có những người phụ nữ vượt qua được lễ giáo, và sẵn sàng bỏ qua dư luận để giải thoát mình. Tuy nhiên, họ lại bị ràng buộc bởi suy nghĩ “hy sinh đời mẹ vì hạnh phúc của đời con”. Họ bị thuyết phục rằng ly dị có nghĩa là tạo ra một gia đình tan vỡ, con sẽ phải sống với mẹ, hoặc với cha. Một gia đình không “tròn trịa”, thiếu cha hoặc thiếu mẹ, sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của con cái. Chính vì vậy, việc chạy trốn khỏi bạo lực gia đình bị xem như là hành vi ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, không quan tâm đến con cái. Người mẹ nào cũng thương con, và vì con, họ lại chịu đựng cuộc sống tủi nhục của mình. Nhiều nghiên cứu khác nhau, ví dụ của Judith S. Wallerstein, cho thấy ly hôn có tác động đến sự phát triển của trẻ. Sự chia tay của cha mẹ, có thể để lại một vết sẹo tiêu cực, làm cho trẻ khó khăn hơn trong quá trình trưởng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan