HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
************
BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2010
MÃ SỐ: B. 10-20
DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Cơ quan chủ trì: VIỆN VĂN HÓA & PHÁT TRIỂN
Chủ nhiệm: THS. TRẦN KIM CÚC
8543
HÀ NỘI - 2010
i
DANH SÁCH CÁN BỘ THAM GIA NGHIÊN CỨU
1. ThS. Trần Kim Cúc
2. TS. Phạm Ngọc Dũng
3. Nguyễn Ngọc Diệp
4. ThS. Trần Nhị Hà
5. ThS. Trần Mai Hùng
6. ThS. Trần Quốc Hùng
7. PGS,TS. Trần Ngọc Linh
8. Biện Thị Hương GIang
9. ThS. Nguyễn Thị Hồng Minh
10. ThS. Trần Văn Quí
11. ThS. Chu Lam Sơn
12. Nguyễn Kim Thanh
13. ThS. Cao Bá Thành
14. ThS. Đinh Văn Thụy
11. TS. Lê Văn Trung
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCHC
Cải cách hành chính
CBCC
Cán bộ, công chức
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
DVC
Dịch vụ công
DVHCC
Dịch vụ hành chính công
DVCC
Dịch vụ công cộng
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
QLNN
Quản lý nhà nước
NNPQ
Nhà nước pháp quyền
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WB
Ngân hàng Thế giới
iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................
1
NỘI DUNG.................................................................................................................................................
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG...... 11
1.1. Cơ sở lý luận về dịch vụ hành chính công ..................................................
11
1.2. Cung ứng dịch vụ hành chính công ở các nước và bài học rút ra
cho Việt Nam.................................................................................................................
43
Chương 2: THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999-2010.......................................................................
61
2.1. Cung ứng dịch vụ hành chính công giai đoạn 1999-2010.................... 53
2.2. Đánh giá về hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công................. 82
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH
VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................... 96
3.1. Định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công……........ 96
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công
hiện nay………………….……………………………………………………………..... 100
KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 134
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 136
PHỤ LỤC................................................................................................................................................... 138
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
- Cải cách DVHCC đang là xu hướng và đòi hỏi trong bối cảnh cải
cách hành chính, phát triển nền kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ ở
Việt Nam hiện nay.
Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã
làm thay đổi một cách căn bản các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong quá trình
này, vấn đề xác định vai trò của Nhà nước trong cung ứng các DVC, trong
đó có DVHCC là hết sức cần thiết. Nhà nước nên làm những việc gì, làm
như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, giảm bớt
gánh nặng cho ngân sách; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh
nghiệp khi tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước đang là vấn đề cấp
bách đặt ra hiện nay.
Với xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội, trình độ dân trí ngày càng
nâng cao đòi hỏi Nhà nước buộc phải có những điều chỉnh nền hành chính
công thích ứng. Theo xu hướng chung, Nhà nước phải chấp nhận sự tham
gia của người dân vào những công việc vốn vẫn do nhà nước đảm nhận;
thực hiện cải thiện mô hình hành chính công theo hướng xã hội hóa, phi tập
trung, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân, với tư cách là những
"khách hàng". Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước không chỉ thực hiện chức
năng cai trị, mà ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò cung ứng dịch vụ, mà
trong đó có dịch vụ hành chính công. Công chức trong bộ máy hành chính
không chỉ là người có quyền ra mệnh lệnh, mà đòi hỏi thực sự phải là "công
bộc", "đầy tớ" của nhân dân. Nhà nước thể hiện quyền lực nhân dân, có
2
trách nhiệm cung ứng dịch vụ hành chính công nhằm đáp ứng các yêu cầu,
lợi ích chính đáng của công dân theo qui định pháp luật.
Vì vậy, theo chúng tôi việc triển khai nghiên cứu vấn đề này là cần
thiết, qua đó sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn
thiện cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ hành chính công ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Xuất phát từ vai trò của Nhà nước và dịch vụ hành chính công đối
với sự phát triển của xã hội.
Trong xã hội hiện đại, cùng với những biến đổi trong đời sống kinh tế
- xã hội, Nhà nước đang có những thay đổi quan trọng cả về tổ chức lẫn
chức năng. Lịch sử cho thấy Nhà nước có hai chức năng cơ bản: (1) công cụ
bảo vệ lợi ích giai cấp và (2) quản lý công việc chung của xã hội; hay người
ta thường gọi là chức năng quản lý xã hội và chức năng phục vụ xã hội, hai
chức năng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Chức năng quản lý xã hội thể hiện đặc trưng của bộ máy nhà nước,
chế độ chính trị; Nhà nước thực hiện chức năng này của mình thông qua các
hoạt động công quyền như: xây dựng thể chế, chính sách, qui hoạch phát
triển và tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát các hoạt động của xã hội…
Chức năng phục vụ xã hội, được thực hiện thông qua nhiều hoạt động, mà
trong đó cung cấp DVHCC giữ một vị trí quan trọng, nó thể hiện khả năng
đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của nhà nước đối với công dân, hay nói cách
khác nó là sự phản ánh năng lực và bản chất của chế độ nhà nước.
Ở Việt Nam, cho đến nay nhà nước vẫn là chủ thể chủ yếu trong cung
ứng DVHCC. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với mục tiêu xây dựng “nhà
nước của dân, do dân, vì dân” thì việc Nhà nước cung cấp các DVHCC phục
vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững là điều
3
tất yếu. Song xuất phát từ thực trạng cung cấp hiện nay cho thấy rằng việc
tìm kiếm mô hình phù hợp trong cung ứng DVHCC là hết sức quan trọng,
nhằm đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của bộ máy nhà nước;
các quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
DVHCC là loại hình dịch vụ mang tính đặc thù do các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện, nó gắn với thẩm quyền mang tính quyền lực pháp
lý, với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ có tính chất pháp lý của tổ chức và công dân như cấp
phép, hộ tịch, chứng thực, công chứng..., đây là những vấn đề liên quan trực
tiếp đến đời sống hàng ngày, quyền và lợi ích của công dân mà Nhà nước
phải có nghĩa vụ đảm bảo. Xuất phát từ vai trò của Nhà nước và tầm quan
trong của dịch vụ hành chính công, chúng tôi cho rằng, việc nghiên cứu cơ
sở lý luận nhằm xác lập mô hình cung ứng dịch vụ hành chính công phù
hợp, đảm bảo các quyền, lợi ích của công dân; thực hiện tốt vai trò quản lý
của Nhà nước trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.
- Thứ ba, xuất phát từ những hạn chế trong cung ứng dịch vụ hành
chính công ở Việt Nam hiện nay.
Trên thế giới, vào những năm cuối thế kỷ 20, chi tiêu của các chính
phủ chiếm khoảng 35% GDP. Những người muốn quảng bá cho một chính
phủ tích cực biện hộ rằng chính phủ "đóng góp" 35%; còn những người đòi
hỏi giảm thiểu vai trò của chính phủ thì cho rằng chính phủ "lấy mất" 35%.
Bất chấp những nỗ lực công khai trong những năm qua nhằm điều chỉnh quy
mô cho phù hợp về thành phần và giới hạn của chính phủ thì chi tiêu của
chính phủ vẫn tăng một cách tương đối từ 32% GDP vào năm 1982 lên 34%
GDP vào năm 19991. Những con số này vượt xa sự tưởng tượng của các nhà
1
Ngân hàng Phát triển châu Á- ADB (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công
trong một thế giới cạnh tranh (sách dịch); NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 36.
4
kinh tế học cổ điển như Adam Smith hay David Ricardo, những người cho
rằng chính phủ nên đóng vai trò như "người gác cổng".
Rõ ràng chính phủ ở các nước ngày càng trở nên phình to quá mức, và
đối với một số người là không thể chấp nhận được. Mức chi tiêu cao của
chính phủ trong cung ứng dịch vụ hành chính công đã tạo nên những khoản
thâm hụt tài chính lớn, bóp nghẹt đầu tư tư nhân và làm giảm sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Đồng thời chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ hành
chính công lại không được cải thiện rõ rệt. Vai trò và trách nhiệm của chính
phủ luôn bị ảnh hưởng rất lớn bởi các sức ép kinh tế, vì thế cần thiết phải có
sự đánh giá lại trách nhiệm cơ bản của chính phủ trong lĩnh vực quản lý kinh
tế và cung cấp dịch vụ hành chính công.
Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua đã có những cải cách khá mạnh
mẽ trong cung ứng DVHCC như: cải cách thủ tục hành chính; quy trình, bộ
máy, cơ chế cung ứng; hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ; tăng cường
sự kiểm tra, giám sát đối với cơ quan cung... Bên cạnh những thành thành
tựu đạt được, hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công hiện đang bộc lộ
không ít hạn chế. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới hàng loạt mâu thuẫn
như: (1) mâu thuẫn giữa nhu cầu dịch vụ hành chính công với khả năng
cung ứng của Nhà nước; (2) mâu thuẫn giữa khoản kinh phí chi ra quá lớn
với chất lượng dịch vụ, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn eo
hẹp. Bên cạnh đó, sự độc quyền (đặc thù) trong cung ứng DVHCC đã làm
tăng tính quan liêu, cửa quyền của bộ máy nhà nước. Những mâu thuẫn trên
cho thấy cần phải nhanh chóng xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện luật
pháp nhằm nâng cao chất lượng DVHCC hiện nay.
Từ những lý do trên cho thấy, nghiên cứu và lý giải những vấn đề về
DVHCC là việc làm hết sức cần thiết ở Việt Nam. Nó giúp chúng ta có cơ
sở lý luận để nhận thức một cách đầy đủ về DVHCC; qua đó thiết lập căn cứ
5
để cải cách DVHCC phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay. Do
đó, việc nghiên cứu Dịch vụ hành chính công trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là vấn đề hết sức cần thiết, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.
DVHCC là một loại dịch vụ đặc biệt, gắn liền với Nhà nước và do
Nhà nước cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Cho dù cấu trúc
của các nhà nước rất khác nhau giữa các châu lục và giữa các thời kỳ nhưng
lập luận về vai trò đích thực của Nhà nước lại luôn có nét tương đồng. Nhìn
chung, sự bàn luận luôn xoay quanh việc xử lý mối quan hệ về quyền hạn và
nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân, và hầu hết đều nhất trí một vai trò cho
nhà nước trong việc cung cấp những dịch vụ công cơ bản nhằm đảm bảo lợi
ích của công dân; sự an ninh về người và tài sản bằng các nguồn lực công1.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ khảo sát chủ đề DVHCC từ
những nghiên cứu dưới góc độ ngành khoa học hành chính công. Có một vài
căn cứ cho sự lựa chọn này. Thứ nhất, hành chính công với tư cách là một
khoa học nghiên cứu các hoạt động của chính phủ vì lợi ích chung, trong đó
có việc cung cấp các DVHCC. Thứ hai, theo quan điểm hiện nay, trong các
dịch vụ công, nhóm DVHCC cần được cung ứng trên nguyên tắc hiệu quả
về mặt chính trị -xã hội, và đó là mối quan tâm của khoa học hành chính
công. Thứ ba, các nghiên cứu về DVHCC thường gắn liền với khoa học
hành chính công.
Các nghiên cứu về chủ đề này đối với khu vực, nhóm hay một nước
cụ thể có rất nhiều. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, có thể tham khảo
1
World Bank (1997), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997: Nhà nước trong một thế giới
đang chuyển đổi (Sách dịch); NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội, tr. 34-35.
6
thêm các công trình nghiên cứu của nước ngoài như:
1.
ADB (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công
trong một thế giới cạnh tranh (sách dịch); Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2.
Anttonen, A. (1996), Dịch vụ công ở Châu Âu: Liệu có thể xác
định các mô hình?; Journal of European Social Policy (6), Longman;
3.
Boyle, R. (1995), Hướng tới một dịch vụ công mới; Dublin,
Institution of Public Administration;
4.
Buchanan, James (1977), Vì sao chính phủ mở rộng?; Durham,
N.C: Duke University Press;
5.
David Osborne, Ted Gaeble (1997), Đổi mới hoạt động của
Chính phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
6.
Humphreys, P. (1998), Cải tiến việc cung ứng dịch vụ công;
Discussion Paper 7, Dublin, Institution of Public Administration.
7.
Martin, B. (1998), Các dịch vụ công và việc hiện đại hóa chúng
trong bối cảnh hội nhập ở Châu Âu; Luxembourg; Office for Official
Publications of the European Communities;
8.
White, Leonard (1955), Nhập môn nghiên cứu hành chính
công; New York: Macmillan;
9.
Willoughby, W.F. (1930), Một khảo sát chung về nghiên cứu
hành chính công; American Political Science Review (24), tr.39-51;
10.
Woodrow Wilson (1887), Nghiên cứu về hành chính công,
Berkeley, University of California Press
11.
World Bank (1997), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới
1997: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi (Sách dịch); NXB
Chính trị quốc gia; Hà Nội, 1998;
7
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường và xây dựng NNPQ XHCN đòi hỏi phải có sự nhận
thức mới về DVC, trong đó có DVHCC. Xuất phát từ nhu cầu đó, ở trong
nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về DVHCC dưới nhiều góc độ và
khía cạnh khác nhau, trong thuyết minh này, chúng tôi khảo sát các công
trình nghiên cứu trên cơ sở qui về các nhóm cụ thể sau:
- Chương trình Khoa học - công nghệ cấp nhà nước, đề tài cấp bộ
+ Trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai
đoạn 2001-2010 của Chính phủ. Năm 2004, Bộ Khoa học và Công nghệ đã
giao cho Viện Khoa học Tổ chức và Nhà nước (Bộ Nội vụ) thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước Dịch vụ công và xã hội hoá dịch
vụ công trong công cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước ở Việt Nam,
mang mã số ĐTĐL-2004/13, do TS Chu Văn Thành làm chủ nhiệm.
+ Vào những năm cuối thập niên 1990, nhằm tạo ra sự nhận thức
đúng đắn về DVC, nghiên cứu về kinh nghiệm cung cấp dịch vụ công của
một số nước trên thế giới, Học viện Hành chính Quốc gia - NAPA (Bộ Nội
vụ) đã triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ mang tên Quản lý khu
vực công và vai trò của Nhà nước do TS Vũ Huy Từ làm chủ nhiệm.
+ Năm 2001, với mục tiêu nghiên cứu xã hội hoá cung ứng DVC,
trong đó có DVHCC, Học viện Hành chính quốc gia đã triển khai nghiên
cứu đề tài cấp bộ mang tên Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài
Nhà nước - Vấn đề và giải pháp do TS Lê Chi Mai làm chủ nhiệm.
+ Năm 2008, để nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong cung ứng
DVC, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã triển khai nghiên cứu đề
tài cấp bộ Nhà nước dịch vụ công- Cở sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (do
8
Viện Kinh điển Mác-Lênin chủ trì; PGS, TS Trần Ngọc Linh chủ nhiệm).
+ Năm 2009, để nghiên cứu vai trò của khu vực tư nhân trong cung
ứng HH, DVCC, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã
triển khai nghiên cứu đề tài cấp bộ Chính sách khuyến khích tư nhân cung
ứng hàng hóa, dịch vụ công công ở Việt Nam hiện nay, (do Viện Triết học
chủ trì; PGS, TS. Trần Ngọc Linh chủ nhiệm).
- Về các dự án, hội thảo khoa học
+ Vào những năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp
quốc) đã tài trợ cho Học viện Hành chính quốc gia thực hiện dự án
VIE/92/002, trong đó có hội thảo khoa học với chủ đề Hành chính công:
Khái niệm và kinh nghiệm, và Toạ đàm quốc tế về cải cách nền hành chính
Nhà nước năm 1996. Trong hội thảo này các tham luận cũng đã đề cập đến
những vấn đề lý luận về DVHCC và giải pháp đổi mới cung ứng DVHCC
trong bối cảnh cải cách nền hành chính quốc gia ở Việt Nam.
+ Năm 1999, trong khuôn khổ Dự án ADB 3023- VIE, Ban Tổ chức
cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã kết hợp với Công ty tư vấn ARA
(Canada) tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề Chính sách về quản lý sự
thay đổi và cung cấp dịch vụ công.
+ Năm 2001, Viện Nghiên cứu Hành chính (thuộc Học viện Hành
chính quốc gia) tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề Dịch vụ công - Nhận
thức và thực tiễn. Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã tranh luận với nhau
nhiều vấn đề như: DVC, DVHCC, dịch vụ sự nghiệp công, vai trò của Nhà
nước trong cung ứng DVC.
- Năm 2002, hội thảo khoa học với chủ đề Vai trò của Nhà nước
trong cung ứng dịch vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp do Học
viện Hành chính quốc gia gia tổ chức. Các bài tham luận trình bày tại hội
9
thảo này đã đề cập đến nhiều vấn đề như quan niệm DVHCC, tổng kết các
mô hình cung ứng DVHCC, giải pháp cải cách cung ứng DVHCC...
- Về các công trình nghiên cứu chuyên khảo
Trong những năm vừa qua đã có không ít công trình chuyên khảo
nhiên cứu về vấn đề cung ứng DVHCC, những công trình nghiên cứu này
thường được thể hiện dưới dạng các sách chuyên khảo, các bài nghiên cứu
đăng tải ở các tạp chí, các tham luận trình bày trong các hội thảo khoa học…
Liên quan đến vấn đề này, có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu của
các tác giả sau đây:
1.
Nguyễn Ngọc Hiến (2002): Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch
vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia.
2.
Lê Chi Mai (2002), Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài
Nhà nước - Vấn đề và giải pháp (sách tham khảo).
3.
Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, (sách tham
khảo), Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.
4.
Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia.
5.
Lê Chi Mai (2006), Dịch vụ hành chính công (sách tham khảo), Nxb.
Lý luận Chính trị.
6.
Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (2006), Đổi mới cung ứng dịch vụ công
ở Việt Nam (sách tham khảo), Nxb. Thống kê.
7.
Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức
cung ứng ở Việt Nam hiện nay , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8.
Học viện Hành chính quốc gia (1990), Hành chính công: Khái niệm
và kinh nghiệm, kỷ yếu hội thảo dự án VIE/92/002.
10
9.
Lê Chi Mai (2004), Cải cách dịch vụ hành chính công ở nước ta qua
các mô hình thí điểm, tạp chí Quản lý Nhà nước, số 7/2004, tr.13-17.
10. Đinh Văn Mậu (2002) Bàn luận về thẩm quyền hành chính và dịch vụ
công, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Diệp Văn Sơn (2002), Cần hiểu đúng và tổ chức tốt dịch vụ công,
dịch vụ hành chính công, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
12. Võ Kim Sơn (2002), Dịch vụ công và một vài cách tiếp cận, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Thâm (2002), Cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tuy nhiên, cũng qua khảo sát các công trình nghiên cứu trên, chúng ta
thấy rằng vẫn còn rất nhiều lãnh địa bị bỏ ngỏ hoặc còn ngập ngừng trong
trong tư duy lý luận; vẫn còn nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn chưa có câu
trả lời. Vì vậy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về DVHCC ở nước ta
hiện nay còn không ít khía cạnh cần phải tiếp tục trao đổi và giải quyết.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận về DVHCC; trên cơ sở đó đánh giá thực
trạng hoạt động cung ứng DVHCC ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những ưu
điểm, nhược điểm và nguyên nhân của chúng; và đưa ra những đề xuất, giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng DVHCC ở Việt Nam trong những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về DVHCC trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước làm cơ sở lý
11
luận và phương pháp luận nghiên cứu chủ đạo.
Ngoài ra, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp tổng hợp; phương pháp khảo
cứu tài liệu; phương pháp thống kê để nghiên cứu vấn đề.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Trên cơ sở hệ thống hoá những cách tiếp cận khác nhau đề tài làm rõ
khái niệm “dịch vụ công”, “dịch vụ hành chính công"; chỉ ra chủ thể, phạm
vi, nội dung, hình thức DVHCC phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam
hiện nay; làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung, xu hướng, quan điểm về DVHCC.
- Đề tài chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân và vấn đề
đang đặt ra đối với hoạt động cung ứng DVHCC; cung cấp cơ sở thực tiễn
cho Đảng, Nhà nước để nâng cao chất lượng DVHCC trong thời gian tới;
- Đề tài đề xuất phương hướng, nội dung và những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao chất lượng DVHCC trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước; các tổ chức cung ứng DVHCC.
6. Kết cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết,
với những nội dung sau đây:
12
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG
1.1.1. Quan niệm về dịch vụ hành chính công
Để tìm hiểu quan niệm về DVHCC chúng ta phải bắt đầu tiếp cận từ
DVC, đây là một khái niệm có liên quan trực tiếp đến DVHCC.
DVC trong tiếng Anh có nghĩa là “public service”, đây là khái niệm
có xuất xứ từ kinh tế học công cộng, nó được sử dụng tương đối phổ biến ở
châu Âu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Theo quan niệm của nhiều
nước, DVC luôn gắn với vai trò của Nhà nước trong việc cung ứng.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về DVC, Từ điển Petit
Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã định nghĩa: "dịch vụ công là hoạt
động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm"1.
Theo Từ điển Oxford thì "Dịch vụ công: 1. Các dịch vụ như giao
thông hoặc chăm sóc sức khỏe do nhà nước hoặc tổ chức chính thức cung
cấp cho nhân dân nói chung, đặc biệt là xã hội; 2. Việc làm gì đó được thực
hiện nhằm giúp đỡ mọi người hơn là kiếm lợi nhuận; 3. Chính phủ và cơ
quan chính phủ"2.
Còn cuốn Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ cho rằng dịch
vụ công được hiểu theo các nghĩa: "1. Sự tham gia vào đời sống xã hội;
hành động tự nguyện vì cộng đồng của một người nào đó; 2. Việc làm cho
chính phủ, toàn bộ người làm của một cơ quan quyền lực, toàn bộ công nhân
1
2
Xem: Từ điển Petit Larousse, Librairie Larousse, 1995, tr. 934.
Xem: Từ điển Oxford (2000), tr. 1024.
13
viên chức trong khu vực công cộng của quốc gia; 3. Việc mà chính quyền làm
cho cộng đồng của mình; sự bảo vệ của cảnh sát, thu dọn rác....; 4. Một cơ sở
công ích của địa phương; 5. Nghĩa vụ của một người đối với nhà nước"1.
Từ quan niệm và cách tiếp cận của nước ngoài chúng ta thấy DVC có
các đặc trưng cơ bản như: (1). Là những hoạt động gắn với chính phủ, hoặc
là những hoạt động của tư nhân nhưng được chính phủ ủy quyền, quản lý;
(2). Các hoạt đồng này hướng tới lợi ích của cộng đồng; (3). Là các hoạt
động không lấy lợi nhuận làm mục tiêu chủ yếu (hoặc phi lợi nhuận), mang
tính tự nguyện, có tính chất hỗ trợ.
Ở trong nước, hiện nay có nhiều quan niệm không giống nhau về
DVC, tùy theo cách tiếp cận, hiện nay có một số quan điểm tiêu biểu sau:
- Tiếp cận dưới góc độ chức năng, vai trò của Nhà nước.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, Nhà nước có hai chức năng cơ bản:
quản lý (cai trị) và phục vụ xã hội. Chức năng cai trị được thực hiện thông
qua các hoạt động như ban hành pháp luật, qui hoạch, kế hoạch, kiểm tra,
giám sát, cưỡng chế... Để thực hiện chức năng xã hội, Nhà nước sẽ cung ứng
DVC cho xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh dân chủ hóa mọi mặt đời sống
xã hội, Nhà nước đã có những thay đổi cơ bản về chức năng, Nhà nước
không chỉ thuần túy cai trị mà còn có trách nhiệm phục vụ nhân dân thông
qua các hoạt động cung ứng DVC.
Theo đó, Nhà nước sẽ cung cấp hai loại hình DVC cơ bản: (1). Loại
dịch vụ có tính chất công cộng phục vụ nhu cầu chung, tối cần thiết của cả
cộng đồng và mỗi công dân; (2). Các hoạt động đáp ứng các quyền, tự do,
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân liên quan đến chức năng quản
lý hành chính nhà nước.
1
Xem: Jay M. Shafrizt (2002), Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ. 2002. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 772.
14
Ở loại hình dịch vụ thứ nhất. Đây là những dịch vụ tối quan trọng, rất
cần thiết cho cộng đồng nhưng vì không có khả năng, hoặc không đảm bảo
lợi nhuận nên tư nhân không cung ứng mà Nhà nước phải đảm nhận, ví dụ
như: tiêm chủng; phòng cháy, chữa cháy... Hoặc có những dịch vụ mà tư
nhân có thể cung ứng được nhưng lại tạo ra các ngoại ứng như gây bất bình
đẳng, độc quyền... làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, Nhà
nước vẫn phải có trách nhiệm đứng ra cung ứng, nhằm bảo đảm sự điều tiết,
kiểm soát; và đáp ứng các nhu cầu về DVC của xã hội và công dân.
Ở loại hình dịch vụ thứ hai. Trong quá trình thực hiện chức năng
QLNN, sẽ xuất hiện các quan hệ mang tính chất hành chính giữa công dân,
tổ chức với Nhà nước. Đây là những DVC mà cơ QLNN có trách nhiệm
phải cung ứng cho công dân. Theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực công
thông qua các hoạt động như: cấp phép, chứng thực, hộ tịch,... theo yêu cầu
của người dân, và các hoạt động này được xem như một dịch vụ mà Nhà
nước cung ứng cho công dân. Đây là hoạt động mang tính chất đặc thù, nó
gắn với quyền lực nhà nước, với chức năng, thẩm quyền quản lý hành chính
của nhà nước, nó thường được gọi là DVHCC.
- Tiếp cận dưới góc độ QLNN
Từ giác độ QLNN, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng DVC là
những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý
hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu
cầu chung, thiết yếu của xã hội (như cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục, điện, nước,
giao thông công cộng...). Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của
nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng (người ta
thường gắn DVC, thậm chí đồng nhất với công việc của chính phủ).
- Tiếp cận dưới góc độ đối tượng thụ hưởng
15
Có quan điểm cho rằng đây là loại hình dịch vụ đặc biệt cung ứng cho
một loại "khách hàng đặc biệt". Cách tiếp cận này xuất phát từ đối tượng
được hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của DVC là
hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến
hành hoạt động ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm. Xã hội có
nhiều nhu cầu, theo lý thuyết tiêu dùng có thể chia ra làm các nhóm: nhu cầu
xã hội, nhu cầu tập thể, nhu cầu cá nhân.
- Tiếp cận dưới góc độ chủ thể cung ứng
Tiếp cận dưới góc độ này, các nhà nghiên cứu cho rằng có ba nhóm
dịch vụ được phân chia nhằm làm rõ vai trò của Nhà nước, cũng như việc sử
dụng các nguồn lực của nhà nước, cụ thể:
+ Nhóm 1: Nhóm các dịch vụ quan trọng, cốt lõi, phục vụ chung cho
xã hội và thiếu nó, mọi hoạt động của xã hội sẽ bị ảnh hưởng. Đây là những
dịch vụ do Nhà nước đảm nhận từ việc tổ chức cung cấp và chi trả. Chi phí
cung cấp các dịch vụ này được trả qua thuế.
+ Nhóm 2: Nhóm dịch vụ do nhà nước, thị trường và tư nhân cùng
đảm nhận. Những dịch vụ này về cơ bản Nhà nước vẫn phải đảm bảo việc
cung cấp cho xã hội, song Nhà nước cũng có thể ủy quyền cho các thành
phần ngoài nhà nước cung ứng dưới nhiều hình thức. Trong nhóm này có sự
đan xen giữa công và tư; chi phí cho việc cung cấp này được trả theo nhiều
cách (một phần hoặc toàn phần), trong đó có cả việc chi trả theo các nguyên
tắc của cơ chế thị trường.
+ Nhóm 3: Những dịch vụ mang tính chất cá nhân, cho một nhóm
người hoặc từng thành viên riêng lẻ trong xã hội. Dịch vụ này do thị trường
cung cấp, giá cả các được qui định theo qui luật cung - cầu
Từ cách phân chia trên, các tác giả đi đến định nghĩa: "Dịch vụ công
16
là hoạt động cung cấp những loại hàng hóa, dịch vụ cơ bản cho công chúng,
bao gồm cả những loại dịch vụ phục vụ hoạt động QLNN, trong đó Nhà
nước đóng vai trò không chỉ là nhà quản lý mà còn là một trong những nhà
cung cấp bên cạnh nhiều nhà cung cấp khác"1.
- Tiếp cận từ lý luận về "hàng hóa công cộng và lựa chọn công cộng".
DVC được xác định dựa trên những phân tích về:
+ Hàng hóa công cộng2. Xuất phát từ những tính chất đặc thù của
hàng hóa công cộng như: tính phi lợi nhuận, không thể chia cắt, nên thị
trường không thể cung cấp, hoặc cung cấp không đủ; do đó, buộc chính phủ
phải đứng ra thực hiện vai trò là người cung ứng hàng hóa này.
+ Xuất phát từ tính vị kỷ của con người. Những hoạt động, quyết định
của con người đều dựa trên sự tính toán có lợi cho riêng mình. Do đó, các
vấn đề liên quan đến lợi ích chung, lợi ích gián tiếp đối với cá nhân sẽ ít
được quan tâm, chia sẻ với tư cách cá nhân riêng lẻ.
+ Xuất phát từ sự "thất bại của thị trường". Là một thuật ngữ kinh tế
học miêu tả tình trạng thị trường không phân bổ thật hiệu quả các nguồn lực.
Các nhà kinh tế chính thức sử dụng thuật ngữ này từ năm 1958.
Những "thất bại của thị trường" thường thấy là việc người ta tập trung
vào cung ứng những hàng hóa có lợi cho bản thân, mang lại lợi nhuận cao;
còn những hàng hóa khác thì không, thị trường không thể tự điều tiết được.
Nguyên nhân của "thất bại thị trường" là: độc quyền, ảnh hưởng ngoại lai,
tài nguyên thuộc sở hữu chung, thông tin phi đối xứng, chi phí giao dịch...
1
Xem: Võ Kim Sơn (2002), Dịch vụ công - một vài cách tiếp cận, trong Nguyễn Ngọc Hiến
(2002), Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công- Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội, tr. 51-53.
2
Hàng hóa công cộng là những hàng hóa, sản phẩm có đặc tính không loại trừ và không cạnh
tranh trong tiêu dùng (non- excludable, non rival).
- Xem thêm -