ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ
PHƯƠNG PHÁP DÃY SỐ THỜI GIAN ĐỂ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
NGUỒN LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TẠI ĐỊA PHƯƠNG.
Họ tên: Nguyễn Đỗ Quyên
Mã SV: DTE1253101010382
Môn: Thống kê kinh tế
Lớp: 01
LỜI MỞ ĐẦU
Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua
dân số - đặc biệt là số người bước vào độ tuổi lao động của các nước đang phát
triển tăng nhanh, trong đó có Việt Nam. Mà số người ra khỏi độ tuổi lao động
không nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Cùng
với đó, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ vào tháng 12 năm 2007 đã lan
rộng ra toàn thế giới khiến cho nền kinh tế càng thêm bất ổn, số người thất
nghiệp ngày càng cao.
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết nền kinh tế thế giới phải đối
mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong vài thập kỷ: tính đến tháng 2 năm 2009
tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã tăng lên đến 8,1% - mức cao nhất kể từ 25 năm trở lại
đây; tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam là 6,53%.
Trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay việc chủ động trong xây dựng và
thực hiện kế hoạch, đi trước đón đầu những vấn đề xã hội phát sinh, giải quyết
có hiệu quả các chính sách và công tác xã hội là rất cần thiết. Thực hiện tốt các
chính sách và công tác xã hội, góp phần giữ vững ổn định an ninh quốc phòng xã hội là nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế.
Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị Quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI về phát triển kinh tế xã hội tỉnh
đến năm 2015, phấn đấu đưa Thái Nguyên thoát khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao một bước rõ rệt về đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề
cơ bản để Thái Nguyên trở thành tỉnh Công nghiệp trước năm 2020. Trong điều
kiện kinh tế hiện nay của toàn tỉnh, việc giữ vững kế hoạch đề ra, thay đổi các
biện pháp thực hiện cho phù hợp với xu thế kinh tế mà tỉnh cùng cả nước đang
đối mặt là việc làm cấp thiết.
I. PHÂN TÍCH THỐNG KÊ MÔ TẢ
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ
liệu thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức khác nhau.
Thống kê mô tả và thống kê suy luận cùng cung cấp những tóm tắt đơn giản
về mẫu và các thước đo. Cùng với phân tích đồ họa đơn giản, chúng tạo ra nền
tảng của mọi phân tích định lượng về số liệu. Để hiểu được các hiện tượng và ra
quyết định đúng đắn, cần nắm được các phương pháp cơ bản của mô tả dữ
liệu. Có rất nhiều kỹ thuật hay được sử dụng. Có thể phân loại các kỹ thuật này
như sau:
- Biểu diễn dữ liệu bằng đồ họa trong đó các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc giúp
so sánh dữ liệu.
- Biểu diễn dữ liệu thành các bảng số liệu tóm tắt về dữ liệu.
- Thống kê tóm tắt (dưới dạng các giá trị thống kê đơn nhất) mô tả dữ liệu.
Khi tạo các trị thống kê mô tả, người ta có thể nhằm 2 mục tiêu:
- Chọn một trị thống kê để chỉ ra những đơn vị có vẻ giống nhau thực ra có
thể khác nhau thế nào. Các giáo trình thống kê gọi một giải pháp đáp ứng mục
tiêu này là thước đo khuynh hướng trung tâm.
- Chọn một trị thống kê khác cho thấy các đơn vị khác nhau thế nào. Loại
trị thống kê này thường được gọi là một thước đo phân tán thống kê.
Khi tóm tắt một lượng như độ dài, cân nặng hay tuổi tác, người ta hay dùng
các trị thống kê như số trung bình cộng, trung vị, mốt. Đôi khi, người ta chọn
lựa những giá trị đặc thù từ hàm phân bố tích lũy gọi là các tứ phân vị.
Các thước đo chung nhất về mức độ phân tán của dữ liệu lượng là phương
sai, tức là độ lệch chuẩn; khoảng; khoảng cách giữa các tứ phân vị; và độ lệch
bình quân tuyệt đối.
Khi thực hiện một trình diễn đồ họa để tóm tắt một bộ dữ liệu, cũng có thể
áp dụng cả 2 mục tiêu nói trên.
II. PHÂN TÍCH DÃY SỐ THỜI GIAN
Các hiện tượng kinh tế - xã hội luôn luôn biến động qua thời gian. Ðể
nghiên cứu sự biến động này người ta dùng phương pháp dãy số thời gian. Dãy
số thời gian là dãy các trị số của một chỉ tiêu nào đó được sắp xếp theo thứ tự
thời gian.
Căn cứ vào đặc điểm về mặt thời gian, người ta thường chia dãy số thời gian
thành hai loại :
- Dãy số thời kỳ: là dãy số biểu hiện sự thay đổi của hiện tượng qua từng
thời kỳ nhất định.
- Dãy số thời điểm: là dãy số biểu hiện mặt lượng của hiện tượng vào một
thời điểm nhất định. Dãy số thời điểm còn có thể được chia thành dãy số thời
điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau và dãy số thời điểm có khoảng cách
thời gian không bằng nhau.
Phương pháp phân tích một dãy số thời gian dựa trên một giả định căn bản
là: sự biến động trong tương lai của hiện tượng nói chung sẽ giống với sự biến
động của hiện tượng trong quá khứ và hiện tại, xét về mặt đặc điểm và cường độ
biến động. Nói một cách khác, các yếu tố đã ảnh hưởng đến biến động của hiện
tượng trong quá khứ và hiện tại được giả định trong tương lai sẽ tiếp tục tác
động đến hiện tượng theo xu hướng và cường độ giống hoặc gần giống như
trước.
Do vậy, mục tiêu chính của phân tích dãy số thời gian là chỉ ra và tách biệt
các yếu tố đã ảnh hưởng đến dãy số. Ðiều đó có ý nghĩa trong việc dự đoán cũng
như nghiên cứu quy luật biến động của hiện tượng. Phương pháp phân tích dãy
số thời gian cung cấp những thông tin hữu ích cho các nhà kinh doanh trong việc
dự đoán cũng như xem xét chu kỳ biến động của hiện tượng. Nếu biết kết hợp
các phương pháp phân tích thống kê khác cộng với bản lĩnh, kinh nghiệm và sự
nhạy bén trong kinh doanh, phương pháp dãy số thời gian sẽ là một công cụ đắc
lực cho các nhà quản lý trong việc ra quyết định.
III. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG DÂN SỐ VÀ NGUỒN LAO ĐỘNG
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
1. Số lượng nguồn lao động
Quy mô dân số của tỉnh trong thời gian qua không có biến động nhiều: năm
2005 là 1.105.830 người, năm 2010 là 1.156.500 người. Tốc độ tăng dân số giai
đoạn 2005 – 2010 thấp; bình quân là 0,96%/năm và có xu hướng ổn định.
Quy mô dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh chiếm khoảng 65% tổng dân
số: năm 2005 dân số trong độ tuổi lao động là 724.176 người, năm 2010 là
809.220 người. Tốc độ tăng bình quân hàng năm là 2,37%.
Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên của tỉnh cũng tăng từ 617.598 người
năm 2005 lên 723.439 người, tương ứng bình quân hàng năm tăng thêm khoảng
10.465 người.
Bảng 1: Lực lượng lao động của tỉnh qua các năm (Đơn vị: Người)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
D/s từ 15 tuổi trở lên
853.673
875.692
885.148
910.588
927.659
D/s trong tuổi lao động 724.176
741.190
758.200
775.200
792.210
638.960
651.600
663.420
674.021
D/s hoạt động kinh tế
617.598
.
Bảng 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số (Đơn vị: %)
Chỉ tiêu
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân
số từ 15 tuổi trở lên
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân
số trong độ tuổi lao động
2005
2006
2007
2008
2009
72,35
77,17
77,20
77,40
83,07
82,75
86,20
85,94
85,58
85,08
Qua bảng số liệu thấy rằng phần lớn dân số hoạt động kinh tế của tỉnh Thái
Nguyên nằm trong độ tuổi lao động (97,03%). Tỷ lệ người trong độ tuổi lao
động tham gia lực lượng lao động giai đoạn 2006 – 2009 dao động trong khoảng
từ 82,75% - 85,07% và có xu hướng tăng lên trong các năm tiếp theo. Tốc độ
tăng bình quân hàng năm là 1,91% - chứng tỏ số người có việc làm ngày một
tăng lên nhưng vẫn còn chậm.
Dân số từ 15 tuổi trở lên của tỉnh năm 2005 là 853.673 người và tăng dần
lên 927.659 người năm 2009; với kết cấu dân số trẻ, số lượng người từ 15 tuổi
tăng lên làm dân số trong tuổi lao động cũng tăng lên, năm 2005 là 724.176
người đến năm 2009 là 792.210 người, bình quân cả giai đoạn 2005 - 2009 lực
lượng lao động của tỉnh tăng 68.034 người.
Dân số hoạt động kinh tế có số lượng thấp nhất trong ba chỉ tiêu: năm 2005
dân số trong độ tuổi lao động là 724.176 người, dân số tham gia hoạt động kinh
tế là 617.598 người. Điều này cho thấy có những người không hoạt động kinh tế
nhưng nằm trong độ tuổi lao động, đó là người thất nghiệp, người không có nhu
cầu lao động, hoặc không muốn tham gia lao động vì nhiều lý do khác nhau. Số
liệu về dân số hoạt động kinh tế của tỉnh Thái Nguyên: năm 2005 có 617.598
người đến năm 2009 là 674.021 người, bình quân cả giai đoạn lượng người hoạt
động kinh tế tăng lên 56.423 người. Những con số này thể hiện xu hướng diễn ra
trên cả nước nói chung và trong tỉnh nói riêng đó là con người tham gia vào hoạt
động kinh tế ngày một nhiều hơn hay nói cách khác, nhu cầu việc làm ngày càng
tăng lên.
Nếu tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 82,75% năm 2005 thì đến năm 2009 là 85,08%. Sự tăng lên này là do sự
thay đổi của người lao động trước làm nội trợ hoặc trước không muốn lao động.
Xã hội ngày càng phát triển, con người muốn thích ứng với cuộc sống và nâng
cao vị thế của mình thì cần phải làm việc. Với tư duy thay đổi, phụ nữ nói chung
và phụ nữ của tỉnh nói riêng đã tham gia vào lực lượng lao động nhiều hơn. Vì
vậy, số người cần việc làm trong giai đoạn này tăng lên và đồng thời kinh tế của
tỉnh tăng trưởng cũng tạo ra nhiều việc làm hơn so với thời kỳ trước.
Bảng 3: Quy mô và tốc độ tăng bình quân hàng năm của dân số trong độ
tuổi lao động ở tỉnh Thái Nguyên (Đơn vị: Nghìn người)
Giai đoạn
Tổng số người tăng Mức tăng bình quân/
Tốc độ tăng bình
thêm (nghìn người)
năm (nghìn người)
quân hàng năm (%)
2006 – 2010
68,03
17,00
2,29
2010 – 2015
23,82
4,76
0,59
2016 – 2020
21,77
4,35
0,52
Theo mức dự báo của Sở kế hoạch đầu tư Thái Nguyên đưa ra trong giai
đoạn 2010 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020 thì tổng số người tăng thêm trong
tỉnh lần lượt là 23,82 nghìn người và 21,77 nghìn người; thấp hơn nhiều so với
thực trạng 2006 – 2010 là 68,03 nghìn người. Tốc độ tăng bình quân hàng năm
trong giai đoạn sau cũng thấp hơn rất nhiều so với giai đoạn này. Dân số trong
độ tuổi lao động của tỉnh sẽ giảm dần, nguồn lao động cũng giảm dần. Tuy nhu
cầu về việc làm không ít đi theo tốc độ tăng dân số, nhưng cũng giảm bớt được
tốc độ tăng của nhu cầu để cung việc làm kịp cân bằng với cầu việc làm, giảm
bớt thất nghiệp trong tỉnh.
2. Chất lượng nguồn lao động
a. Trình độ văn hóa
Là trung tâm của vùng Đông Bắc, Thái Nguyên là một tỉnh đi đầu về giáo
dục đào tạo, với nhiều trường học, trường đại học, dạy nghề. Vì thế, trình độ văn
hóa của lực lượng lao động Thái Nguyên cao hơn so với mức chung của các tỉnh
thuộc vùng Đông Bắc (năm 2008 có 30,18% LLLĐ của tỉnh Thái Nguyên có
trình độ văn hóa PTTH so với 23,18% của vùng Đông Bắc). Với hệ thống giáo
dục đào tạo nghề phong phú về số lượng và trình độ. Trong giai đoạn 2005 2009 hệ thống đào tạo nghề đã đào tạo bình quân hàng năm khoảng trên 23 vạn
lao động có trình độ với rất nhiều ngành nghề.
Lao động có trình độ tiểu học trở xuống đang giảm dần: từ 4,41% năm 2005
giảm xuống còn 1,83% năm 2009, và tỷ lệ lao động có trình độ phổ thông tăng
lên từ 46,67% lên 47,32% năm 2009. Tuy vậy, trong lực lượng lao động tỷ lệ lao
động nữ có trình độ phổ thông luôn thấp hơn và tỷ lệ nữ thuộc loại chưa tốt
nghiệp tiểu học lại luôn cao hơn so với mức chung của lực lượng lao động. Xét
về tổng thể, với hơn 70% lực lượng lao động có trình độ văn hóa dưới cấp
THPT là một thách thức lớn đối với tỉnh trong việc phát triển nguồn nhân lực để
đáp ứng thời kỳ mới.
Bảng 4: Trình độ văn hóa của lực lượng lao động tỉnh Thái Nguyên (Đơn
vị: %)
Cấp trình độ
2005
2006
2007
2008
2009
4,41
5,17
3,44
3,36
1,83
Tốt nghiệp tiểu học
25,23
30,51
24,63
21,19
22,08
Tốt nghiệp THCS
46,67
48,05
45,56
47,29
47,32
Tốt nghiệp THPT
23,69
27,56
26,37
26,27
26,88
Không biết chữ và chưa
tốt nghiệp tiểu học
b. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Bảng 5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Thái Nguyên
(Đơn vị: %)
Cấp trình độ
2005
2006
2007
Chưa qua đào tạo
75,84
73,98
71,43 70,52 69,58
Đã qua đào tạo nghề và tương đương
11,31
12,41
13,47 13,80 13,98
Trung học chuyên nghiệp trở lên
12,84
13,60
15,09 15,67 15,87
2008 2009
Qua các năm, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động đang có
những thay đổi tích cực, tuy nhiên vẫn có những khác biệt giữa nam và nữ trong
tổng lực lượng lao động. Chung toàn tỉnh thì tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo đã
giảm từ 75,84% xuống còn 69,58% năm 2009; thấp hơn mức chung của cả nước
là 77,48%.
Cơ cấu lao động đã qua đào tạo năm 2005 đạt là 11,31% và tăng lên
13,98%; luôn thấp hơn tỷ trọng lao động đào tạo trung học chuyên nghiệp trở
lên năm 2005 là 12,8% và năm 2009 là 15,87%. Cơ cấu lao động theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật cho thấy một điển hình là lao động trình độ công nhân kỹ
thuật có bằng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và hàng năm tăng rất chậm.
Năm 2005 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp trở lên và lao động
có trình độ công nhân kỹ thuật có tỷ lệ là 1 : 0,88; đến năm 2009 tỷ lệ này là 1:
0,88. Tỷ lệ này có nghĩa cứ 1 cử nhân thì có 0,88 lao động có trình độ công nhân
kỹ thuật và không biến động nhiều sau bốn năm, cho thấy tỉnh vẫn đào tạo lao
động cử nhân cao hơn so với công nhân kỹ thuật và không thấy dấu hiệu của sự
cân bằng giữa hai tỷ lệ này. Đây là một khó khăn cho tỉnh trong thời gian tới.
3. Thực trạng việc làm của tỉnh
a. Số người lao động làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế
Bảng 6: Số liệu về số người lao động làm việc phân theo nhóm ngành kinh
tế giai đoạn 2005 – 2010 (Đơn vị: Người)
Năm
Tổng số
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
2005
608547
411305
82405
114837
2006
617614
406291
90320
121003
2007
626817
401025
98460
127332
2008
636156
395511
106823
133822
2009
645635
389744
115414
140477
Qua biểu đồ ta thấy: Cơ cấu lao động của tỉnh Thái Nguyên trong các năm
vừa qua vẫn nằm trong xu thế cơ cấu lao động của cả nước. Đó là lao động trong
nhóm ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất trong ba ngành của nền kinh tế:
năm 2005 chiếm 67,59%; năm 2009 chiếm 60,37%. Sau đó là ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng thứ hai trong tỉnh: năm 2005 chiếm 18,87% đến năm 2009 chiếm
21,75%. Và cuối cùng là ngành công nghiệp, lao động trong ngành chiếm tỷ
trọng thấp nhất trong nền kinh tế: năm 2005 chiếm là 13,54% và năm 2009
chiếm 17,88%.
Biểu đồ: Cơ cấu lao động làm việc phân theo ngành kinh tế của tỉnh Thái
Nguyên
100%
90%
18,87
19,6
20,31
21,04
21,75
13,54
14,62
15,71
16,79
17,88
67,59
65,78
63,98
62,17
60,37
2005
2006
2007
2008
2009
80%
70%
%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Bảng 7: Năng suất lao động tính theo giá so sánh theo nhóm ngành kinh tế
giai đoạn 2005 – 2009 (Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Nông nghiệp
2,2
2,5
2,5
2,6
2,7
Công nghiệp
15,7
14,3
15,3
16,0
16,1
Dịch vụ
9,9
8,8
9,1
9,9
9,9
Cả nền kinh tế
4,8
5,2
5,4
5,8
6,05
Nhìn vào bảng trên thấy rằng năng suất lao động của tỉnh ở trong ngành
công nghiệp là cao nhất: từ năm 2005 là 15,7 triệu đồng/lao động, đến năm 2009
là 16,1 triệu đồng/lao động. Với số lượng lao động ít nhất nhưng lại đem lại hiệu
quả làm việc cao nhất, vậy lao động trong ngành là lao động có trình độ tay
nghề, làm việc đúng theo nhu cầu và khả năng, phù hợp với yêu cầu thực tế.
Ngành nông nghiệp với số lao động rất cao chiếm đến hơn 60% lao động
toàn tỉnh nhưng lại có năng suất lao động thấp nhất: năm 2005 là 2,2 triệu
đồng/lao động; năm 2009 là 2,7 triệu đồng/lao động, thấp hơn so với lao động
trong ngành kinh tế cả nước là khoảng hơn 4 triệu đồng/lao động. Năng suất
thấp chính là do trình độ của người lao động nông thôn còn thấp so với các
ngành khác, lao động không được qua đào tạo. Nên việc làm trong ngành có thể
nhiều hơn nếu so về số lượng nhưng về sản phẩm tạo ra không có hiệu quả cao,
tỉnh cần có nhiều biện pháp hơn để khắc phục tình trạng làm việc mà không
mang lại hiệu quả kinh tế trong ngành nông nghiệp của tỉnh.
Số lao động và năng suất lao động của ngành dịch vụ là tương xứng nhất
trong ba ngành. Với số lượng và tỷ trọng chiếm trong nền kinh tế tạo ra năng
suất lao động khá tương ứng là 9,9 triệu đồng/lao động năm 2005; biến động dần
qua các năm khá ổn định không có thay đổi nhiều là năm 2009 là khoảng 9,9
triệu/lao động. Có thể nói rằng lao động trong ngành dịch vụ có trình độ cao và
được làm việc đúng với năng lực của người lao động. Năng suất lao động trong
ngành này cao hơn so với lao động cùng ngành của cả nước nên đây là thuận lợi
cho tỉnh để tiếp tục phát triển lực lượng lao động trong ngành dịch vụ.
Trong giai đoạn năm 2005 - 2009, chuyển dịch cơ cấu lao động ở Thái
Nguyên diễn ra theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông
nghiệp liên tục giảm dần qua các năm. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch lao
động trong ngành nông nghiệp còn chậm, bình quân hàng năm số lao động
nông nghiệp chỉ giảm 1991 người (0,47%). Số lao động trong ngành công
nghiệp và dịch vụ sẽ tăng dần qua các năm sau, trong ngành công nghiệp sẽ
tăng nhanh hơn so với ngành dịch vụ.
b. Số người lao động làm việc phân theo loại hình kinh tế
Theo một tiêu chí khác thì việc làm được chia thành các loại việc làm khác
nhau. Với loại hình kinh tế thì chia thành số người lao động làm việc trong khu
vực Nhà nước, khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 8: Số lượng và cơ cấu người lao động làm việc theo loại hình kinh tế
giai đoạn 2005 – 2010 (Đơn vị: Người)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
62.150
62.395
73.731
54.547
62.542
11,27
11,11
12,85
9,97
10,28
488.930
498.376
499.135
491.522
545.324
88,68
88,74
86,99
89,82
89,61
Có vốn đầu tư
273
812
910
1.178
681
nước ngoài
0,05
0,14
0,16
0,22
0,11
Nhà nước
Ngoài Nhà nước
Đại đa số lao động Thái Nguyên vẫn làm việc trong khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước: 88,68% năm 2005 đến năm 2009 tăng lên là 89,61%. Số lao động
không làm việc trong khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
biến động không nhiều. Số lượng lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người có việc làm toàn tỉnh.
Các lao động làm việc trong khu vực Nhà nước luôn có những vị thế và chế
độ hưởng lương rất rõ ràng theo đúng pháp luật của Nhà nước Việt nam. Nhưng
hiện nay khu vực này không thu hút được các lao động vào làm nhiều do mức
làm công ăn lương quá thấp so với các khu vực khác, nên có sự so sánh về chi
phí trả cho người lao động ở khu vực Nhà nước với khu vực ngoài Nhà nước. Tỷ
trọng lao động trong Nhà nước năm 2005 là 11,27%; năm 2006 là 11,11%; năm
2007 là 12,85%; năm 2008 là 9,97%; năm 2009 là 10,28%. Số việc làm trong
khu vực này không có nhiều biến động, các năm hầu như vẫn giữ nguyên, nếu
như có sự chênh nhau thì do người lao động qua tuổi lao động về hưu và thay
vào đó là các thế hệ trẻ vào học việc.
Số việc làm mới hàng năm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, được tạo ra chủ yếu
ở khu vực ngoài Nhà nước. Trong khu vực này, lao động làm việc chủ yếu ở các
doanh nghiệp tư nhân: năm 2005 là 488.930 người (88,68%), năm 2009 là
545.324 người (89,61%). Số lao động cũng như số việc làm trong ngành thường
xuyên biến động, tăng lên theo quy mô nền kinh tế và giảm cũng theo quy mô
nền kinh tế.
Lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thấp
nhất : năm 2005 chiếm 0,05% và năm 2009 chiếm 0,11%; tăng lên không nhiều
vì lao động trong khu vực này trình độ phân công lao động rất rõ ràng. Con số
này của tỉnh Thái Nguyên còn thấp chứng tỏ trình độ tay nghề của lao động,
năng lực làm việc của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà
tuyển dụng nước ngoài đòi hỏi những lao động lành nghề và có trình độ chuyên
môn cao.
Xu thế là các lao động trong khu vực Nhà nước vẫn giữ nguyên ít biến đổi,
nhưng ngược lại với khu vực Nhà nước, lao động ngày càng có xu hướng vào khu
vực ngoài Nhà nước làm việc, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thu
hút được nhiều lao động của tỉnh hơn. Lao động trong tỉnh sẽ tự nâng cao trình độ
tay nghề của mình để đáp ứng được các yêu cầu của nhà tuyển dụng.
c. Số người lao động làm việc phân theo vị thế công việc
Bảng 9: Số lượng và cơ cấu người lao động theo vị thế công việc tỉnh giai
đoạn 2005 - 2010 (Đơn vị: Người, %)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
79.921
88.327 108.040 95.532 102.416
14,49
15,73
Làm công ăn lương
18,83
16,56
16,83
471.545 473.287 465.744 481.486 506.131
Làm công không ăn lương
85,51
84,27
81,17
83,44
83,17
Phần lớn lực lượng lao động Thái Nguyên làm việc trong khu vực làm công
không ăn lương (tự lao động, lao động gia đình ... ). Lực lượng lao động làm
việc trong khu vực làm công ăn lương chiếm tỷ lệ thấp hơn rất nhiều so với khu
vực kia. Tuy tỷ trọng của khu vực làm công không ăn lương giảm dần qua các
năm nhưng lại tăng lên về số lượng tuyệt đối: năm 2005 là 471.545 người lao
động và tăng lên 506.131 năm 2009.
Thực trạng việc làm của lao động đang có những thay đổi tích cực, đang đi
theo đúng xu hướng chung của cả nước: lao động trong khu vực nông nghiệp
giảm dần và chuyển dần sang khu vực công nghiệp. Cả về số lượng và chất
lượng của lao động cũng tăng lên theo hướng trình độ tay nghề được nâng cao,
số lao động qua đào tạo tăng lên, đem lại kết quả là tỷ lệ thất nghiệp thành thị có
xu hướng giảm liên tục và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn tăng lên.
Tuy nhiên một trong những vấn đề đặt ra cho tỉnh trong thời gian tới là hiệu quả
việc làm chưa được cải thiện nhiều, số việc làm mới hàng năm được tạo ra trong
khu vực phi nông nghiệp chưa tương xứng với số người hàng năm bước vào tuổi
lao động nên dẫn đến tới việc lao động vẫn tiếp tục bị dồn nén trong khu vực
nông nghiệp. Thị trường lao động chưa phát triển, tỷ trong lao động làm công ăn
lương thay đổi chậm, tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung
cấp trở lên trong tổng số người thất nghiệp đang có xu hướng gia tăng.
4. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm
Bảng 10: Một số chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp của Thái Nguyên giai đoạn
2005 - 2009 (Đơn vị: %)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Tỷ lệ thất nghiệp đô thị (%)
5,57
5,10
4,32
4,02
3,62
7.190
6.903
6.152
6.031
5.537
Tổng số người thất nghiệp
(người)
Tỷ trọng thất nghiệp theo trình độ CMKT (%)
Chưa qua đào tạo
Đã qua đào tạo nghề và
tương đương
Trung học chuyên nghiệp
trở lên
Tỷ lệ thời gian lao động sử
dụng ở nông thôn.
25,67
25,32
21,24
18,02
17,36
25,65
18,26
13,98
21,63
20,23
48,68
30,09
24,85
23,43
32,18
79,81
79,88
80,53
80,67
82,07
Tỷ lệ thất nghiệp đô thị và tỷ lệ sử dụng lao động nông thôn đang dần được
cải thiện. Trong suốt giai đoạn 2005 – 2009, tỷ lệ thất nghiệp thành thị luôn giữ
dưới mức 6% và đang có xu hướng giảm dần. Năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp thành
thị là 5,57% đến năm 2009 giảm xuống chỉ còn là 3,62% (thấp hơn so với vùng
Đông Bắc là 6,5%). Trong vùng Đông Bắc thì tỉnh Thái Nguyên là tỉnh có tốc
độ phát triển kinh tế khá cao, ổn định, môi trường và cuộc sống của người dân
của tỉnh cũng được cải thiện hơn so với các tỉnh khác trong vùng nên tỷ lệ thất
nghiệp của tỉnh ở mức thấp. Đồng thời tỷ lệ sử dụng lao động nông thôn tăng lên
liên tục từ 79,81% năm 2005 lên 82,07% năm 2009. Mức thời gian ở nông thôn
tăng lên rất rõ ràng, lao động ở khu vực này đã tạo được nhiều việc làm hơn,
người dân tự tạo công ăn việc làm cho chính mình và những lao động khác.
Nhưng nếu so tỷ lệ thời gian lao động sử dụng ở nông thôn tăng lên với tỷ lệ
sinh hay tỷ lệ số người dân bước vào tuổi lao động ở khu vực này thì giải quyết
việc làm vẫn là vấn đề cần quan tâm.
Chất lượng của đội ngũ lao động thất nghiệp cũng thay đổi khác so với các
thời kỳ trước. Giống thời kỳ trước, những người thất nghiệp tập trung vào nhóm
lao động trẻ có độ tuổi từ 15 – 24 tuổi. Theo số liệu điều tra “Lao động – Việc
làm” giai đoạn 2005 - 2009, tỷ trọng những người thất nghiệp của nhóm này
trong tổng số người thất nghiệp tăng từ 36,37% năm 2005 lên 47,22% năm
2009. Khác so với trước là trong tổng số người lao động thất nghiệp, tỷ trọng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung học chuyên nghiệp trở lên lại có
xu hướng gia tăng trong giai đoạn 2005 - 2009, tỷ trọng thất nghiệp của lao động
đã qua đạo tạo nghề và tương đương lại giảm xuống: năm 2005 là 25,65% đến
năm 2009 còn 20,23%. Những con số này của tỉnh Thái Nguyên, của cả nước và
nhiều tỉnh khác cho thấy: Đối với một nước đang phát triển để tận dụng được
các lợi thế phát triển trong thời gian tới thì cần phải đào tạo đội ngũ lao động sát
với yêu cầu thực tế, đào tạo trực tiếp các ngành nghề đang cần lao động, tránh
tình trạng thừa thầy thiếu thợ.
5. Nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm và thất nghiệp
a. Do thiếu đất canh tác
Nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên còn dựa chủ yếu vào ngành nông nghiệp nên
đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng nhất. Thiếu yếu tố đầu vào, thiếu đất canh
tác đồng nghĩa người lao động thiếu tư liệu sản xuất để có thể tự tạo việc làm.
Dân số trong khu vực nông thôn chiếm đa số nhưng diện tích đất canh tác
bình quân đầu người chỉ có 360m2/người. Số lượng đất đai không thay đổi mà
có thể ngày càng giảm đi – đây là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu đất cho
lao động ở nông thôn của tỉnh khi bước vào tuổi lao động. Không nên coi đất đai
là động lực lâu dài để phát triển kinh tế, yếu tố này tạo ra sự thất nghiệp của
người dân. Với tốc độ đô thị hóa như hiện nay có rất nhiều đất đai trong nông
nghiệp đã chuyển đổi mục đích sử dụng sang ngành công nghiệp để sản xuất.
b. Do yếu tố mùa vụ ở nông thôn
Nếu trong mùa vụ thu hoạch của người nông dân thì họ có thể làm việc 11
giờ/1 ngày, công việc rất bận rộn. Nhưng thời gian bận rộn này kéo dài khoảng 3
tháng trong 1 năm, 6 tháng còn lại họ rơi vào thời kỳ nông nhàn. Trong thời gian
này họ chỉ làm việc 3 giờ/ ngày, mà khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực
lượng lao động của toàn tỉnh dẫn đến có khoảng gần 30% lao động thiếu việc
làm thường xuyên. Không có việc làm thì không có thu nhập, những nhu cầu tối
thiểu nhất của con người như: ăn uống, chỗ ở, điều kiện sinh hoạt cá nhân...cũng
không được đáp ứng.
Đặc biệt, tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số còn thiếu điều kiện sinh hoạt tối
thiểu, tập trung chủ yếu ở các huyện: Định Hóa, Phú Yên. Những người thất
nghiệp vào thời gian nông nhàn sẽ tìm đến nơi có việc làm để có thêm thu nhập.
Từ đó xuất hiện dòng người di dân, di chuyển lao động từ vùng này đến vùng
khác, từ nông thôn ra thành thị nhằm giải quyết việc làm một cách tạm thời.
Tỉnh cũng đã và đang thực hiện biện pháp này kết hợp với tạo điều kiện cho
người dân trồng thâm canh, xen vụ, chăn nuôi để giảm thời gian nhàn rỗi.
c. Do thiếu vốn sản xuất kinh doanh
Ở Thái Nguyên, tình trạng các đơn vị sản xuất kinh doanh không có đủ vốn
để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên xảy ra dẫn đến người
lao động không có việc làm hay việc làm không ổn định. Một phần nữa là do chi
phí tạo ra chỗ làm mới thường đắt hơn so với nguồn vốn các doanh nghiệp có.
Nguồn vốn của tỉnh tồn tại dưới dạng tiết kiệm của người dân nhiều hơn mang
ra đầu tư sản xuất kinh doanh. Do đó, để thu hút nguồn vốn đầu tư vào các
doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tạo lợi nhuận, tăng việc làm mới cần
tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm
nguồn tiền dự trữ trong người dân.
6. Các chương trình tạo việc làm tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện
a. Chương trình giải quyết việc làm: Chương trình 120
Bảng 11: Kết quả giải quyết việc làm giai đoạn năm 2005 -2009 (Đơn vị:
Người)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Số người lao động
4.116
4.094
6.030
5.856
6.497
Qua bảng số liệu ta thấy việc làm được tạo ra từ chương trình có biến động
lúc giảm lúc tăng qua các năm nhưng đều nằm trong xu hướng là số người lao
động có việc làm tăng lên. Trong giai đoạn năm 2001 – 2005, đã có tổng số
19.911 người được giải quyết việc làm, bình quân mỗi năm số người lao động
có việc làm là 3.892 người. Trong giai đoạn 2005 – 2009, tổng số lên đến
26.593 người, bình quân cả giai đoạn này hơn giai đoạn trước là khoảng 6.682
người có việc làm. Năm 2005 số người dân có việc làm là 4.116 người, năm
2006 là 4.094 người và năm 2007 tăng lên là 6.030 người có việc làm. Năm
2007 số người có việc làm tăng lớn hơn nhiều so với năm 2006 là do tháng 11
năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO và đến đầu năm 2007 các nhà đầu tư nước
ngoài vào nước ta, hoạt động đầu tư tăng lên rất nhiều với số lượng lớn và quy
mô đầu tư đa dạng hơn.
Năm 2009 chương trình chỉ đạt được 60% so với kế hoạch đề ra, không tạo
được nhiều việc làm mới mà chỉ duy trì được các việc làm hiện có. Thông qua
kênh này tổng vốn được giải ngân trên toàn tỉnh là 77,7 tỷ đồng hay bình quân là
khoảng trên 15,5 tỷ/năm và mức vay bình quân là đạt 3,9 triệu/lao động. Với đặc
thù là một tỉnh có nhiều lao động nằm trong khu vực nông nghiệp nên mức vay
này là một khoản đầu tư ban đầu tương đối giúp cho người vay có thể tự tạo việc
làm để cải thiện thu nhập và mức sống của gia đình.
b. Chương trình đào tạo nghề
Bảng 12: Số lao động của tỉnh Thái Nguyên qua đào tạo nghề giai đoạn
2005 – 2009 (Đơn vị: Người, %)
Tổng cung LĐ
Tỷ trọng lao động
Số lao động qua đào
(người)
qua đào tạo nghề (%)
tạo nghề (người )
2005
615.520
12,47
82.543
2006
638.960
13,65
86.100
2007
651.600
15,99
102.970
2008
663.420
18,32
120.450
2009
674.210
20,66
138.560
Năm
Theo số liệu đã thống kê của tỉnh thì chương trình đào tạo nghề đạt được
những kết quả: Số lượng người lao động qua đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh ngày
càng tăng qua các năm. Năm 2005 chỉ có 82.543 người được đào tạo thì năm
2009 đã có tới 138.560 người được đào tạo. Như vậy, số người được đào tạo
nghề năm 2009 đã tăng gấp 1,7 lần so với năm 2005, tính bình quân hàng năm
có khoảng trên 17.649 người được đào tạo. Số lượng này tương đối lớn, đối với
lao động qua đào tạo nghề, trong nền kinh tế đang phát triển như nước ta khá
phù hợp. Chính vì thế mà năm 2008 số lao động qua đào tạo nghề không giảm đi
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế mà lại cao hơn năm 2007, tăng lên
17.480 người. Tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề năm 2008 là 18,32% và năm
2009 tăng lên 20,66% trong khi đó các năm trước tỷ trọng này thấp: năm 2005 là
12,47%; năm 2006 là 13,65%; năm 2007 là 15,99%. Qua đó ta thấy việc dạy
nghề ngày càng phổ biến do có những ưu điểm của chương trình đào tạo nghề
phù hợp với hoàn cảnh tài chính của người lao động trong tỉnh.
c. Chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia
Song song với việc phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người dân, tỉnh Thái
Nguyên đã, đang thực hiện tốt hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng, đưa lao động của tỉnh sang các tỉnh khác làm việc nhằm
giảm nhu cầu làm việc trong tỉnh. Hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh Thái
Nguyên cũng có nhiều khởi sắc trong thời gian qua. Tổng số lao động đi làm
việc ở nước ngoài trong 5 năm đạt 6.081 người, đặc biệt số lao động đi xuất
khẩu lao động tập trung chủ yếu vào hai năm 2005 và năm 2006: năm 2005 đạt
là 2.214 người và năm 2006 đạt 2.945 người, số người đi ra khỏi tỉnh làm việc
tăng rất nhiều so với các năm trước như năm 2001 là 226 người. Xu hướng tăng
lên do người lao động làm việc ở môi trường nước ngoài đạt được thu nhập cao
hơn so với làm việc trong nước và qua đó người lao động học hỏi được nhiều
kinh nghiệm làm việc và kinh nghiệm quản lý của các nhà kinh tế nước bạn.
Hoạt động cung ứng lao động trong và ngoài tỉnh cũng góp phần quan trọng
trong thành công chung của lĩnh vực lao động việc làm. Tổng số lao động được
giải quyết việc làm trong giai đoạn 2005 – 2006 đạt 14/635 người (bình quân
mỗi năm 2.727 người/năm).
Năm 2008 số lao động ra nước ngoài làm việc giảm so với nước khác vì tình
hình tăng trưởng kinh tế của các nước bạn cũng gặp khó khăn nên nhu cầu về
lao động giảm dần. Kết quả là có khoảng 2.582 người lao động năm 2009 được
xuất khẩu, làm giảm đi áp lực về cung ứng việc làm của tỉnh nhưng tụt giảm trên
700 người so với năm 2008. Mỗi năm người lao động đi xuất khẩu đem về cho
tỉnh một nguồn ngoại tệ, tạo điều kiện cho tỉnh tăng trưởng kinh tế do nguồn vốn
tăng lên từ thu hút tiết kiệm của dân cư.
d. Chương trình tín dụng cho người dân để sản xuất kinh doanh
Chương trình này đã thu được những kết quả: Khi nền kinh tế tỉnh ở giai
đoạn 2005 – 2010 nguồn vốn không dồi dào như ở giai đoạn 1996 – 2000. Với
tổng số tiền là 380 tỷ đồng đã tạo việc làm trung bình cho khoảng 15 - 17 ngàn
lao động hàng năm trong giai đoạn 2006 – 2009. Cung cấp tín dụng ưu đãi, chủ
yếu là tín dụng quy mô nhỏ cho các hộ gia đình nghèo vay vốn để tự sản xuất
kinh doanh với thủ tục vay vốn và thu hồi vốn đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng
và phù hợp với người lao động cần vốn vay.
Tỉnh còn tạo thêm nhiều kênh dẫn vốn đến với người dân chưa có việc làm
hoặc việc làm không ổn định. Thái Nguyên cũng thực hiện chương trình tín
dụng đối với học sinh, sinh viên và với các sinh viên, học sinh có điều kiện
khó khăn đang theo học tại các trường Đại hoc, Cao đẳng, Trung cấp chuyên
nghiệp và tại cơ sở đào tạo nghề. Các đối tượng học sinh, sinh viên này là lực
lượng dự trữ, hàng năm gia nhập vào thị trường lao động khoảng 40.000
người, mức vay là 800.000đ/tháng/học sinh, sinh viên. Vì thế việc thực hiện
chương trình tín dụng với các đối tượng này rất tốt và mang lại hiệu quả lâu
dài. Mang lại cơ hội lớn hơn cho các sinh viên tìm kiếm được việc làm và đúng
với yêu cầu của nhà cung ứng việc làm.
IV. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
1. Về phía Nhà nước hay chính quyền địa phương
a. Với các chương trình việc làm thông qua sử dụng nguồn vốn quốc gia
(chương trình 120)
Với nguồn vốn ít nhưng số lao động cần giải quyết việc làm tương đối lớn
nên các địa phương ưu tiên cho những dự án giải quyết việc làm được nhiều
nhất, nhất là đối với lao động nông thôn, tập trung vào các cơ sở sản xuất có quy
mô và các doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Các lãnh đạo của tỉnh tạo điều kiện
tốt nhất cho người lao động được tiếp cận với nguồn vốn một cách dễ dàng nhất,
phát huy tính sáng tạo của đội ngũ cán bộ tín dụng, các ngành liên quan của tỉnh
cần tăng cường kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn này để xử lý kịp thời những bất
cập nảy sinh trong quá trình thực hiện.
b. Với các chương trình đào tạo
Chính quyền địa phương tiếp tục tổ chức các chương trình đào tạo nghề cho
người lao động với nhiều loại nghề hơn, chi phí thấp hơn. Cơ cấu về chi ngân
sách, tăng tỷ trọng chi ngân sách của tỉnh cho đào tạo nghề đặc biệt quan tâm
đến đào tạo nghề cho người dân bị thu hồi đất canh tác. Chú trọng tăng dần tỷ
trọng đầu tư cho đào tạo nghề dài hạn thay vì đầu tư chú trọng đào tạo nghề
ngắn hạn. Trong thời gian tới, chính quyền địa phương thực hiện xã hội hóa đào
- Xem thêm -