Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử đề cương thảo luận cnxh kh...

Tài liệu đề cương thảo luận cnxh kh

.DOC
24
82
137

Mô tả:

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC NỘI DUNG Câu 5: phân tích quan điểm của lênin:"dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ tư sản nào tiến bộ nhất cũng dân chủ gấp triệu lần hơn". Liên hệ nền dân chủ nước ta hiện nay. Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ - Trong công xã thị tộc (thời nguyên thuỷ), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được người dân của bộ tộc bầu ra hoặc phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân chủ ra đời từ rất sớm. - Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước và lấy tên là Nhà nước dân chủ chủ nô, chỉ đến giai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng. - Dân chủ theo nguyên nghĩa Latinh Dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép của hai chữ: Demos (nhân dân, quần chúng) + Kratos (sức mạnh, quyền lực) = quyền lực, sức mạnh thuộc về nhân dân. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về dân chủ, và có những quan niệm cho rẳng dân chủ là phi giai cấp, dân chủ là phi lịch sử. Đối ngược lại với những quan niệm đó, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những luận giải mang tính khoa học về dân chủ như sau: - Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc chủ nghĩa Mác-Lênin đã tán thành quan điểm cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân. - Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì khi đó sẽ không có “dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mạng bản chất giai cấp thống trị. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị. - Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó chính quyền về mặt pháp lý thuộc về nhân dân, mọi công dân đề bình đẳng trước pháp luật, có quyền tham gia công việc nhà nước, được sử dụng các quyền chính trị và các quyền tự do dân chủ, thiểu số phục tùng đa số. - Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối mọi lĩnh vực của toàn xã hội. Do vây, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, … ở mỗi quốc gia dân tộc cụ thể. Như vậy, trải qua các chế độ xã hội khác nhau thì dân chủ cũng có phản ánh mức độ phát triển khác nhau. Trong lịch sử phát triển của mình, dân chủ đã trải qua các hình thức phát triển như: dân chủ chủ nô, dân chủ phong kiến (quân chủ), dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. 1 Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa * Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản) là gì ? Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức mới và cao của dân chủ, là nền dân chủ thật sự đối với đa số nhân dân lao động, dân chủ được thực hiện trong thự tiễn nhưng nó vẫn là dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định : chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa về căn bản là thống nhất với nhau. Nên ngay trong Đại hội VII, Đảng ta đã thống nhất cách gọi “chuyên chính vô sản” là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chúng ta có thể khái quát về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như sau: - Bản chất chính trị: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. - Bản chất kinh tế: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. - Bản chất tư tưởng - văn hoá: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin làm nền tảng, chủ đạo đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ mà nhân loại đã tạo ra ở các quốc gia – dân tộc trên thế giới. Câu 6: tại sao nói đổi mới hoạt động của nhà nước ta hiện nay là một trong những giải pháp cơ bản để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân? Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về Nhà nước Đảng ta xác định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước bảo đảm việc thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể nhà nước; nhà nước là công cụ thông qua hệ thống tổ chức, bộ máy luật pháp thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho các bộ máy, công chức nhà nước thực thi quyền làm chủ, bảo vệ lợi ích của mình. Nhà nước xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên mục đích chung của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo…vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nhà nước ta được tổ chức và quản lý bằng pháp luật. Mọi hoạt động của nhà nước phải tuân thủ theo pháp luật như Bác Hồ từng chỉ rõ “trăm điều phải lấy thần linh pháp quyền”. Nhà nước ta không phải chỉ gắn với 2 nhân dân mà mọi chính sách do nhà nước đề ra đều phục vụ lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Nhà nước có cơ chế, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt động có thể nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lộng quyền của các tổ chức, bộ máy, công chức nhà nước. Bảo đảm nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ; bảo đảm quyền lực là thống nhất, có sự phân công hoạt động các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Nhận thức rõ bản chất của dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân Bác Hồ và Đảng ta luôn xác định dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ đất nước. Vì thế thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Bác Hồ xác định dân là gốc; trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ hoặc chế độ nước ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ. Bác xác định, Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định thực hiện dân chủ là mục tiêu và động lực của cách mạng. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự mới bình đẳng, mới đoàn kết, mới phát huy sức mạnh của mọi tấng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bền vững. Xây dựng đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thực hành dân chủ Theo đó, mọi tổ chức, hoạt động của Nhà nước luôn bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp của nhân dân. Nhà nước có cơ chế, chính sách khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân. Cán bộ, công chức nhà nước thật sự gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân, thật sự trong sạch về đạo đức, lối sống, không sách nhiễu dân, không cửa quyền với nhân dân để nhân dân thật sự tin tưởng yên tâm trao gửi quyền lực của mình. Nhà nước thực sự công khai minh bạch về những chủ trương, chính sách, cơ chế, thiết chế, các nguyên tắc lề lối, phương thức hoạt động; về chức năng, nhiệm vụ các tổ chức, cá nhân công chức các cấp để nhân dân thuận tiện công việc và kiểm tra, giám sát thực hiện quyền làm chủ của mình. Để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải nhận thức đúng, đầy đủ về quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật , cơ chế thực thi dân chủ; tạo lập các yếu tố, các tiền đề kinh tế - xã hội thực thi dân chủ. Nhà nước có biện pháp nâng cao dân trí, phát triển văn 3 hóa dân chủ, cung cấp thông tin, định hướng phát triển đất nước. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xã hội hóa các giá trị, năng lực của tập thể, cá nhân. Định rõ nội dung, hình thức, biện pháp, bước đi… trong thực hiện dân chủ. Câu 7: vì sao trong thời kỳ quá độ lên CNXH phải thực hiện liên minh công – nông - trí thức? Trình bày những nội dung cơ bản của liên minh Công – Nông – Trí ở nước ta hiện nay? Bài làm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”, từ tư tưởng của Người cho ta thấy rõ: ĐĐK dân tộc là tâ âp hợp mọi người dân vào cuô âc đấu tranh chung. Trong tiến trình cách mạng Viê ât Nam, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ ĐĐK toàn dân tộc, xác định đó là đường lối, chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu trong kháng chiến cứu nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… ĐĐK toàn dân tộc thực sự là nhân tố đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một vấn đề cốt tử của cách mạng… Như ĐH X của Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tô âc trên nền tảng liên minh GCCN với nông dân và đô âi ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Viê ât Nam, là nguồn sức mạnh, đô âng lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiê âp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn độc chống lại GCTS thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số NDLĐ mà chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi. Sở dĩ như vậy là vì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức có những vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội. Trong cách mạng XHCN, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô âi ngũ trí thức là mô ât tất yếu khách quan: Trước hết, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cuô âc cách mạng XHCN. Đây là cuô âc cách mạng cuối cùng trong lịch sử với nội dung rô ng lớn, toàn diê n trên tất cả tất cả các mă ât, các lĩnh vực của đời sống xã â â hô âi nhằm lâ ât đổ CNTB, xây dựng thành công CNXH, CNCS với tích chất gây go, quyết liê ât, lâu dài gian khổ. Để thực hiện được nội dung, mục đích của cuô âc cách mạng XHCN, phải có mô ât lực lượng đông đảo dưới sự lãnh đạo của GCCN nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi cuô âc cách mạng XHCN. Do đó, cần phải liên minh 3 lực lượng đông đảo trong xã hô âi, đó là liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô âi ngũ trí thức. Hai là, là từ vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đô i ngũ trí thức trong cách mạng â XHCN. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng XHCN, với SMLS thủ tiêu CNTB, xây dựng thành 4 công XHCN, XHCS trong phạm vi mỗi nước, mỗi dân tộc và trên toàn thế giới. Trong cuô âc đấu tranh đó GCCN phải có lực lượng, phải thực hiện liên minh giai cấp để tạo thành sức mạnh to lớn nhằm xóa bỏ CNTB, xây dựng thành công CNXH. Muốn thực hiện thắng lợi SMLS của mình GCCN phải tiến hành liên minh chă ât chẻ với nông dân và trí thức. Giai cấp nông dân Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin là lực lượng xã hô âi đông đảo, có vai trò quan trọng trong sản xuất và xây dựng chính quyền. Trong xã hô âi cũ nông dân bị bóc lô ât nă ng nề, có â nguyê n vọng được giải phóng. Song, do địa vị kinh tế-xã hô âi của mình không cho phép nông dân có khả â năng tự giải phóng mình và giải phóng xã hô âi. Chỉ có thể thoát khỏi áp bức bóc lô ât và phát huy vai trò khi giai cấp nông dân liên minh chă ât chẻ với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Trí thức là tầng lớp xã hô âi có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong cách mạng XHCN. Trí thức tham gia tích cực vào quá trình xây dựng CNXH, đổi mới đất nước, đi đầu trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghê â và văn hóa tinh thần. Song, trong xã hô i cũ, trí thức cũng bị bóc lô t và không có khả năng tự giải â â phóng mình, muốn thoát khỏi áp bức bóc lô ât và phát huy cao nhất vai trò của mình, trí thức phải liên minh với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Ngược lại, công-nông không được nâng cao kiến thức, không dần được trí thức hóa, thì không thể xây dựng CNXH được. Ba là, từ yêu cầu, đă âc điểm kinh tế, chính trị-xã hô âi của TKQD và của CNXH. Trong TKQĐ vẫn còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất, song cũng còn những lợi ích riêng của mỗi giai tầng. Muốn giải quyết đúng đắn mối quan hê â giữa các lợi ích bảo đảm sự cân bằng và thống nhất về lợi ích kinh tế-chính trị-xã hô âi của mỗi giai tầng trong xã hô âi, thì phải thực hiện liên minh giữa GCCN, giai cấp nông dân và đô âi ngũ trí thức. Mă ât khác, do yêu cầu xây dựng những cơ sở vâ ât chất của CNXH, đòi hỏi phải xây dựng và củng cố phát triển khối liên minh công-nông-trí thức, V.I.Lênin chỉ ra: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ bền vững, không thể có cải cách XHCN được”. Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu". Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo. 5 Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị-xã hội, là yếu tố tiên quyết. Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức. Vâ ân dụng sáng tạo tư tưởng của CN Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ĐCSVN đã nêu ra tư tưởng liên minh giữa giai cấp công nghiê âp với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ngay từ ĐHĐB toàn quốc lần thứ II (02/1951) của Đảng chỉ rõ: “Chính quyền của nước VN Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do GCCN lãnh đạo”. Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công-nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được CNXH”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định tính tất yếu và vai trò của liên minh công-nông- trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN XHCN mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo. Tính tất yếu của liên minh công-nông-trí thức ở VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác-Lênin về liên minh công-nông và các tầng lớp lao động khác và hoàn cảnh cụ thể của VN. Và quan điểm, đường lối và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS VN về liên minh công-nôngtrí thức là nhất quán từ khi Đảng ta mới thành lập, lãnh đạo cách mạng VN đến nay và luôn luôn được thực hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thời đại. Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hô âi của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền kinh tế chậm phát triển. Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một 6 nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”. Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước, nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao… Như vâ ây, liên minh công-nông-trí thức là tất yếu khách quan, là quy luâ ât của quá trình cách mạng XHCN. Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho chế độ mới. Bởi vì, đó những lực lượng lao động sản xuất, là những lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo nhất để xây dựng và bảo vệ CNXH. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng XHCN không thể thành công ở những nước nông nghiệp nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ chức lại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của gccn thông qua ĐCS. Do đó liên minh công-nông-trí thức vừa là nòng cốt, vừa là nền tảng của khối ĐĐK toàn dân tộc, của Nhà nước XHCN. Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: Kết hợp đúng đắn các lợi ích (về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hô âi) của GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và của toàn xã hô âi. Nội dung chính trị của liên minh: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh thực chất là mang lại lợi ích chính trị, quyền làm chủ x1t, là xây dựng mô ât Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS với đường lối chính trị, đường lối cách mạng nhất quán: Đô âc lâ âp dân tộc gắn liền với CNXH; mang lại lợi ích cho GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức. Nội dung kinh tế của liên minh: Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vâ ât chất kỹ thuâ ât của liên minh trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Nội dung này của liên minh thực chất là mang lại lợi ích kinh tế cho các đối tượng liên minh và toàn thể nhân dân lao đô âng; là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tâ âp thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD. Thực hiện tiến bô â và công bằng xã hô i ngay từng â bước và từng chính sách phát triển. Nội dung kinh tế của liên minh trong TKQĐ được biểu hiê ân qua 3 mối quan hê â kinh tế cơ bản: Mối quan hê â kinh tế giữa công nghiê âp và nông nghiệp; giữa Nhà nước với nông dân; giữa Nhà nước với tầng lớp trí thức. Ba mối quan hê â kinh tế này xuất hiê ân dựa trên các ýt của nền KTTT định hướng XHCN. Nô i dung văn hóa, xã hô i của liên minh:Văn hóa-xã hô i là mục tiêu, là đô ng lực của các nội dung chính â â ô ô trị, kinh tế, suy cho cùng là nhằm phục vụ những nhu cầu, lợi ích vâ ât chất và tinh thần ngày càng cao của công-nông-trí thức và của nhân dân. Vừa khuyến khích mọi giai tầng làm giầu chính đáng, vừa tích cực xóa 7 đói giảm nghèo, nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, miền núi … Nâng cao dân trí, văn hóa cho nông dân, công nhân và nhân dân lao đô âng, xóa mù chữ, phổ câ âp giáo dục phổ thông; chăm sóc sức khỏe nhân dân, đă âc biê ât là công nhân và nông dân; chống các biểu hiê ân tiêu cực, tham nhũng, quan liêu và tê â nạn xã hô âi. Thực hiện tốt các chính sách xã hô âi, nhất là gia đình thương bênh binh, gia đình liê ât sỹ, già cả neo đơn, khuyết tâ ât … Viê âc quy hoạch phát triển đô thị gắn liền với công nhân, khoa học và công nghê â phải gắn liền với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo Để phát huy vai trò của khối liên minh công-nông-trí thức ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những chính sách đối với từng thành viên trong liên minh như Đại hô âi X của Đảng đã khẳng định, đó là: Đối với GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú. Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ. Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. * CNXH khoa học là sự phản ánh bằng lý luận phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Việc đề ra chiến lược, sách lược cách mạng; việc thiết lập, phát huy vai trò hiệu lực Nhà nước; việc xây dựng, củng cố khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức; việc xây dựng và phát huy mối quan hệ các dân tộc trên phạm vi 8 quốc gia và quốc Đối với một Nhà nước XHCN, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong là Đảng Cộng sản, đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nó có vai trò, vị trí quan trọng đối với khối liên minh trong cuộc cách mạng XHCN. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn độc chống lại giai cấp tư sản thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số nhân dân lao động mà chủ yếu là gc nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi. Về giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động SX vật chất trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Lênin đã phân tích một cách khoa học về giai cấp nông dân, đây là một lực lượng đông đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật khởi, đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, nhưng nông dân vốn có PTSX phân tán, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp kém, KT nông dân nông thôn chủ yếu là tự cung tự cấp. nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp XH. Vì vậy khi liên minh với gccn, họ có mặt tích cực là dễ gắn bó với gccn, nhưng trong đấu tranh họ muốn bảo vệ mảnh đất nhỏ bé của mình, không muốn xa rời, do đó họ trở nên trì trệ, bảo thủ, không có tinh thần cách mạng triệt để. Mặt khác, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị XH đương thời. Trong cách mạng XHCN, khi chưa được giác ngộ thì lập trường tư tưởng của nông dân không kiên định, dễ dao động. Phải trải qua quá trình giác ngộ và đấu tranh cách mạng lâu dài, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS mới từng bước khắc phục được những mặt hạn chế của họ. Nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, với nhiều thành phần như: cố nông, bần nông, trung nông, phú nông, họ không có sự cố kết cả về mặt KT lẫn tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân là LLSX và lực lượng chính trị - XH đông đảo nhất trong những nước nông nghiệp. Nông dân gắn bó với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước, có khả năng cách mạng to lớn. Tuy nhiên, do đặc điểm những hạn chế của giai cấp mình mà giai cấp nông dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng XH một cách triệt để. Tầng lớp trí thức: là một tầng lớp XH đặc biệt, gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực lao động trí tuệ của mình. Phương thức lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm lao động của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị về tinh thần. Những sản phẩm trí tuệ ấy thường có tác dụng đặt cơ sở lý 9 thuật, định hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH. Các sản phẩm trí tuệ của trí thức có giá trị sáng tạo khoa học đều có tác động trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng SX, tốc độ tăng trưởng và phát triển của XH trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhưng do phương thức lao động đặc thù của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân, cho nên trí thức không thể đại biểu cho một PTSX tiên tiến mà trong đó LLSX mang tính XH hóa cao, mặc dù ngày nay khoa học và công nghệ ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của XH và vai trò của trí thức ngày càng quan trọng. Trí thức xuất thân trong tất cả các giai tầng trong XH. Họ hoạt động trong tất cả các ngành SX, các lĩnh vực đời sống XH. Lợi ích của trí thức gắn bó với những cơ sở, những giai cấp mà họ phục vụ. Họ không có hệ tư tưởng độc lập, chủ yếu vì không có PTSX riêng và địa vị KT-XH độc lập, từ thời chiếm hữu nô lệ cho đến nay vai trò và tư tưởng của họ đều phụ thuộc vào giai cấp thống trị XH. Trong các chế độ tư hữu, đại đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột (tuy hình thức và mức độ bị bóc lột không hà khắc và nặng nề như đối với giai cấp nông dân và công nhân bị áp bức bóc lột). Vì vậy, trí thức gắn bó với nhân dân, với dân tộc, luôn đấu tranh cho một XH hòa bình, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ. Khi được sự lãnh đạo của gccn, trí thức có điều kiện thể hiện là một lực lượng cách mạng quan trọng, với nhiều đóng góp to lớn. nhưng trí thức không thể tự giải phóng mình khỏi chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột; càng không thể trở thành lực lượng độc lập để lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN. Riêng đối với giai cấp công nhân, xét về nguồn gốc ra đời, là con đẻ của nền đại công nghiệp sinh ra và phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghệ và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi SX đại CN đã thay thế về cơ bản nền SX thủ công. Dưới chế độ TBCN, giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động làm thuê cho nhà tư bản, là giai cấp hoàn toàn không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Vì vậy, trong SX họ là giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối là giai cấp bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân đối lập trực tiếp về lợi ích với gc tư sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức quan trọng là xóa bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên XH XHCN và CSCN. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã luận chứng một cách khoa học sâu sắc và đầy thuyết phục: Địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp công nhân đã quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp, đó là người làm cuộc cách mạng XH đánh đổ CNTB, xóa bỏ hình thái XH dựa trên nền tảng chế độ tư hữu và xây dựng XH mới lấy chế độ công hữu về TLSX làm nền tảng, không có người bóc lột người. 10 CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại về phát triển LLSX. Sự ra đời của nền đại CN một mặt tạo ra cơ sở vật chất, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của LLSX trong CNTB sẽ làm cho nó mang tính chất XH hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với mối QHSX TBCN dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong XH tư bản: mâu thuẫn giữa QHSX lỗi thời - đại diện là gc tư sản với LLSX mới - đại diện là giai cấp công nhân. Theo quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, sớm muộn gì giai cấp công nhân - người đại diện cho LLSX mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ gc tư sản - người đại diện cho QHSX lỗi thời, thiết lập QHSX mới, mở đường cho LLSX tiếp tục phát triển. Là giai cấp đại biểu cho LLSX tiên tiến, do vậy giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng sáng tạo ra PTSX mới tiến bộ hơn. Đồng thời là một giai cấp đối lập trực tiếp với lới ích của gc tư sản, giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp và người lao động trong XH, do đó học trở thành lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống gc tư sản và xây dựng XH mới. Thực vậy, từ địa vị KT, XH của mình đã tạo cho giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiên tiến nhất, có khả năng vạch ra đường lối đúng đắn phát triển XH tốt hơn, kiên quyết loại bỏ gc tư sản bóc lột, còn giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chỉ tiên tiến khi nào đia theo giai cấp công nhân làm CM. Đặc điểm thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Thật vậy, sống dưới chế độ TBCN giai cấp công nhân bị tước hết TLSX và bị áp bức bóc lột nặng nề. Muốn giải phóng họ phải lật đổ ách thống trị của gc tư sản, xóa bỏ CNTB và mọi nguồn gốc sinh ra chế độ người bóc lột người. Mác đã viết: “Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói buộc họ, nhưng nếu được thì họ được cả thế giới về mình”. Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn tất khi XH thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp và áp bức bóc lột, nghĩa là muốn giải phóng mình, giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn XH, do đó giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Đặc điểm tiếp theo là, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao, bởi vì điều kiện SX và trình độ KHKT ngày càng hiện đại, lại có cơ cấu tổ chức SX khoa học chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân tính kỷ luật cao, trong cuộc đấu tranh chống lại gc tư sản có bộ máy cai trị đàn áp khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm độc, giai cấp công nhân muốn chiến thắng thì phải tổ chức thật chặt chẽ, có tinh thần đoàn kết cao và tinh thần kỷ luật cao, đó là cơ sở khách quan của việc hình thành tính tổ chức chính trị của giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh tự giải phóng giai cấp mình khỏi chế độ làm thuê. Một đặc điểm nữa là, giai cấp công nhân ở các nước tư bản đều có địa vị KT, XH giống nhau, ở đâu cũng chỉ là những người lao động làm thuê và chịu sự bóc lột của gc tư bản. Do vậy, họ có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của CNTB, xây dựng chế độ mới XHCN, XH không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, gc tư sản để duy trì sự thống trị của mình đã có sự liên minh trên phạm vi quốc tế, hình thành nên CNĐQ, để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công 11 nhân và các dân tộc bị áp bức. Vì thế, muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân các nước trên toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại, cùng phối hợp đấu tranh trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế nhất. Lý luận CN Mác-Lênin đã khẳng định: giai cấp công nhân muốn tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn độc chống gc tư bản thì sẽ thất bại; nhưng nếu giai cấp công nhân lôi kéo, liên minh được với đại đa số quần chúng lao động, chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững được vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng sẽ hoàn toàn thắng lợi. CN Mác-Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động khác, chẳng những chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính quyền mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH – “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì liên minh này đã tập hợp được LLSX và lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trong đó gccn là giai cấp tiên phong lãnh đạo thông qua chính đảng của mình là ĐCS. Xét về lợi ích cơ bản thì CM XHCN vì lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Đó là tính tất yếu của liên minh về mặt chính trị - XH. Trong quá trình xây dựng CNXH, tức là khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, thì cùng với tính tất yếu CT-XH, tính tất yếu của liên minh về mặt KT lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự thắng lợi của CNXH. Đối với liên minh công – nông – trí ở một nước nông nghiệp đi lên CNXH, tính tất yếu KT nổi lên mấy điểm cơ bản sau: + Tất yếu phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ trong một cơ cấu KT quốc dân thống nhất. + Từ một nước nông nghiệp đi lên, thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông nghiệp, để cho nông nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành CNH, HĐH đất nước; từng bước hình thành nền CN hiện đại có khả năng cải tạo toàn bộ nền KT quốc dân. + Nông nghiệp, CN và nhiều lĩnh vực KT đời sống, phải gắn liền với sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng hiện đại thì mới có thể xây dựng thành công CNXH, CNCS. Lênin cũng đã rất coi trọng vai trò tất yếu của khoa học công nghệ khi bước vào xây dựng CNXH, Người cho rằng: Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỷ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được. + Có chính quyền rồi, phải quan tâm chăm lo giải quyết vấn đề KT trong liên minh, nếu không thì bản thân công nhân, nông dân và đại đa số nhân dân lao động dù đã thoát khỏi ách nô lệ, áp bức, bóc lột nhưng không thể thoát khỏi đói nghèo, bệnh tật, mù chữ… Những nội dung KT và VH, XH của liên minh khi được thực hiện tốt, chính là giải quyết một cách cơ bản những vấn đề đặt ra đó trong quá trình xây dựng CNXH. 12 Xây dựng và củng cố được khối liên minh này, thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCS trong cách mạng XHCN. Mặt khác, chính khối liên minh này là lực lượng cách mạng hùng mạnh, đảm bảo cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền. Qua bài học (thất bại cũng như thắng lợi) của các cuộc cách mạng như: cách mạng Pháp năm 1848-1850, Công xã Pari năm 1871, cũng như từ thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, đã chứng minh rằng các nước thất bại là do giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó không liên minh được với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, không giữ được vai trò lãnh đạo thì không những không đủ sức mạnh và trí tuệ để xây dựng CNXH mà còn mất cả chính quyền cũng như những thành quả cách mạng đã giành được Chính cương Đảng Lao động VN tại Đại hội lần thứ hai (tháng 2-1951) chỉ rõ: “Chính quyền của nước VN Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do gccn lãnh đạo”. (Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 12, trang 437). Qua thực tiễn cách mạng VN, Chủ tịch HCM đã rút ra kết luận đúng đắn về vai trò khối liên minh công – nông – trí là: “Chỉ có khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản CM, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên CNXH” (HCM toàn tập, tập 10, NXB sự thật, 1989). Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công – nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được CNXH”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định tính tất yếu và vai trò của liên minh công – nông – trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN XHCN mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo. Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển KT, VH, XH của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền KT chậm phát triển. 13 Cốt lõi của liên minh về KT là mối quan hệ chặt chẽ giữa CN và nông nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch HCM đã khẳng định: “CN và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”. Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”. Nông nghiệp không thể có năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác động trực tiếp của CN. Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước, nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao… Đặc biệt trong nội dung kinh tế của liên minh công – nông, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và nông dân. Trong quan hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích đại diện XH, có quan hệ dân chủ, bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa là người có vai trò trách nhiệm và khả năng giúp đỡ, định hướng và điều tiết hợp lý các quan hệ lợi ích, các hoạt động, thông qua luật pháp, chính sách và những cơ sở kinh tế quốc doanh. Phát huy vai trò của khối liên minh công – nông – trí ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những vấn đề XH: thứ nhất, nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, trong đó nông dân, nông thôn có đóng góp trực tiếp lớn về người và của cho đất nước, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, đặc biệt là các gia đình thuộc diện chính sách. Thứ hai, phải giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn nhất là thanh niên học sinh, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ … Thứ ba, chống mù chữ, nâng cao dân trí và đời sống VH, tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ các tệ quan liêu, tham nhũng mất dân chủ … Thứ tư, Đảng và Nhà nước cần gắn chặt việc quy hoạch phát triển CN đô thị với quy hoạch và phát triển nông thôn. 14 Thứ năm, cần đề ra chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức. Thứ sáu, đào tạo đội ngũ trí thức mới đủ sức đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của đất nước trong những năm tới, như Đại hội VII của Đảng ta đã chủ trương “sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển giáo dục và VH, nâng cao dân trí”, đó là những nhiệm vụ mà trí thức ở nước ta phải trực tiếp nghiên cứu, đề xuất những chính sách, giải pháp và trực tiếp tham gia vào những hoạt động đổi mới. Thứ bảy, đổi mới việc tổ chức, lãnh đạo, cơ chế quản lý đối với đội ngũ trí thức. Nhà nước phải kiện toàn hệ thống các tổ chức, cơ quan khoa kỷ thuật để đi vào hoạt động đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành khoa học và trong mỗi lĩnh vực … đạt hiệu quả cao hơn cho XH. Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học … Thành tựu đạt được của cách mạng nói chung và thành tựu KT-XH mới thu được hơn 15 năm đổi mới ở nước ta đã khẳng định sự đúng đắn của liên minh công – nông – trí và vai trò của giai cấp công nhân VN mà nòng cốt là Đảng Cộng sản VN tiên phong đã từng bước đưa cách mạng VN tiến lên con đường xây dựng CNXH, góp phần tích cực vào việc bảo vệ phong trào cách mạng XHCN trên thế giới, bảo vệ CN Mác-Lênin. Chúng ta luôn tin tưởng rằng với liên minh công – nông – trí và đặc biệt là đảng lãnh đạo tiên của giai cấp công nhân VN ở thời đại ngày nay sẽ luôn tiếp nối truyền thống tốt đẹp của ông cha, vững tay lái chèo con thuyền cách mạng VN cập bến “Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”, tiến lên CNXH và mục tiêu cuối cùng là CNCS Tất yếu liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH. TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây 15 dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH. Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức. Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”. Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan. Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)” Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại 16 nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm, vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp. Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân. Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công – nông. Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ 17 chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình. Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi” Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không 18 được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn. Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị trung ương bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa X). Câu 8: hãy nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách dân tộc của đảng ta và làm rõ nội dung chính sách dân tộc của Đảng ta hiện nay 1. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin Trước tiên, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý. Đặc trưng chung cơ bản và quan trọng nhất của một dân tộc là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế - đây là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Trên thế giới, sự hình thành của các cộng đồng dân tộc diễn ra không đồng đều. Ở Châu Âu, dân tộc ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của CNTB; còn ở châu Á, trước khi CNTB thâm nhập, do trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm và thiên nhiên để sinh tồn, các cộng đồng người kết hợp lại với nhau hình thành một quốc gia độc lập, vì thế dân tộc được ra đời sớm hơn khi CNTB hình thành. Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt ra và thu hút sự chú ý của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội quan tâm. Nội dung của vấn đề dân tộc, trước tiên là quan hệ giữa các tộc người trong một xã hội nằm trong khuôn khổ một quốc gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ… và những vấn đề này thường kết hợp với những lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều mang tính giai cấp sâu sắc. Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế giới diễn biến rất phức tạp, đa dạng và gay gắt, giảii quyết vấn đề 19 này ở từng lúc, từng nơi có khi phải bằng vũ trang quân sự. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc, như ở Tiệp Khắc cũ, Liên Xô cũ, Nam Tư cũ, Inđônêsia hay vấn đề ở Đông Timor... Vấn đề dân tộc còn đề cập đến quan hệ giữa các quốc gia dân tộc và sự phát triển của thế giới nói chung với tư cách là công đồng quốc tế của các dân tộc. Vấn đề dân tộc luôn gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp mình trong quan niệm và tham gia phong trào dân tộc. Đối với các nước XHCN thì bao giờ quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp cũng gắn bó với nhau, giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai cấp và ngược lại. Còn đối với các nước TBCN thì giai cấp thống trị luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời nhau. Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của CNTB, Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc. Một là xu hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập. Hai là xu hứơng liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau, do sự phát triển của LLSX, của khoa học và công nghệ. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung châu Âu, châu Á (ASEAN) …). Tuy nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập, quyền tự chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, công bằng, văn minh bên cạnh sự hòa nhập cộng đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc, giai cấp đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có tính quốc tế, vừa có tính thời sự vừa có tính lâu dài. Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉai quyết vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính bao gồm : - Một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Quyền bình đẳng của các dân tộc là quyền thiêng liêng, không phân biệt dân tộc đông người hay ít người, lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da…. Nghĩa là tất cả đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau. Thực chất của bình đẳng dân tộc là xóa bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan