Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Bộ môn khí tuợng và các bộ môn
liên quan và cán bộ trong khoa Khí tuợng - Thủy văn đã tận tình giảng dạy kiến thức,
giúp đỡ, tạo diều kiện thuận lợi về thời gian, cơ sở vật chất trong suốt thời gian em
học tập tại nhà truờng. Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Viện Khoa học Khí tuợng
Thủy văn và Môi truờng, lãnh đạo tạo điều kiện trong suốt thời gian thực hiện đồ án.
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy- Thạc sỹ Nguyễn Minh Giám trực tiếp
huớng dẫn đã tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn
thành đồ án này tại nhà truờng.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Ðài Khí tuợng Thủy văn tỉnh Bình Dương
đã hết sức hợp tác, hỗ trợ em trong quá trình thực hiện đồ án.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, những
nguời luôn bên cạnh tạo mọi điều kiện tốt nhất và động viên giúp đỡ em trong suốt
quá trình học tập.
i
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG .....................................................................................................iv
DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................v
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC TÀI LIỆU MƯA ...........................................3
1.1.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ MƯA Ở MIỀN NAM VIỆT
NAM. ........................................................................................................................... 3
1.2. TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM MƯA ........................................................ 5
1.2.1 Điều kiện để hình thành mưa: ..........................................................................5
1.2.2 Quá trình hình thành mưa: ...............................................................................7
1.2.3 Đặc trưng của mưa:.......................................................................................... 9
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH
BÌNH DƯƠNG .............................................................................................................12
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN: ............................................................ 12
2.1.1.Vị trí địa lý, địa hình: ..................................................................................... 12
2.1.2. Thổ nhưỡng:..................................................................................................14
2.2 KHÁI QUÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU: ................................................15
2.2.1. Nhiệt độ.........................................................................................................15
2.2.2.Độ ẩm không khí ........................................................................................... 15
2.2.3 Gió .................................................................................................................15
2.3 THỦY VĂN, SÔNG NGÒI: ................................................................................16
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ MƯA ............................................................. 17
3.1 CƠ SỞ SỐ LIỆU VÀ VỊ TRÍ CÁC TRẠM QUAN TRẮC ................................ 17
ii
3.2 KHÁI QUÁT MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ PHÂN BỐ MƯA Ở ĐÔNG NAM BỘ
....................................................................................................................................18
3.3 PHÂN BỐ MƯA TẠI KHU VỰC TỈNH BÌNH DƯƠNG..................................19
3.3.1 Lượng mưa tuần ............................................................................................. 19
3.3.2 Lượng mưa tháng:.......................................................................................... 28
3.3.3
Lượng mưa năm ........................................................................................ 36
3.3.4 Số ngày mưa ..................................................................................................41
KẾT LUẬN ..................................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1: Các trạm quan trắc mưa ...............................................................................17
Bảng 3. 2: Lượng mưa trung bình tuần và tổng lượng mưa tuần của mười trạm trong
mười năm. ...................................................................................................................... 20
Bảng 3. 3: Lượng mưa trung bình tháng, lượng mưa tháng lớn nhất và lượng mưa
tháng nhỏ nhất trong mười năm tại các trạm (mm) ....................................................... 30
Bảng 3. 4: Lượng mưa trung bình năm, lượng mưa năm lớn nhất và lượng mưa năm
nhỏ nhất trong mười năm tại các trạm ...........................................................................36
Bảng 3. 5: Tổng lượng mưa năm, lượng mưa trung bình năm, chuẩn sai năm, tổng
lượng mưa và lượng mưa trung bình mùa mưa, tổng lượng mưa và lượng mưa trung
bình mùa khô và chuẩn sai mùa mưa, mùa khô: ........................................................... 37
Bảng 3. 6: Số ngày mưa trung bình trong các tháng và trong năm tại các trạm ...........41
iv
DANH MỤC HÌNH
Hình 2. 1: Bản đồ vị trí tỉnh Bình Dương ......................................................................12
Hình 3. 1:Tổng lượng mưa tuần và lượng mưa trung bình tuần của các trạm trong
mười năm (đơn vị mm) ..................................................................................................28
Hình 3. 2 Lượng mưa trung bình tháng của mười trạm trong mười năm ..................... 36
Hình 3. 3: Số ngày mưa năm và xu thế tại mười trạm trong mười năm........................ 42
Hình PL. 1: Tổng lượng mưa trung bình năm, chuẩn sai và xu thế tại các trạm trong
mười năm (đơn vị mm) ............................................................................................... PL1
Hình PL. 2: Tổng lượng mưa mùa khô và xu thế của các trạm trong mười năm....... PL4
Hình PL. 3: Tổng lượng mưa mùa mưa và xu thế tại các trạm trong mười năm ....... PL6
v
MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu đang tác động đến toàn cầu, nhiệt độ bề mặt trung bình toàn
cầu đã ấm lên, nhiệt độ tăng dẫn đến khả năng trữ ẩm của khí quyển tăng, với sự ấm
lên toàn cầu, có dấu hiệu cho thấy rằng mưa đã thay đổi và diễn ra trên cả quy mô toàn
cầu và khu vực. Những tác động của biến đổi khí hậu như nhiệt độ tăng và thay đổi về
mưa rất rõ ràng và không thể phủ nhận dẫn đến những tác động ảnh huởng đến hệ sinh
thái, đa dạng sinh học và con nguời.
Mưa là một yếu tố khí tượng quan trọng, quá trình hình thành và phát triển của
mưa diễn biến rất phức tạp do vậy phân bố không gian và thời gian của mưa có biến
đổi lớn cả về luợng và cuờng độ mưa.
Mưa ảnh hưởng không ít đến mọi hoạt động của con người, có ý nghĩa và đóng
vai trò quan trọng trong các quá trình sinh học, từ lúc phôi thai, sinh truởng và phát
triển ảnh huởng đến sức khỏe và bệnh tật, ngoài ra còn ảnh hưởng đến các ngành kinh
tế, đặc biệt là nông nghiệp. Thay đổi về mưa trên mỗi khu vực sẽ chi phối đến nguồn
nuớc sẵn có cung cấp cho nhu cầu sử dụng nuớc sinh hoạt, tuới tiêu và nuôi trồng thủy
sản ngày càng tăng đặt ra yêu cầu tích trữ, khai thác và sử dụng nuớc một cách hiệu
quả, trong khi nguồn nuớc cung cấp bởi các con sông suối ngày càng khan hiếm và
phụ thuộc vào phân bố luợng mưa trên từng khu vực. Mưa quá nhiều trên một khu vực
nhỏ sẽ sinh ra hiện tượng ứ đọng cục bộ do nước không kịp thoát hay ngấm xuống đất
nếu tình trạng này kéo dài sẽ sinh ra lũ quét gây ra thiệt hại lớn ở hầu hết các hoạt
động kinh tế, trong dó ngành nông nghiệp chịu thiệt hại nặng nhất, nguợc lại sự thiếu
hụt bất thuờng của luợng mưa trên khu vực thì cũng sẽ gây hạn hán nông nghiệp. Ðối
với sản xuất nông nghiệp, thời gian thu hoạch và gieo trồng các loại cây sẽ khác nhau
thuộc vào điều kiện khí hậu của từng khu vực, hiệu quả canh tác phụ thuộc trực tiếp và
gián tiếp vào mưa của từng mùa.
Có thể thấy biến đổi của mưa là quan trọng nhất và có ảnh huởng chủ yếu tới
chế độ khí hậu của một vùng, một khu vực hoặc một miền lãnh thổ. “Theo các nhà
nghiên cứu uớc tính việc giảm 10% về luợng mưa theo mùa từ mức trung bình dến dài
hạn sẽ dẫn dến giảm 4.4 % sản luợng lương thực. Do đó, kiến thức về sự phân bố theo
1
không gian và thời gian của mưa là rất quan trọng trong việc lập kế hoạch thích ứng
cho Việt Nam, bởi nông nghiệp không chỉ chiếm khoảng 18.4 % tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) và chiếm 47.1% tổng số việc làm của Việt Nam” (Lê Đại Thắng, 2014,
tr.1)..
Trong khi đó Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh
tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất
hiện nay tại Việt Nam và lại là một tỉnh có nền kinh tế phát triển với nhiều thành phần
kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,..với tốc độ đang phát triển công nghiệp
hóa, đô thị hóa mạnh mẽ thì việc nắm bắt được những đặc điểm phân bố mưa là một
việc có tầm quan trọng trong các công trình quy hoạch phát triển đang thực hiện được
thuận lợi hơn, cũng góp phần vào công cuộc để Bình Dương cất cách trong thời kỳ
mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành thành phố trực thuộc Trung
ương trước năm 2020.
Vì vậy nắm được những thay đổi trong điều kiện mưa hay nói cách khác là sự
phân bố mưa là rất quan trọng, sẽ hỗ trợ quản lý nguồn nuớc, phát triển nông nghiệp
và quản lý thiên tai và quy hoạch phát triển ở Việt Nam nói chung và Bình Dương nói
riêng trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu.
Truớc những đòi hỏi của thực tế, qua tham khảo những công trình nghiên cứu
về phân bố mưa ở trong và ngoài nuớc, đề tài “Đặc điểm phân bố mưa ở Bình
Dương'' được thực hiện với hy vọng xác định được đặc điểm mưa ở tỉnh trên cơ sở
thống kê, kế thừa và so sánh số liệu mưa đo được tại mười trạm quan trắc trong tỉnh và
vùng lân cận từ năm 2007 đến năm 2016. Đồ án được cấu trúc trong chương:
Chương 1. Tổng quan về các tài liệu mưa: Nêu rõ chính xác đề tài các công
trình liên quan đến mưa ở miền Nam Việt Nam, tổng quan về các đặc điểm của mưa.
Chương 2. Những đặc điểm chung điều kiện tự nhiên của tỉnh Bình Dương:
Khái quát các đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình, khí hậu..củ tỉnh Bình Dương.
Chương 3. Đặc diểm phân bố mưa: Cơ sở số liệu và vị trí các trạm quan trắc,
những nét chính về phân bố mưa ở Đông Nam Bộ và phân bố mưa ở khu vực tỉnh
Bình Dương.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC TÀI LIỆU MƯA
1.1.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ MƯA Ở MIỀN NAM
VIỆT NAM
Mưa, lũ không những gây thiệt hại về kinh tế xã hội mà còn đe dọa tới tính
mạng con người và hủy hoại môi trường sống, vì vậy việc nghiên cứu các vấn đề về
phân bố lượng mưa là hết sức quan trọng và cần thiết. Tại Việt Nam, khu vực nhiệt đới
gió mùa, ngay từ khi thành lập cục Dự báo (nay là Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ
văn Trung ương) mưa lớn đã được xếp là một trong những hiện tượng thời tiết nguy
hiểm và việc nghiên cứu mưa lớn đã được tiến hành.
Lê Đại Thắng: “Phân bố không gian và xu thế biến đổi của các đặc trưng mưa
trên lãnh thổ Việt Nam”, tác giả xác định chế độ mưa và phân tích, đánh giá xu thế
biến đổi của đặc trưng mưa trên lãnh thổ Việt Nam, tính toán các đặc trưng của 610
trạm khí tượng thủy văn trên toàn lãnh thổ Việt Nam; đánh giá xu thế biến đổi của các
đặc trưng mưa trong những thập kỷ qua; mô tả phân bố các đặc trưng mưa theo không
gian trên các vùng khí hậu.
Văn Thanh: “ Chế độ gió mùa với sự thành lập và kết thúc mùa mưa ở Nam
Bộ”, tác giả tập trung nghiên cứu, khảo sát gió mặt đất và trên cao trong khu vực, định
chỉ tiêu ngày bắt đầu và ngày kết thúc mùa mưa, đồng thời phân bố các thời kỳ mưa
trong khu vực, tính trữ lượng nước tỏng khí quyển có liên quan đến thời kỳ bắt đầu và
kết thúc mùa mưa, xét tính chất biến động của mưa cũng như những thời kỳ ít mưa
trong mùa mưa.
Tiêu biểu là các công trình của Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc trong cuốn
Khí hậu Việt Nam (1993); mặc dù không chỉ ra chi tiết tác động của từng hình thế thời
tiết gây mưa lớn ở miền Trung, nhưng các tác giả cũng đã miêu tả về các quy luật khí
hậu và cũng đã đề cập tới sự tác động của các khối khí ảnh hưởng đến Việt Nam trong
các giai đoạn. Khi đề cập tới khí hậu từng vùng (tác giả đã chia làm 4 vùng, trong đó
có 3 vùng đất liền, gồm miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu Đông Trường Sơn, miền
khí hậu phía Nam và một vùng miền khí hậu biển Đông), trong quá trình miêu tả các
miền khí hậu theo mùa, tác giả cũng đã đề cập một cách cơ bản về những nguyên
nhân, hình thế gây mưa lớn ở Trung Bộ, cụ thể là miền khí hậu ở Đông Trường Sơn
bao gồm phần phía Đông Trường Sơn, kéo dài từ phía nam Hoành Sơn (Đèo Ngang)
3
đến xấp xỉ vĩ tuyến 120N. Tương tự như vậy khi đề cập đến miền khí hậu phía Nam,
bao gồm phần lãnh thổ Trung Bộ thuộc sườn Tây Trường Sơn (Tây Nguyên) và đồng
bằng Nam Bộ, khi phân 18 chia mùa khô và mùa mưa, tác giả cũng đã đề cập đến một
số hình thế gây mưa lớn ở các khu vực này. Tuy nhiên do đây là cuốn “Đặc điểm khí
hậu Việt Nam” nên các tác giả chỉ tập trung vào việc phân tích các điều kiện hình
thành khí hậu và mối tương quan giữa hoàn lưu gió mùa và cấu trúc địa mạo, ngoài ra
các tác giả cũng xét đến các quy luật cơ bản chi phối diễn biến thời tiết và cấu trúc khí
hậu, nhấn mạnh những tính độc đáo trong quy luật phân mùa, trong sự biến động và
phân hóa khí hậu địa phương, đồng thời cũng thử nghiệm giải thích các quy luật đó
bằng các phân tích Synop thống kê. Nhưng các tác giả nói trên đã không nêu rõ những
hình thế thời tiết nào gây mưa ở miền Trung, các hình thế mà các tác giả đề cập là khá
chung chung, chủ yếu để người đọc có hình dung về khí hậu của các vùng miền Việt
Nam, chứ không đề cập chi tiết vào các hình thế gây mưa lớn ở Trung Bộ. [1]
Nguyễn Ngọc Thục (1992) với nghiên cứu “Phương pháp Synop dự báo mưa
lớn cho khu vực Nghệ An đến Thừa Thiên Huế”, đề tài đưa ra những khái quát về tình
hình mưa lớn ở miền Trung, nêu ra định nghĩ thế nào là mưa lớn diện rộng, diễn dải sơ
lược về tình hình mưa lớn từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế trong giai đoạn từ năm
1976 đến năm 1990, qua đó xác định nguyên nhân gây mưa lớn ở khu vực từ Nghệ An
trở vào đến Thừa Thiên Huế. Sau đó tác giả tiến hành thống kê các hình thế mưa lớn ở
khu vực này và đã chỉ ra có tất cả 7 loại hình thế có khả năng gây mưa lớn ở miền
Trung. Tác giả cũng đã đánh giá xác suất % của từng hình thế, ảnh hưởng của nó đến
từng vùng miền, khu vực ra sao, lượng mưa mà từng hình thế gây ra đối với các vùng
như thế nào, tác giả cũng đã đưa ra những nhận xét về sự giống nhau, khác nhau giữa
thời gian kéo dài, phân bố không gian, lượng mưa ngày, tổng lượng mưa, do từng loại
hình thế cơ bản và tổ hợp gây ra.
Lương Văn Việt: “Đặc điểm phân bố mưa ở miền Đông Nam Bộ”, tác giả đưa
ra các đánh giá ban đầu đặc điểm cơ bản phân bố mưa trên khu vực miền Đông Nam
Bộ
Trần Gia Khánh (1993) trong đề tài nghiên cứu “Dự án: Mưa lũ miền Trung do
Cục dự báo (nay là Trung tâm Dự báo Khí tượng – Thủy văn Trung Ương) với đề tài “
Phân loại hình thế Synop gây mưa lớn khu vực Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh
4
Hòa, trong các tháng 9, 10, 11 giai đoạn 1976 - 1990””. Trần Gia Khánh (1993) cũng
đã tiến hành nghiên cứu và phân loại các hình thế synop gây mưa lớn ở khu vực
Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh Hòa trong các tháng 9, 10 và 11, có thể nói đây là
công trình làm lại những gì mà KS Nguyễn Ngọc Thục đã tiến hành, vì cách tiếp cận
vấn đề cũng như phương pháp nghiên cứu của tác giả cũng không có gì mới so với
Nguyễn Ngọc Thục, tuy nhiên sau khi tiến hành phân loại các hình thế Synop chủ yếu
có thể tác động đến khu vực thì tác giả cũng tiến hành đi phân tích và mô tả các loại
hình thế gây mưa ở khu vực này, théo tác giả thì có 3 loại hình thế gây mưa ở các tỉnh
từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh Hòa trong các tháng 9, 10 và 11 đó là Bão và
ATNĐ, Dải hội tụ nhiệt đới kết hợp với KKL xâm nhập về phía Bắc và ảnh hưởng của
KKL đơn thuần, riêng với trường hợp mưa lớn do bão và ATNĐ tác giả cũng đã chia
làm 3 loại: Trường hợp bão đơn lẻ đổ bộ vào khu vực - Trường hợp bão liên tiếp Trường hợp bão kết hợp với KKL ở phía Bắc. sau khi tiến hành phân tích các hình thế
gây mưa lớn ở khu vực này, thông qua tổng kết, phân tích từng loại với quá trình mưa
lớn, phân bố mưa lớn theo 12h; 24h và từng đợt mưa tác giả cũng đã đưa ra số nhận
xét, có thêm một số nghiên cứu mới là đưa thêm một số chỉ tiêu dự báo.. [1]
Lê Mực: “Các hình thế thời tiết gây mưa liên quan đến vấn đề cấp thoát nước, ô
nhiễm môi trường TP.HCM”, tác giả đã xác định các loại hình thế synop gây mưa lớn
và các đặc trưng phân bố mưa tại TP.HCM
1.2. TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM MƯA
1.2.1 Điều kiện để hình thành mưa
Mưa là một dạng ngưng tụ của hơi nước khi gặp điều kiện lạnh, mưa có các
dạng như: mưa phùn, mưa rào, mưa đá, các dạng khác như tuyết, mưa tuyết, sương.
Khi có quá nhiều giọt nước hình thành ở mây, lâu ngày các đám mây càng nặng (do
những giọt nước quá nhiều) sẽ rơi xuống tạo thành mưa. Mưa được tạo ra khi các giọt
nước khác nhau rơi xuống bề mặt Trái Đất từ các đám mây. Không phải toàn bộ các
cơn mưa đều có thể rơi xuống đến bề mặt, một số bị bốc hơi trên đường rơi xuống do
đi qua không khí khô, tạo ra một dạng khác của sự ngưng đọng.
Mưa là một quá trình vật lý củ khí quyển khi có đủ điều kiện: độ ẩm không khí
phải cao và dòng đối lưu đang hoạt động. Nếu trong không khí có một khối khí được
5
dòng đối lưu nâng lên cao thì theo quy luật áp suất khí quyển, khối không khí ở trên
cao sẽ có áp suất nhỏ hơn khối không khí bên dưới. Vì vậy, khối không khí được nâng
lên do đối lưu sẽ đươc giãn nở và nhiệt độ giảm. Nếu sự giảm nhiệt độ này lớn thì hơi
nước trong khối không khí ẩm này sẽ ngưng tụ thành những giọt nước và tạo thành
những đám mây. Trong quá trình phát triển các hạt trong đám mây này sẽ lớn dần cho
đến lúc các hạt nước đủ nặng, tốc độ rơi của nó lớn hơn tốc độ thăng của dòng đối lưu
thì hạt nước đó rơi xuống đất và hiện tượng mưa xuất hiện. Khi độ ẩm không khí càng
lớn, dòng đối lưu càng mạnh thì mây càng nhiều và mưa càng lớn.
Một khối không khí ẩm phải là một khối không khí có nguồn gốc từ biển hoặc
là di chuyển và tồn tại lâu trong biển. Dòng đối lưu trong khí quyển được hình thành
từ tác dụng của nhiệt lực và động lực của các lớp khí quyển được biểu hiện trong
những trường hợp:
●Nhiệt lực:
Do các mặt đệm ở các vùng khác nhau có cấu tạo nên nhiệt dung riêng của các
vùng này khác nhau và do đó sự hấp thụ bức xạ mặt trời không như nhau và tạo ra sự
phân bố không đồng đều về nhiệt độ trên bề mặt nằm ngang của không khí trong khí
quyển. Khối không khí ở vùng mặt đệm nóng sẽ nhẹ hơn khối không khí xung quanh
nên sẽ bốc lên tạo ra đối lưu. Dòng đối lưu mang tính địa phương rõ rệt.
●Động lực:
Động lực trong khí quyển về cơ bản là những dòng chuyển động của không khí
và do sự phân bố khí áp không đồng đều trên bề mặt trái đất gây ra. Có lực gradient
khí áp nằm ngang của khí quyển tồn tại. Lực này chính là lực phát động ra gió. Khi lực
gradient khí áp này càng lớn thì vận tốc gió càng lớn. Tóm lại, lực gradient gây ra
chuyển động ngang của khối khí, sự chuyển động này làm cho không khí bị dồn nén
trên một khu vực nào đó mà phải bốc lên cao tạo ra dòng đối lưu.
Đối với dòng đối lưu do động lực gây ra. Có thể đến trước hết là ở các vùng có
gió cuốn xoáy vào tâm như trong các vùng xoáy thuận (vùng khí áp thấp, bão…) rồi
đến do có sự hội tụ về gió (cả hướng lẫn tốc độ) như trong các vùng có dãi hội tụ về
gió (rãnh gió Tây, sóng gió Đông…), ngoài ra ở phía đón gió của những vùng có địa
hình nhô cao cũng tạo nên dòng đối lưu mạnh [11]
6
1.2.2 Quá trình hình thành mưa
“Các phân tử mây là những giọt nước nhỏ, những tinh thể băng và những giọt
tuyết nhỏ. Những phần vật nhỏ nhất của sự ngưng kết, đông đặc và thăng hoa cấu tạo
nên đám mây nếu rơi xuống gọi là hiện tượng giáng thủy” (Phạm Ngọc Thanh,
2006,Trang 6). Khi có quá nhiều giọt nước hình thành ở mây, lâu ngày các đám mây
càng nặng (do những giọt nước quá nhiều) sẽ rơi xuống tạo thành mưa.
Những đám mây trên bầu trời chứa hơi nước và những hạt nhân mây nhỏ, các hạt nhân
mây này quá nhỏ để có thể rơi xuống thành mưa, nhưng nó cũng đủ lớn để hình thành
nên các đám mây có thể nhìn thấy được. [2]
Nước vẫn tiếp tục bốc hơi và ngưng tụ hơi nước trong bầu trời. Nếu nhìn gần
một đám mây, ta có thể nhìn thấy những phần đang biến mất trong khi những phần
khác đang ngưng tụ. Phần lớn lượng nước được ngưng tụ trong các đám mây không
rơi xuống thành giáng thủy.
Vì để giáng thủy xảy ra, trước tiên những giọt nước nhỏ phải được ngưng tụ.
Những phân tử nước có thể kết hợp với nhau thành những giọt nước lớn hơn và đủ
nặng để rơi thành mưa. Cần tới hàng triệu hạt mây để hình thành chỉ một hạt mưa nhỏ.
Mưa được tạo ra khi các giọt nước khác nhau rơi xuống bề mặt Trái Đất từ
các đám mây. Không phải toàn bộ các cơn mưa đều có thể rơi xuống đến bề mặt, một
số bị bốc hơi trên đường rơi xuống do đi qua không khí khô, tạo ra một dạng khác của
sự ngưng đọng.
Không phải tất cả các đám mây đều tạo ra lượng mưa. Những đám mây thường
xuất hiện dưới dạng các bọt hơi khí ấm, ẩm ướt gần mặt đất. Các khối không khí ấm
này lạnh đi khi chúng bay vào bầu khí quyển. Tại một mức nhiệt độ nào đó, chúng đạt
tới điểm bão hòa, hay điểm sương, và hình thành nên một đám mây có thể thấy được.
Sự hình thành mây liên quan đến sự ngưng tụ. Trong quá trình đó, hơi nước bắt
đầu tích tụ lại, hay ngưng tụ, thành những hạt nhỏ quanh hạt phân tử không khí (về
mặt kỹ thuật thì gọi là hạt nhân ngưng tụ). Khi đó, sự ngưng tụ là bước đầu tiên trong
quá trình dẫn đến sự phát triển giáng thủy. Nếu nhiệt độ không khí trong một đám mây
dưới nhiệt độ đóng băng, thì hơi nước của nó có thể chuyển trực tiếp thành dạng rắn.
Hầu hết các đám mây tạo ra giáng thủy đều hoàn toàn chứa các tinh thể băng cực nhỏ.
Những đám mây khác có các giọt nước hay một hỗn hợp nước và băng.
7
Tinh thể băng và giọt nước có thể tiếp tục lơ lửng trong mây, bị gió xua tan, hay
bay hơi khi chúng rơi xuống. Hai bước nữa phải xảy ra trước khi chúng thực sự hình
thành nên giáng thủy. Các giọt nước của mây phải phát triển về kích thước qua quá
trình lắng đọng. Trong quá trình này, các tinh thể băng nhỏ xíu bị treo lơ lửng trong
một đám mây hút các hạt nước xung quanh, các hạt nước này lắng đọng trên chúng.
Tiếp theo, khi trọng lượng tăng lên, một số các hạt phân tử bắt đầu rơi xuống hay bay
lên tại một tỷ lệ khác so với các hạt phân tử xung quanh chúng. Kết quả là chúng va
chạm với một phân tử khác và kết hợp lại. Quá trình này gọi là quá trình kết tụ.
Qua sự ngưng tụ, lắng đọng và kết tụ, hơi nước biến thành các hạt phân tử đủ
lớn để rơi xuống mặt đất. Khi mỗi hạt phân tử rơi xuống, nó vỡ ra thành các hạt nước
hay tinh thể nhỏ hơn - khiến chúng cũng kết tụ lại và rơi xuống.
Nếu có các dòng không khí dâng lên trong một đám mây, thì các tinh thể hay
giọt nước có thể bị cuốn nhanh lên trên. Các hạt phân tử cuốn lên cũng vỡ ra thành các
hạt phân tử khác, thường là các tinh thể băng ở các tầng lạnh phía trên của một đám
mây. Việc này dẫn đến sự lắng đọng và kết tụ hơn nữa, và tạo ra các hạt phân tử giáng
thủy thậm chí lớn hơn và nặng hơn. [2]
Các tinh thể băng lớn lên vừa bằng cách thăng hoa vừa bằng cách tụ hợp. Sự
lớn lên do thăng hoa là quan trọng nhất trong trường hợp đám mây, bên cạnh các tinh
thể băng lại có những giọt nước quá lạnh. Vì sức trương của hơi nước bão hòa trên
băng nhỏ hơn trên nước, nên nếu trong đám mây có những giọt nước thì trên mặt các
tinh thể băng, sự quá bão hòa rất cao và do đó hơi nước bắt đầu thăng hoa trên mặt các
giọt nước nhanh hơn trên mặt các tinh thể băng. Nhưng bây giờ vì đã có một phần hơi
nước hụt đi vì thăng hoa, nên độ ẩm không khí bắt đầu giảm đi và các giọt nước bắt
đầu bốc hơi. Độ ẩm của không khí lại tăng lên khiến hơi nước lại thăng hoa thêm vào
các tinh thể băng. Hiện tượng như vậy cứ tiếp diễn cho đến khi đám mây trở nên đồng
nhất, chỉ còn gồm những tinh thể băng. Như vậy, nếu đám mây đang ở trạng thái hỗn
hợp về thể thì trạng thái này sẽ không duy trì được lâu và đám mây sẽ có xu hướng trở
nên đồng nhất gồm toàn những tinh thể băng. [11]
Hiệu số của sức căng hơi nước bão hòa trên mặt nước và trên mặt băng sẽ tăng
lên khi nhiệt độ hạ xuống và đạt cực đại khi nhiệt độ bằng -12⁰C, sau đó giảm dần. Vì
vậy, ở nhiệt độ -12⁰C sự lớn lên do thăng hoa là mạnh nhất. Những hạt tuyết cũng
8
chính là kết quả của sự lớn lên do thăng hoa của các tinh thể băng khi quá trình này
xảy ra ở những mặt lồi của các tinh thể băng. Những hat tuyết tụ lại với nhau trở thành
những bông tuyết, nhiều khi có kích thước rất lớn. Sự lớn lên của các phân tử mây
chính là điều kiện cần thiết để chúng rơi xuống thành giáng thủy.
Vậy, sơ đồ hình thành mây như sau: Các phân tử ở thể nước của mây lớn lên,
chủ yếu là do sự tụ hợp khi các giọt nước lớn rơi tương đối nhanh so với những giọt
nước nhỏ. Nếu trong đám mây, tới những độ cao lớn vẫn chỉ gồm những giọt nước
như thường thấy ở các vùng nhiệt đới, những đám mây tren cao có nhiệt độ vẫn tương
đối cao thì trong quá trỉnh rơi từ trên cao xuống các giọt nước có thể to lên nhiều và
rơi thành mưa. Ở vùng ôn đới và hàn đới, hiện tượng này rất hiếm gặp. Ở đây, từ một
độ cao nào đó nhiệt độ đã quá lạnh và trong đám mây bắt đầu hình thành những tinh
thể băng, rồi từ đó những tinh thể băng lớn lên rất nhanh. Quá trình này trở nên đặc
biệt mạnh mẽ khi đám mây trong quá trình phát triển gặp một lớp không khí có chứa
những tinh thể băng, tàn dư của mây ti. Trên những phân tử nhỏ bắt đầu xảy ra hiện
tượng thăng hoa của hơi nước khiến tinh thể băng lớn dần lên và rơi xuống. Nên ở các
vĩ độ trung bình giáng thủy rơi xuống trong đa số trường hợp lúc đầu thường là những
phần tử thể rắn. Mùa hạ, ở các lớp dưới, các phân tử ở thể rắn đó chảy ra và rơi xuống
thành giọt mưa. [11]
Phần lớn mưa trên thế giới bắt nguồn từ các tinh thể băng hay các hạt phân tử
đóng băng khác tại nhiệt độ dưới mức đông giá của các đám mây. Khi chúng rơi
xuống qua lớp không khí ấm hơn, các hạt phân tử rắn này tan chảy. Tuy nhiên, tại
những vùng nhiệt đới, các đám mây mưa có thể không bao giờ đạt đến nhiệt độ dưới
mức đông giá, do đó các giọt nước của mây đơn giản tăng lên về kích thước đến khi
chúng đủ lớn để rơi xuống.[2]
1.2.3 Đặc trưng của mưa
Mưa đóng một vai trò quan trọng trong chu trình thủy học trong đó nước từ các
đại dương (và các khu vực khác có chứa nước) bay hơi, ngưng tụ lại thành các đám
mây trong tầng đối lưu của khí quyển do gặp lạnh, khi các đám mây đủ nặng, nước sẽ
bị rơi trở lại Trái Đất, tạo thành mưa, sau đó nước có thể ngấm xuống đất hay theo các
con sông chảy ra biển để lại tiếp tục lặp lại chu trình vận chuyển.
9
Mưa là thuật ngữ được dùng để chỉ các giọt mưa rơi xuống với đường kính nhỏ
nhất khoảng 0,05cm. Một số giọt mưa lớn có đường kính lớn hơn 0,8cm. Lượng mưa
cũng nặng hơn, hay dày đặc hơn là mưa phùn. Nhìn chung mưa lên đến ít nhất là
0,5cm một giờ khi được đo bằng vũ kế; một trận mưa lớn có thể tạo ra lượng mưa cao
hơn. Mưa thường rơi xuống từ các đám mây dông hay mây tích.
Các giọt mưa rơi thông thường được vẽ trong các tranh hoạt họa như là "giọt
nước mắt", tròn ở phần đáy và nhỏ, nhọn ở phần đỉnh, nhưng điều này không đúng
(chỉ có các giọt nước nhỏ ra từ một nguồn nào đó mới có dạng như vậy ở thời điểm
hình thành ra giọt nước). Các giọt mưa nhỏ là có dạng gần như hình cầu. Các giọt lớn
hơn thì bị bẹt dần đi, giống như bánh hamburger (một loại bánh mì dẹp như bánh bao);
còn các giọt rất lớn thì có hình dạng giống như cái dù. Trung bình thì giọt mưa có kích
thước từ 1 mm đến 2 mm theo đường kính. Những giọt mưa lớn nhất trên Trái Đất đã
được ghi lại ở Brasil và quần đảo Marshall năm 2004 - một số giọt có kích thước tới
10 mm. Kích thước lớn được giải thích là sự ngưng tụ trong các hạt khói lớn hay bởi
sự va chạm giữa các giọt mưa trong một khu vực nhỏ với lượng rất lớn nước lỏng.
Nói chung, nước mưa có độ pH nhỏ hơn 6 một chút, đơn giản là do nó hấp thụ
điôxít cacbon trong khí quyển, nó bị điện ly một phần trong nước, tạo ra axít cacbonic.
Ở một số sa mạc, các luồng không khí vận chuyển cả cacbonat canxi lên không trung,
do đó nước mưa ở đây có thể là có pH bằng hoặc cao hơn 7. Các trận mưa có pH thấp
hơn 5,6 thì được coi là mưa axít.
Lượng mưa tại một khu vực nào đó được đo bằng các máy đo lượng mưa đặt tại
một số điểm ngẫu nhiên, xa khu vực có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo.
Nó là độ cao lượng nước thu được sau cơn mưa trên một bề mặt phẳng, không bị nhà
cửa hay cây cối bao phủ hay che lấp và có thể được tính bằng mm (milimét) hay L/m².
Độ chính xác của các máy đo có thể đạt tới 0,25 mm hay 0,01 in. [3]
Mưa phùn chứa các giọt mưa nhỏ có bán kính từ 0,02 đến 0,05cm. Nó hình
thành nên các màn sương và các đám mây tầng dày hơn. Mặc dù các giọt của mưa
phùn nhỏ nhưng chúng có khá nhiều. Mưa phùn có thể rơi nhiều trong nhiều ngày
cùng một lúc. Chính một lượng giáng thủy ẩm ướt và mỏng gây ra một ít xói mòn khi
nó từ từ thấm ướt mặt đất.
10
Mưa giá, hay mưa băng, được hình thành khi các đám mây mưa ấm hơn mặt đất
bên dưới chúng. Giáng thủy rơi xuống Trái đất dưới thể lỏng, sau đó đông lại khi nó va
chạm với các vật thể rắn. Kết quả là một lớp phủ băng rõ rệt trên khắp những gì mà
mưa chạm đến. Mưa giá xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn gọi là bão băng.
Mưa tuyết bắt đầu dưới dạng mưa lỏng, rồi sau đó đông lại trên đường rơi
xuống Trái đất. Mưa tuyết thường hòa lẫn với bông tuyết. Bông tuyết bị tan ra và đông
trở lại, dẫn tới một mô tả phổ biến là “mưa cố gắng thành tuyết”. Mưa tuyết trút xuống
các ô cửa sổ và đôi khi gây tổn hại đến những cây mới mọc. May mắn là các hạt phân
tử của mưa tuyết thường nhỏ, bằng khoảng kích thước của mưa phùn. [4]
11
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG ĐIỀU KIỆN TỰ
NHIÊN TỈNH BÌNH DƯƠNG
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1.Vị trí địa lý, địa hình
Hình 2. 1: Bản đồ vị trí tỉnh Bình Dương (Nguồn: Internet - [12])
Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ Việt Nam. Tỉnh lỵ của Bình
Dương hiện nay là thành phố Thủ Dầu Một, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí
Minh 30 km theo đường Quốc lộ 13, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
(gồm 8 tỉnh thành, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng
Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và tỉnh Tiền Giang), là một trong những tỉnh có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển công nghiệp năng động của cả nước. xếp thứ
4 trong vùng Đông Nam Bộ.
Theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của Chính phủ, tỉnh Bình
Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước,
khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ); dân số 1.802.500 người (Tổng cục Thống
12
kê – tháng 10/2014); 09 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một,
thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên và các huyện Bàu
Bàng, Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (48 xã, 41
phường, 02 thị trấn).
Nằm trong khoảng tọa độ địa lý: 10o51' 46" – 11o30' Vĩ độ Bắc, 106o20' –
106o58' kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía
Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.
Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy
Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh bình
nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển.
Địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình
Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau như vùng địa hình núi thấp có lượn sóng
yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi...
Vùng đất Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn
tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau:
-Vùng thung lũng bãi bồi, phân bố dọc theo các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn
và sông Bé. Đây là vùng đất thấp, phù sa mới, khá phì nhiêu, bằng phẳng, cao trung
bình 6-10m
-Vùng địa hình bằng phẳng, nằm kế tiếp sau các vùng thung lũng bãi bồi, địa
hình tương đối bằng phẳng, độ dôc 3-12⁰, cao trung bình từ 10-30m.
-Vùng địa hình đồi thấp có lượn sóng yếu, nằm trên các nền phù sa cổ, chủ yếu
là các đồi thấp với đỉnh bằng phẳng, liên tiếp nhau, có độ dốc 5-12⁰, độ cao phổ biến
từ 30-60m.
Ngoài ra có một số núi thấp, như núi Châu Thới (huyện Dĩ An), núi Cậu (còn
gọi là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và một số đồi thấp.
=>Các quy luật tự nhiên tác động lên vùng đất này tạo nên nhiều dạng địa mạo
khác nhau: có vùng bị bào mòn, có vùng tích tụ (do có sự lắng đọng của các vật liệu
xâm thực theo dòng chảy), có vùng vừa bị bào mòn, vừa tích tụ và lắng đọng. Nguyên
nhân chủ yếu là do nước mưa và dòng chảy tác động trên mặt đất, cộng với sự tác
13
động của sức gió, nhiệt độ, khí hậu, sự sạt lở và sụp trượt vì trọng lực của nền địa chất.
Các sự tác động này diễn ra lâu dài hàng triệu năm. [5]
2.1.2. Thổ nhưỡng
Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại, các nhà thổ
nhưỡng đã tìm thấy ở Bình Dương 7 loại đất khác nhau, nhưng chủ yếu là đất xám và
đất đỏ vàng. Theo kết quả tổng điều tra đất năm 2000 thì hai loại đất này chiếm 76,5%
diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó đất xám chiếm 52,5%, đất đỏ vàng chiếm 24,0%.
[6]
+ Đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 142.445 ha phân bố trên các huyện Dầu
Tiếng, Bến Cát, Thuận An, thị xã Thủ Dầu Một. Loại đất này phù hợp với nhiều loại
cây trồng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn trái.
+ Đất đỏ vàng trên phù sa cổ, có khoảng 65.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp
thoải xuống, thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực thị xã Thủ Dầu Một,
Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất này có thể trồng rau màu, các loại cây ăn
trái chịu được hạn như mít, điều
.+ Đất phù sa Glây (đất dốc tụ) 15.725 ha, chiếm 5,79%, chủ yếu là đất dốc tụ
trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng,
Thuận An, Dĩ An; đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng
trũng ven sông rạch, suối. Đất này có chua phèn, tính axít vì chất sunphát sắt và
alumin của chúng. Loại đất này sau khi được cải tạo có thể trồng lúa, rau và cây ăn
trái, v.v...
+Đất phèn: 3.304 ha, chiếm 1,22% diện tích tự nhiên
+Đất dốc tụ: 322,848 ha, chiếm 12,09% diện tích tự nhiên
+Đất xóa mòn trơ sỏi đá: 91 ha, chiếm 0,03%
+Sông hồ: 12,135 ha, chiếm 4,46% diện tích tự nhiên
=> Với địa hình cao trung bình từ 6-60m, nên chất lượng và cấu trúc Bình
Dương không chỉ thích hợp với các loại cây trồng mà còn rất thuận lợi đối với việc
xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các khu công nghiệp.[6]
14
- Xem thêm -