Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội đối với người di cư ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Công tác xã hội đối với người di cư ở việt nam hiện nay

.PDF
78
667
124

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUANG TUẤN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI DI CƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN HỮU MINH HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả trong luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Học viện Khoa học xã hội về sự cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Nguyễn Quang Tuấn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 13 1.1. Người lao động di cư và nhu cầu của người lao động di cư .................... 13 1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người lao động di cư ........................ 24 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................................................... 37 2.1. Thực trạng người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay ........................... 37 2.2. Thực trạng công tác xã hội đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................... 42 2.3.Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 51 2.4. Định hướng thực hiện công tác xã hội đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay .................................................................................................. 64 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 70 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CLB Câu lạc bộ CTXH Công tác xã hội ILO International Labour Organization (Tổ chức Lao động quốc tế) ISDS Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội NVCTXH Nhân viên Công tác xã hội UNICEF United Nations Children's Fund (Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc) DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng Nội dung Trang Số lượng lao động Việt Nam đi lao động theo hợp đồng có 41 Bảng 1 thời hạn ở một số thị trường chủ yếu trong giai đoạn 20002010 Bảng 2 Trình độ chuyên môn của cán bộ, viên chức công tác xã hội 47 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Di cư là một yếu tố đóng góp quan trọng và không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Di cư chính là cơ hội thúc đẩy sự phát triển đồng đều, rộng khắp và giảm sự khác biệt vốn có giữa các vùng, thông qua việc đáp ứng được phần lớn nhu cầu lao động cho phát triển công nghiệp và đầu tư nước ngoài sau khi có chính sách đổi mới, và sự dịch chuyển một phần thu nhập về các vùng nghèo hơn [24, tr. 9]. Công cuộc đổi mới đã đem lại cho người dân những cơ hội kinh tế, điều đó đã thúc đẩy các luồng di cư lao động từ nông thôn đến các vùng đô thị. Sự gia tăng tốc độ thương mại hóa sản xuất nông nghiệp và sự thay thế lao động dư thừa ở nông thôn và khuyến khích họ đi làm ăn xa nhằm tìm kiếm những cơ hội kinh tế và thu nhập tốt hơn. Lao động ngoại tỉnh đã trở thành một nguồn lực quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường dịch vụ và việc làm tại các trung tâm đô thị [17, tr. 2]. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy trong giai đoạn 2004-2009 có 6,6 triệu người di cư trong và ngoài tỉnh của Việt Nam. Con số này thể hiện sự gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư trong nước ghi nhận từ cuộc tổng điều tra dân số năm 1999 [24, tr 5]. Những luồng di cư chủ yếu hướng tới các khu vực thành thị và các khu công nghiệp nơi có nhiều cơ hội việc làm [24, tr 6]. Di cư từ nông thôn ra thành thị có chiều hướng gia tăng, chiếm hơn 53% qui mô di cư, trong đó chủ yếu tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh [7, tr. 45]. Do đó, nó đã đóng vai trò quan trọng trong đáp ứng nhu cầu lao động, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội ngày càng lớn của Việt Nam [22, tr. 2]. Di cư không chỉ góp phần tăng phúc lợi và an sinh cho người di cư thông qua việc tạo thu nhập cao và đa dạng hóa các nguồn thu nhập, mà nó 1 còn mang lại lợi ích cho các hộ gia đình và cộng đồng có người di cư thông qua việc nhận được các khoản tiền gửi về quê hương của người di cư [23, tr. 4]. Bên cạnh những mặt tích cực mà quá trình di cư đem lại, người di cư còn gặp rất nhiều vấn đề tại nơi đến và nơi đi của họ, đó là vấn đề an toàn, tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở, nghề nghiệp, thu nhập, chăm sóc, nuôi dạy con cái, gia tăng mại dâm, lây truyền HIV/AIDS, gia tăng nạn buôn bán người…[20, tr. 1], [22]. Đặc biệt là các vấn đề này chủ yếu xảy ra đối với những người di cư tự do, những người di cư không nằm trong chương trình di dân của chính phủ và chủ yếu làm việc trong các khu vực phi chính thức. Vì thế, đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu để tìm ra phương pháp, cách thức trợ giúp người di cư một cách phù hợp để đảm bảo những quyền cơ bản của họ. Dưới góc độ CTXH thì các vấn đề mà người di cư đang gặp phải rất cần được quan tâm và giải quyết. CTXH hướng đến giúp đỡ cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của cá nhân, gia đình, cộng đồng từ đó giúp họ hòa nhập xã hội. Một mặt công tác xã hội giúp cá nhân tăng cường năng lực để hòa nhập xã hội, mặt khác công tác xã hội thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, gia đình tiếp cận với chính sách, nguồn lực xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản [13, tr 18]. Theo đó, người di cư là một nhóm đối tượng mà CTXH cần phải hướng đến trợ giúp. CTXH chuyên nghiệp với những nhân viên CTXH được đào tạo/tập huấn các kiến thức, kỹ năng, phương pháp về CTXH sẽ hỗ trợ, trợ giúp người di cư giải quyết các vấn đề mà bản thân họ và gia đình họ đang gặp phải. Chính vì vậy, tôi quyết định lựa chọn “Công tác xã hội đối với người di cư ở Việt Nam hiện nay” làm tên đề tài luận văn Thạc sĩ. Luận văn nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về CTXH đối với người di cư, đặc biệt là nhóm người lao động di cư ở nước ta hiện nay. 2 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu về CTXH đối với người di cư ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi cần có một đánh giá tổng quan, bao quát các vấn đề mà người di cư hiện nay đang gặp phải. Với những vấn đề người di cư gặp phải thì dưới góc độ CTXH cần có cách thức tiếp cận như thế nào, phương pháp và tiến trình hỗ trợ người di cư giải quyết vấn đề ra sao? Hoạt động trợ giúp hiện nay như thế nào? Vai trò của NVCTXH thể hiện ra sao trong các hoạt động trợ giúp? Đòi hỏi chúng ta cần có những nghiên cứu cụ thể trong vấn đề này. Qua tổng quan tài liệu nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng cho đến nay, hoạt động CTXH đối với người di cư cũng đã có thông qua các mô hình trợ giúp. Các mô hình trợ giúp chủ yếu từ các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam nhưng vẫn còn rất hạn chế mà chủ yếu mới tập trung nhiều trong hỗ trợ các đối tượng như người khuyết tật, người cao tuổi, người nhiễm HIV/AIDS, v.v, mặc dù cũng có một bộ phận những đối tượng này là những người di cư. Trên thế giới, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về CTXH đối với vấn đề di cư. Các nghiên cứu về CTXH đối với người di cư chủ yếu nhấn mạnh đến cách tiếp cận theo quyền con người và tập trung làm rõ tính công bằng xã hội, bình đẳng xã hội và các kỹ năng thực hành giải quyết những vấn đề về người di cư [26]. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đi sâu phân tích các hoạt động và chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá các hoạt động CTXH đã triển khai trong việc trợ giúp những người di cư. Bên cạnh đó, việc tổng quan, rà soát tài liệu cũng cho thấy các nghiên cứu về CTXH đối với người di cư ở Việt Nam hầu như chưa được chú ý đến mà chủ yếu là các nghiên cứu xã hội về vấn đề di cư, người di cư và các vấn đề liên quan đến người di cư. Các nghiên cứu xã hội về người di cư chủ yếu tìm ra nguyên nhân, những vấn đề mà người di cư gặp phải ở nơi đến cũng như tại nơi đi và chỉ ra các tác động di cư đến các vấn đề như nhà ở, việc làm, sức khỏe, tiếp cận dịch vụ, tham gia các hoạt 3 động xã hội tại nơi đến, v.v. Các nghiên cứu xã hội về người di cư sẽ là cơ sở cho CTXH trong triển khai các hoạt động trợ giúp phù hợp với từng vấn đề của người di cư. Do đó, tác giả chủ yếu tập trung tổng quan các nghiên cứu, tài liệu, sách, báo, internet về người di cư, đặc biệt là người lao động di cư trong nước ở Việt Nam thông qua các nghiên cứu xã hội về các vấn đề mà người di cư gặp phải như nhà ở, việc làm, thu nhập, tiếp cận dịch vụ xã hội, an sinh xã hội, tham gia các hoạt động xã hội, v.v. Về vấn đề nhà ở: Hầu hết những người di cư ở nước ta hiện đang ở thành phố đều cho biết gặp khó khăn khi mới đến, trong đó có vấn đề khó khăn về nhà ở và một bộ phận không nhỏ người lao động di cư cảm thấy không an toàn hoặc bình yên tại nơi họ đang tạm trú [7, tr. 112]. Những vấn đề liên quan đến nhà ở, nơi cư trú có liên quan đến vấn đề đăng ký hộ khẩu của người di cư. Hệ thống đăng ký hộ tịch hộ khẩu với những quy định kèm theo đã tạo ra những rào cản gây khó khăn cho người di cư từ nông thôn ra thành thị [3]. Rất nhiều người di cư gặp khó khăn do hệ thống đăng ký hộ khẩu gây ra. 42% trong tổng số 5.000 người di cư được điều tra cho biết họ gặp khó khăn do không có hộ khẩu thường trú. Trong tổng số 46 % (2.300 người) những người di cư không đăng ký tạm trú tại nơi đến thì có 48% cho biết họ không được phép đăng ký, 22% cho biết họ nghĩ không cần phải đăng ký và 9% cho biết họ không biết phải đăng ký thế nào [24, tr 19]. Trong các văn bản chính sách liên quan đến sự di cư, Chính phủ xác định chủ yếu có 2 thể loại di chuyển, tương ứng với hai nhóm người di cư là nhóm người di cư có tổ chức và nhóm người di cư tự phát [24, tr. 46]. Tình trạng di cư và vấn đề đăng ký hộ khẩu có mối liên quan đến điều kiện nhà ở của người di cư. Hầu hết người di cư thuộc diện không đăng ký hoặc đăng ký dưới 6 tháng sống ở nhà trọ, nhà bán kiên cố và thường sử dụng nguồn nước ngầm và sử dụng chung nhà vệ sinh. Điều này đối lập với người 4 không di cư, người không di cư chủ yếu sống trong loại nhà kiên cố, có nguồn nước sạch và sử dụng nhà vệ sinh riêng. Một bộ phận lớn người di cư không hài lòng với điều kiện nhà ở cũng như môi trường sống và họ cho biết tình trạng nhà ở nơi họ đến xấu hơn rất nhiều so với tình trạng nhà ở nơi đi [20, tr. 2]. Xét về khía cạnh giới thì hầu hết phụ nữ lao động di cư thuê nhà trọ, nhà cấp 4 có điều kiện sinh hoạt tồi tàn và không có hợp đồng thuê trọ mà chỉ thông qua thỏa thuận miệng. Bên cạnh đó, các chi phí về điện, nước đều cao hơn so với mức thông thường. Đặc biệt, vấn đề về chất lượng nguồn nước sinh hoạt là một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất [12, tr.59]. Trước tình hình đó, Nhà nước đã có những chính sách nhằm cải thiện tình hình nhà ở. Tuy nhiên, những chính sách này vẫn chưa tác động được tới các nhóm túng thiếu và yếu thế nhất vì có liên quan đến đăng ký hộ khẩu, những người nào không đăng ký hộ khẩu thì sẽ không đủ điều kiện xin nhà ở xã hội [24, tr. 8]. Về việc làm và thu nhập: Việc làm và thu nhập là một trong những yếu tố quyết định di cư của người dân. Hầu hết người di cư là vì lý do kinh tế trong đó bao gồm những người tìm việc làm, muốn tăng thêm thu nhập và nâng cao điều kiện sống cho bản thân và gia đình. Và những người di cư này chủ yếu là những người di cư tự do, tức là những người di cư không nằm trong chương trình di cư của Chính phủ [24, tr. 6]. Ở Việt Nam, rất nhiều người di cư trong nước với mục đích tìm việc làm tại nơi đến đã tìm được công việc được trả công xứng đáng với môi trường làm việc an toàn và họ cho biết rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi di cư. Các bằng chứng cho thấy người dân di cư thường bắt đầu tìm việc làm tại nơi đến ngay sau khi tới nơi hoặc họ đã xin việc trước khi di cư đến. Họ thường làm việc chăm chỉ và giữ được công ăn việc làm ổn định hơn so với người không di cư. Tuy nhiên, những người di cư thường thấy mình yếu thế hơn so với người dân sở tại, đặc biệt là trong thị trường lao động. Những người này thường tập trung ở một số ngành 5 nghề nhất định và thường ít được đảm bảo công việc hơn hoặc phải làm các công việc với mức lương thấp, lao động nặng nhọc và không ổn định.Ngoài ra, họ thường không được hưởng trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu họ không được ký hợp đồng lao động. Do vậy, họ có thể bị mất việc làm bất cứ lúc nào [24, tr. 7]. Sự kết hợp của các yếu tố này cộng thêm việc ít tiếp cận tới các thông tin Chính phủ cung cấp, không tiếp cận với các tổ chức quần chúng và các hỗ trợ của Chính phủ đã làm tăng sự yếu thế của người dân di cư và điều này đòi hỏi cần có giải pháp và sự quan tâm nhiều hơn.Yếu tố việc làm của người di cư gắn liền với thu nhập của họ. Di cư rõ ràng đã mang lại sự cải thiện về thu nhập, đặc biệt ở các trường hợp di cư để tìm việc làm. Những người di cư làm việc ở các công ty tư nhân và cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì mức thu nhập cao hơn so với những người di cư làm việc ở các khu vực phi chính thức với loại hình lao động giản đơn. Đặc biệt là đối với những người di cư không biết chữ thì mức thu nhập rất thấp. Như vậy, có thể thấy trình độ học vấn của người di cư có ảnh hưởng đáng kể đến mức thu nhập của họ [20, tr. 5]. Về tiếp cận dịch vụ xã hội: Ngoài những khó khăn về vấn đề nhà ở, việc làm và thu nhập thì người di cư, đặc biệt là phụ nữ còn gặp khó khăn rất nhiều trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sự đảm bảo an toàn cho bản thân. Việc tiếp cận tới các dịch vụ sức khỏe sinh sản và tình dục là rất quan trọng. Tuy nhiên, có rất ít chương trình sức khỏe sinh sản và tình dục coi người di cư là một nhóm riêng biệt và thiết kế các chương trình dịch vụ của họ để dành cho nhóm dễ bị tổn thương này. Đặc biệt, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường khó khăn hơn đối với những người chuyển đi trong thời gian gần đây so với những người chuyển đi năm năm trước đây [20]. Thực tế qua một số nghiên cứu cho thấy lao động di cư thường có ít kiến thức về lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS và thường tự chữa trị chứ không tìm 6 sự giúp đỡ tại một cơ sở y tế. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai trong số những phụ nữ di cư đã kết hôn hiện nay cũng thấp hơn so với những người phụ nữ đã kết hôn không di cư. Những kết quả này cho thấy việc thiếu các nghiên cứu sâu về nhu cầu sức khỏe sinh sản và tình dục chưa được đáp ứng của nữ di cư chưa kết hôn và thiếu những can thiệp cho đối tượng này, là rất đáng báo động [24, tr.35]. Thực tế theo Luật Lao động, những người công nhân làm việc được trả lương phải có hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động, tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội với cỡ mẫu khảo sát bảng hỏi là 1.200 người lao động di cư tại nơi đến thì chỉ có 36% trong người lao động may mắn có hợp đồng lao động, còn lại đối với những người tự kinh doanh hay lao động tay chân trong khu vực kinh tế phi chính thức thì không có hợp đồng lao động. Nhưng một điều đáng lưu ý là chủ lao động rất hạn chế trong việc cung cấp bảo trợ cần thiết cho công nhân. Kết quả điều tra cho thấy có đến 38% công nhân có việc làm nhưng không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía chủ sử dụng lao động và thường phải làm những công việc khó khăn, nặng nhọc nhưng họ không nhận được bất kỳ một sự bảo trợ xã hội nào như chăm sóc sức khỏe hay bảo hiểm [22, tr.31]. Đặc biệt, người lao động di cư làm việc trong khu vực phi chính thức rất ít khi được hưởng bảo hiểm y tế, bởi lẽ người chủ sử dụng lao động hiếm khi quy định hưởng bảo hiểm y tế trong hợp đồng lao động. Do đó, người lao động di cư và gia đình của họ gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận các bệnh viện công [2]. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội có liên quan mật thiết đến thu nhập của người lao di cư. Người di cư có nguồn thu nhập thấp thì khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế thấp, ngược lại người di cư có nguồn thu nhập cao thì khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cao. Còn đối với những người di cư có con cái thì khó khăn lớn nhất là việc cho con đi học. Và việc cho con cái đi học có liên quan đến vấn đề đăng ký hộ khẩu trong trường hợp học trường công và điều này là rất khó đối với người 7 di cư. Trong trường hợp cho con cái học trường tư thì khả năng kinh tế của họ rất khó khăn nên rất khó đảm bảo cho con cái theo được. Bên cạnh đó, người di cư còn gặp khó khăn trong tiếp cận vốn. Gần một nửa số người di cư cho rằng họ không có khả năng vay vốn. Những người không có sự giúp đỡ về tài chính tại nơi chuyển đến phải phụ thuộc vào các hệ thống xã hội nhiều hơn so với những người có sự giúp đỡ về tài chính.Và nhóm tuổi trung niên gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn bởi lẽ nhu cầu tài chính của họ lớn hơn do phải chăm lo gia đình. Đặc biệt, đối với nhóm người có trình độ học vấn thấp (không biết đọc, biết viết) thì dường như không tiếp cận được vốn. Có lẽ họ không có công việc làm ổn định, thu nhập cao nên không đủ để thế chấp, vay nợ và điều quan trọng hơn là họ không được tiếp cận thông tin về vay vốn thông qua các kênh chính thức [20, tr. 27]. Về tham gia các hoạt động xã hội: Người lao động di cư tham gia vào các hoạt động xã hội tại nơi cư trú rất hạn chế, trên 77% số người lao động di cư không tham gia vào bất kỳ hoạt động tại địa phương nơi đến [31], do đó dẫn đến đời sống văn hóa tinh thần của lao động di cư còn gặp nhiều khó khăn [1]. Như vậy, ngoài các quan hệ trong công việc, mối quan hệ tinh thần chủ yếu của lao động nữ di cư là trao đổi, chia sẻ cách thức làm ăn trên thành phố và các thông tin về gia đình ở quê nhà. Do các quan hệ xã hội của họ rất hạn chế cùng với trình độ văn hóa thấp nên đã có một bộ phận người lao động nữ di cư bị lôi kéo vào các việc vi phạm pháp luật như buôn bán ma túy, hành nghề mại dâm, v.v. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người di cư mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, mỹ quan và đời sống văn hóa ở khu vực thành thị [16]. Những tác động tại nơi đi của người di cư: Nhìn chung, lao động di cư là một trong những bộ phận quan trọng đóng góp vào sự phát triển về kinh tế xã hội của cả nơi đến và nơi đi. Tuy nhiên, vấn đề này đều mang tính hai mặt: 8 Mặt tích cực của quá trình di cư là mang lại sự cân bằng về phân phối lực lượng lao động, người lao động có thêm điều kiện và cơ hội trong phát triển, tăng thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống của bản thân và gia đình, phần nào đã giảm tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn. Bên cạnh đó, quá trình di cư cũng có những tác động tiêu cực nhất định như sự di cư còn mang tính tự phát nên khó quản lý, các vấn đề nảy sinh tại nông thôn như mất lao động khỏe mạnh, có tay nghề, việc quan tâm đến giáo dục cho con cái bị hạn chế và làm tăng tỷ lệ dân số già và trẻ em ở nông thôn. Bên cạnh đó, cũng nảy sinh các vấn đề về tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, HIV/AIDS, v.v. [12]. Qua việc tổng quan các nghiên cứu, tác giả nhận thấy quá trình di cư của người lao động cũng đã đem lại những mặt tích cực đáng ghi nhận, tuy nhiên những tác động tiêu cực không chỉ nảy sinh tại nơi đến của người di cư mà còn nảy sinh nhiều vấn đề tại nơi đi của họ. Đặc biệt là nhóm lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức. Chính vì vậy, CTXH có vai trò rất quan trọng trong trợ giúp nhóm lao động di cư này giải quyết các vấn đề ở cả nơi đến và nơi đi của họ thông qua các hoạt động can thiệp, trợ giúp của người NVCTXH. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xã hội đối với người di cư ở Việt Nam hiện nay 3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau: - Trước hết, đề tài tập trung vào nghiên cứu và xây dựng các khái niệm then chốt như: CTXH, di cư, người di cư, CTXH đối với người di cư, v.v. Đây là những khái niệm quan trọng cần phải được làm sáng tỏ về nội hàm để làm cơ sở cho việc thao tác hóa. Tiếp theo, tìm hiểu và phân tích các vấn đề 9 mà người di cư gặp phải thông qua các nghiên cứu xã hội, đặc biệt là nhóm người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. - Chỉ ra một số lý thuyết tiếp cận trong nghiên cứu CTXH nói chung và CTXH đối với người di cư nói riêng. Các lý thuyết tiếp cận như: Tiếp cận dựa vào quyền con người, tiếp cận dựa vào nhu cầu, và tiếp cận dựa trên thuyết sinh thái. - Tìm hiểu các chính sách, pháp luật, chương trình hỗ trợ người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. - Tìm hiểu tiến trình trợ giúp trong CTXH đối với người lao động di cư và vai trò của NVCTXH trong hoạt động trợ giúp người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. - Tìm hiểu thực trạng CTXH đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những định hướng thực hiện công tác xã hội đối với người lao động di cư ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là công tác xã hội đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện tại Việt Nam - Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 7 năm 2016. - Phạm vi về nội dung nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu chỉ tập trung vào nhóm người lao động di cư trong nước từ nông thôn ra thành thị và làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức. Do đó, trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ người lao động di cư trong quá trình phân tích. + Làm rõ các khái niệm CTXH, NVCTXH, di cư, người di cư, công tác xã hội đối với người di cư; Tìm hiểu luật pháp, chính sách, các chương trình hỗ trợ người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. 10 + Tìm hiểu các vấn đề và nhu cầu của người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị; Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. + Tìm hiểu tiến trình trợ giúp trong CTXH đối với người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị; Tìm hiểu vai trò của NVCTXH trong trợ giúp người di cư lao động từ nông thôn ra thành thị. + Phân tích thực trạng CTXH đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, xem xét các định hướng đặt ra của CTXH đối với người di cư. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở thu thập các tài liệu (về lý thuyết và thực tế trong và ngoài nước), tiến hành phân loại, đánh giá, phân tích và tổng hợp các vấn đề về CTXH, di cư, người di cư, các hoạt động hỗ trợ người lao động di cư, các chính sách, luật pháp và chương trình hỗ trợ người lao động di cư, v.v. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tác giả luận văn liên hệ với một số chuyên gia có liên quan đến lĩnh vực CTXH để tìm hiểu quan điểm của một số chuyên gia về những vấn đề đặt ra và xu hướng của CTXH đối với người lao động di cư ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1.Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu là nguồn tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu, các giảng viên giảng dạy trong lĩnh vực CTXH, đặc biệt là trong CTXH đối với người di cư ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua nghiên cứu này, đề tài cũng góp phần ứng dụng vào thực tiễn trong quá trình hỗ trợ đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, giúp cho người lao động di cư nâng cao năng lực, tăng cường chức năng xã 11 hội và giải quyết các vấn đề gặp phải. Ngoài ra, đề tài cũng góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu (tính cấp thiết của đề tài, tình hình nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 2 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay - Chương 2: Thực trạng và định hướng thực hiện công tác xã hội đối với người lao động di cư ở Việt Nam hiện nay 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Người lao động di cư và nhu cầu của người lao động di cư 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Di cư Theo Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM): “Di cư là sự di chuyển của một người hay một nhóm người, kể cả qua biên giới quốc tế hay trong một quốc gia. Là sự di chuyển dân số, bao gồm bất kể loại di chuyển nào của con người, bất kể độ dài, thành phần hay nguyên nhân; nó bao gồm di cư của người tị nạn, người lánh nạn, người di cư kinh tế và những người di chuyển vì những mục đích khác, trong đó có đoàn tụ gia đình” [18, tr. 79]. Mục 7, điều 1, Pháp lệnh số 06/2003/PL của của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội Khóa 11, ngày 09 tháng 01 năm 2003 ghi rõ, di cư “là sự di chuyển dân số từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ địa phương này sang địa phương khác” [19, tr. 6]. Di dân theo nghĩa rộng là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong không gian và thời gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn; di dân theo nghĩa hẹp là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một khoảng thời gian nhất định [4]. Như vậy, đối với luận văn này, di cư được hiểu là sự di chuyển của người dân từ khu vực nông thôn ra khu vực thành thị trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam với một khoảng thời gian nhất định. 1.1.1.2. Người lao động di cư Luận văn này tập trung nghiên cứu công tác xã hội đối với người di cự lao động, được hiểu là những người dân từ 15-59 tuổi ở khu vực nông thôn di 13 chuyển tới khu vực thành thị trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà không phân biệt thời gian cư trú nhằm mục đích lao động, tìm kiếm việc làm để tạo ra thu nhập, và bản thân những người này hiện đang gặp một số vấn đề mà họ chưa tự giải quyết được như vấn đề về tâm lý, nơi ở, tìm kiếm việc làm, tiếp cận dịch vụ, tham gia các hoạt động xã hội, xung đột trong quan hệ lao động, v.v.. 1.1.2. Các hình thức di cư Có nhiều cách phân loại các hình thức di cư như căn cứ vào phạm vi di cư thì có hình thức di cư trong nước và di cư quốc tế; Căn cứ vào thời gian di cư thì có di cư thời vụ, di cư ngắn hạn, di cư dài hạn; Căn cứ vào mục đích di cư thì gồm có hình thức di cư lao động, di cư học tập, di cư hôn nhân và đoàn tụ gia đình; Căn cứ vào luật pháp thì có hình thức di cư hợp pháp và di cư không hợp pháp. Tuy nhiên, đối với nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu cụ thể về hình thức di cư trong nước, di cư thời vụ, di cư ngắn hạn, di cư dài hạn, và di cư lao động. Bởi lẽ, trong nghiên cứu này tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và chỉ tập trung vào nhóm đối tượng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị đang gặp một số vấn đề mà tự họ chưa giải quyết được. Hơn nữa, đối với các hình thức di cư thời vụ, di cư ngắn hạn và di cư dài hạn cũng được tác giả làm rõ là vì có liên quan đến nhóm đối tượng nghiên cứu chính của nghiên cứu này và liên quan đến thời gian cư trú của lao động di cư như đã trình bày ở phần các khái niệm trên. 1.1.2.1. Di cư thời vụ Một người lao động di cư, hoặc hoạt động di cư việc làm, mà đặc điểm công việc của họ phụ thuộc vào điều kiện mùa vụ và chỉ được thực hiện trong một phần của năm [21, tr. 111]. 1.1.2.2. Di cư ngắn hạn Là hình thức di chuyển đến một nơi mà không phải nơi mình cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất ba tháng nhưng chưa tới một 14 năm, trừ trường hợp di chuyển vì mục đích giải trí, nghỉ lễ, thăm họ hàng, bạn bè, đi công việc hoặc chữa bệnh [25, tr. 4]. 1.1.2.3. Di cư dài hạn Là hình thức mà người di cư chuyển đến một nơi không phải là nơi cư trú thường của họ trong khoảng thời gian ít nhất một năm, do đó nơi đến trở thành nơi cư trú thường xuyên mới của họ [25, tr. 4]. 1.1.2.4. Di cư lao động Sự di chuyển người từ quốc gia này sang quốc gia khác, hoặc trong phạm vi quốc gia cư trú của họ, với mục đích làm việc [21, tr. 73]. Như vậy, dưới góc độ CTXH thì người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam với mục đích lao động, tìm kiếm việc làm đang gặp một số vấn đề mà tự họ chưa thể giải quyết được thì CTXH sẽ hướng đến bao phủ họ thông qua các hoạt động hỗ trợ, trợ giúp bất kể họ là người di cư thời vụ hay là người di cư ngắn hạn, dài hạn. 1.1.3. Nhu cầu của người lao động di cư Di cư đã trở thành một vấn đề phát triển, có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng cả ở khu vực nông thôn và khu vực đô thị ở Việt Nam trong những năm trở lại đây. Việc đưa ra quyết định di cư là kết quả của một quá trình ra quyết định với sự tương tác của các yếu tố lực đẩy và lực hút. Như đã trình bày trong phần tổng quan về những tác động tích cực của quá trình di cư đối với người lao động di cư như đối với một bộ phận người lao động di cư có công việc làm tốt với mức thu nhập cao. Do đó, điều kiện sống và chất lượng cuộc sống được nâng cao cho bản thân người lao động di cư và gia đình của họ thông qua số tiền kiếm được và tiền gửi về cho gia đình.Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì di cư cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới bản thân người lao động di cư, gia đình, cộng đồng, xã hội nơi đi và nơi đến. Do đó, người lao động di cư gặp khá nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan