BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THU TRANG
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG CÔNG ƯỚC
LUẬT BIỂN 1982 – NHỮNG BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Toàn Thắng
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, người đã
tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều từ khi bắt đầu lựa chọn đề
tài, trong suốt quá trình thực hiện và cho đến khi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Luật
Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo của Khoa Pháp luật Quốc tế đã truyền dạy cho
tôi những kiến thức khoa học quý báu trong suốt sáu năm học tập tại trường, tới
Trung tâm Thông tin thư viện đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận
văn thạc sĩ.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của
UNCLOS .................................................................................................... 5
1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp quốc tế .............................................. 5
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................ 5
1.1.2. Biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế ........................ 7
1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS ......................................... 10
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp ...................................................... 10
1.2.2. Phạm vi giải quyết tranh chấp ........................................................... 11
1.2.3. Cơ quan giải quyết tranh chấp .......................................................... 13
1.2.4. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp .............................................. 17
Chương 2. Giải quyết tranh chấp tại tòa án Luật biển quốc tê ................... 21
2.1. Một số nét cơ bản về Tòa án Luật biển quốc tế...................................... 21
2.2. Thành phần và cơ cấu tổ chức của Tòa án Luật biển quốc tế ................. 22
2.3. Thẩm quyền của Tòa án Luật biển quốc tế ............................................ 24
2.3.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp..................................................... 24
2.3.2. Thẩm quyền đưa ra kết luận tư vấn ................................................... 24
2.3.3. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời..................................... 25
2.3.4. Thẩm quyền về việc giải phóng ngay tàu thuyền và thủy thủ đoàn ..... 27
2.4. Thủ tục xét xử và giá trị phán quyết của Tòa án Luật biển quốc tế ........ 30
Chương 3. Việt Nam trong vấn đề Biển Đông và khả năng áp dụng UNCLOS để
giải quyết tranh chấp ................................................................................. 33
3.1. Thực trạng tranh chấp trên Biển Đông và thực tiễn giải quyết tranh chấp
của Việt Nam ............................................................................................... 33
3.1.1. Thực trạng tranh chấp trên Biển Đông .............................................. 33
3.1.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Việt Nam ................................... 42
3.2. Khả năng giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo UNCLOS ............ 47
3.2.1. Những thách thức trong việc áp dụng UNCLOS ................................ 47
3.2.2. Một số giải pháp đề xuất đối với Việt Nam ........................................ 52
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 55
DANH MỤC VIẾT TẮT
Asean: Association of Southeast Asian Nations – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
DOC: Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông
ICJ: International Court of Justice – Tòa án công lý quốc tế
ITLOS: International Tribunal for the Law of the Sea – Tòa án quốc tế về luật Biển
UN: United Nations – Liên hợp quốc
UNCLOS: United Nations Convention on the law of the sea – Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, vấn đề Biển Đông, đặc biệt là tranh chấp về chủ
quyền đối với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (tên tiếng Anh là Spratly
Islands) giữa các quốc gia ven Biển Đông đang ngày càng căng thẳng, gây
nên nhiều lo ngại không chỉ trong khu vực mà còn đối với cộng đồng quốc tế.
Việt Nam với đường bờ biển dài hơn 3.000 km, mọi hoạt động hàng hải, kinh
tế, quân sự, du lịch biển đều diễn ra trên Biển Đông. Hơn nữa với vị trí chiến
lược và nguồn tài nguyên phong phú, Biển Đông đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với an ninh quốc phòng và nền kinh tế của Việt Nam. Các quốc gia
ven Biển Đông khác như Trung Quốc, Malaysia, Philippin, Brunei, Indonesia
cũng đều hiểu rằng, giành được quyền kiểm soát trên Biển Đông cũng tức là
có được ưu thế rất lớn cả về kinh tế và chính trị, trong hiện tại và cả tương lai.
Tranh chấp tại khu vực Biển Đông đã bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ
XX và cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều hy vọng được giải quyết.
Bởi vậy, đây đã trở thành đề tài mà giới nghiên cứu cũng như giới chính trị
quan tâm, khai thác.
Là một học viên lớp Cao học Quốc tế khóa 18 của trường Đại học Luật
Hà Nội cùng với niềm yêu thích đối với Luật biển quốc tế, trước một vấn đề
mang tính quốc gia như tranh chấp trên Biển Đông, tác giả mong muốn tìm
hiểu kĩ hơn vấn đề này.
2. Tính mới của đề tài
Cho đến nay Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu đưa ra các bằng
chứng lịch sử, khoa học để chứng minh và khẳng định chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như tìm kiếm những giải pháp đối
với những tranh chấp hiện tại ở khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, theo nghiên
cứu của tác giả thì hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu hoàn
2
chỉnh nào xem xét tranh chấp Biển Đông dưới góc độ các quy định của Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 - văn bản pháp lý quốc tế
quan trọng nhất về biển (UNCLOS). Có thể kể đến một số bài viết đã đưa ra
một số phương hướng và giải pháp cho vấn đề tranh chấp Biển Đông như:
PGS.TS. Nguyễn Hồng Thao, Khả năng sử dụng Tòa án Luật biển quốc tế
trong tranh chấp Biển Đông được đăng tải ngày 02/10/2011 bởi
Civillawinfor; Matthias Fueracker, Giải quyết các tranh chấp biển quốc tế
thông qua biện pháp tài phán, Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần
thứ nhất (Hà Nội, 11/2009)... Ngoài ra, về vấn đề giải quyết tranh chấp trên
biển theo Công ước luật Biển 1982 thì có rất nhiều công trình nghiên cứu cả
trong và ngoài nước, có thể kể đến như: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (2010), Cơ
chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước luật Biển 1982; Thomas
Mensah, The Dispute Settlement Regime of the 1982 United Nations
Convention on the Law of the Sea; Natalie Klein (2005), Dispute Settlement in
the UN Convention on the Law of the Sea; Budislav Vukas (2004), Law of the
Sea Selected writings.
Chính vì những lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Công ước luật Biển 1982 - những bài học cho Việt Nam”
làm luận văn thạc sĩ với hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé để tìm ra những
giải pháp khoa học, hợp lý cho vấn đề tranh chấp Biển Đông hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ những nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn này, tác giả mong muốn
có một cái nhìn tổng quát về cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của
UNCLOS, kiến nghị các giải pháp khoa học, có thể ứng dụng được đối với
tranh chấp trên Biển Đông, sớm đưa Biển Đông trở lại là một vùng biển hòa
bình, an ninh trên cơ sở hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia ven biển.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Từ những mục đích nêu trên, luận văn này có nhiệm vụ cuối cùng là tìm
ra được những giải pháp khoa học đối với Việt Nam để giải quyết tranh chấp
trên Biển Đông, trên cơ sở các quy định của UNCLOS.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này các quy định về cơ chế giải
quyết tranh chấp theo UNCLOS và việc áp dụng các quy định đó để giải
quyết tranh chấp trên Biển Đông, dưới góc độ đối với Việt Nam.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả phân tích kĩ cơ chế giải quyết tranh
chấp phù hợp với tình hình Biển Đông. Mặt khác, tranh chấp trên Biển Đông
là một vấn đề rất rộng lớn và phức tạp, vì vậy các giải pháp luận văn đưa ra
chỉ mang tính học thuật, giới hạn trong các quy định của UNCLOS, chứ
không đặt nặng về các giải pháp chính trị và ngoại giao.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu như phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh đối chiếu, phương
pháp phán đoán và suy luận logic. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để
đưa các quy định của UNCLOS về cơ chế giải quyết tranh chấp thành một hệ
thống giải quyết tranh chấp với nguyên tắc, phạm vi, trình tự áp dụng rõ ràng.
Phương pháp phân tích giúp làm sáng tỏ quy định của của điều luật. Phương
pháp so sánh đối chiếu được sử dụng để làm nổi bật sự ưu việt của cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng Tòa án quốc tế về Luật biển so với các thiết chế tài
phán quốc tế khác. Còn phương pháp phán đoán được sử dụng để làm rõ được
nội dung tranh chấp trên Biển Đông và các yêu sách cũng như tham vọng của
các bên trong tranh chấp, từ đó suy luận ra những giải pháp có thể giải quyết
hiệu quả tranh chấp này.
7. Kết cấu luận văn
4
Phần chính của luận văn chia làm ba chương với nội dung chủ yếu như
sau:
Chương 1. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định
của UNCLOS
Chương này đưa ra cái nhìn tổng quát về cơ chế giải quyết tranh chấp
biển, các quy định về hệ thống các cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS
và trình tự, thủ tục áp dụng các cơ chế đó.
Chương 2. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án Luật biển quốc tế
Tại đây, tác giả phân tích các cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Luật biển quốc tế, cơ chế tài phán hiệu quả nhất đối với vấn đề Biển Đông.
Chương 3. Việt Nam trong vấn đề Biển Đông và khả năng áp dụng
UNCLOS để giải quyết tranh chấp
Trong chương này, tác giả đưa ra cái nhìn khái quát về thực trạng và các
vấn đề tranh chấp chủ yếu trên Biển Đông, các hành động của Việt Nam từ
trước đến nay. Từ đó, đánh giá khả năng giải quyết các tranh chấp trên Biển
Đông theo các quy định của UNCLOS, và đề xuất một số giải pháp pháp lý
đối với Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THEO QUY ĐỊNH CỦA UNCLOS
1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Hiện nay, trong khoa học pháp lý quốc tế chưa có định nghĩa cụ thể nào
về cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế. Vì vậy, để có thể đưa ra định nghĩa
khái quát, cần làm rõ về mặt lý luận hai thuật ngữ: “cơ chế” và “tranh chấp
quốc tế”.
1.1.1.1. Khái niệm “cơ chế”
“Cơ chế” là thuật ngữ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học như
tâm lý học, luật học, y học, chính trị học, kinh tế học. Trong khoa học pháp
lý, “cơ chế” kết hợp với một số thuật ngữ khác tạo thành các khái niệm
chuyên môn: cơ chế điều chỉnh pháp luật, cơ chế thực thi pháp luật, v.v. Tuy
nhiên, nội dung của thuật ngữ “cơ chế” được hiểu và giải thích với nhiều
nghĩa khác nhau.
Từ điển tiếng Pháp “Le petit Larousse” định nghĩa “cơ chế”
(mécanisme) là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào
nhau [32]. Theo từ điển Oxford, trong tiếng Anh, “cơ chế” (mecanism) được
hiểu với hai nghĩa khác nhau: (i) cơ chế là hệ thống các bộ phận hoạt động
cùng nhau trong cùng một cỗ máy và (ii) cơ chế là một quá trình tự nhiên
hoặc được thiết lập nhờ đó một hoạt động nào đó được tiến hành hoặc được
thực hiện [34].
Trong tiếng Việt, “cơ chế” được các nhà ngôn ngữ học giải thích là cách
thức theo đó một quá trình được thực hiện hoặc cách thức sắp xếp theo một
trình tự nhất định hoặc cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng, cơ sở
theo đó mà thực hiện [21]. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học không chỉ giải thích
“cơ chế” là cách thức, quy cách thực hiện mà còn nhấn mạnh đến sự tác động
6
lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành hệ thống, theo đó “cơ chế” là khái niệm
dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành một hệ thống mà nhờ đó hệ
thống có thể hoạt động [14].
Như vậy, mặc dù có những cách hiểu khác nhau, thuật ngữ “cơ chế” luôn
được giải thích gắn liền với hoạt động của một hệ thống các bộ phận tác động
qua lại lẫn nhau trong quá trình hoạt động của chúng. Thuật ngữ “cơ chế”
chứa đựng hai nội dung chủ yếu: (i) cấu trúc của một chỉnh thể bao gồm nhiều
bộ phận hợp thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; (ii) cách thức vận hành
hay hoạt động của chỉnh thể đó, tức là sự tương tác giữa các bộ phận trong
cấu trúc của chỉnh thể theo những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt
được một kết quả nhất định.
1.1.1.2. Khái niệm “tranh chấp quốc tế”
Tranh chấp là hiện tượng thường xuyên, phổ biến trong đời sống xã hội
nói chung và đời sống quốc tế nói riêng. Từ điển tiếng Việt đã định nghĩa
“Tranh chấp là đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn
đề về quyền lợi giữa các bên” [20]. Ngoài ra có thể định nghĩa về “tranh
chấp” theo Tòa án thường trực Công lý quốc tế, trong phán quyết tại vụ
Chuyển nhượng Mavromatis Palestine năm 1924 giữa Hy Lạp và Vương quốc
Anh, như sau: “Tranh chấp là một bất đồng về một vấn đề của luật pháp hoặc
của thực tiễn, hay là một xung đột về quan điểm pháp lý hoặc về lợi ích của
hai chủ thể” [35].
Từ đó, có thể hiểu, “tranh chấp quốc tế” là một hoàn cảnh thực tế trong
đó các chủ thể của luật quốc tế có sự xung đột bắt nguồn từ sự khác nhau về
quan điểm, lập trường và cách hiểu hay cách giải thích về pháp luật quốc tế,
hoặc xuất phát từ những xung đột về lợi ích; được biểu hiện ra ngoài thành
những bất đồng về cách giải thích một Điều ước quốc tế, hoặc một bất đồng
về một vấn đề pháp lý, đòi hỏi phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình
7
và dựa trên các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế nhằm ổn định các quan
hệ quốc tế.
Tóm lại, với sự phân tích hai thuật ngữ “cơ chế” và “tranh chấp quốc tế”
nêu trên, có thể hiểu “cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế” bao gồm một
chỉnh thể thống nhất các bộ phận cấu thành có mối liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại với nhau và cách thức vận hành hay hoạt động của chỉnh thể đó theo
những nguyên tắc và quá trình xác định. Với cách hiểu đó, “cơ chế giải quyết
tranh chấp quốc tế” bao gồm tổng thể các nguyên tắc, cách thức, thủ tục,
phương tiện và thiết chế pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể tranh
chấp, xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc giải quyết xung đột,
mâu thuẫn phát sinh.
1.1.2. Biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế được hình thành từ
lâu trong quan hệ quốc tế và được ghi nhận cụ thể trong Hiến chương Liên
hợp quốc. Theo quy định tại Điều 2 khoản 3 của Hiến chương, “Tất cả các
Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình,
theo cách không làm nguy hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý”. Và
điều khoản tiếp theo, Điều 2 khoản 4cũng tuyên bố loại trừ hoàn toàn việc áp
dụng các biện pháp vũ lực ra khỏi quan hệ quốc tế, “Tất cả các Thành viên từ
bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự
toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc bằng
cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Cụ thể hóa các
nguyên tắc này, Điều 33 khoản 1 Hiến chương Liên hợp quốc quy định rõ
nghĩa vụ mà các nước thành viên phải tuân theo nhằm giải quyết tranh chấp
theo phương thức hòa bình:
Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài
các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc
8
tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con
đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử
dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các
biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.
Tranh chấp quốc tế về biển cũng không phải là ngoại lệ, với quy định rõ
ràng tại Điều 279 UNCLOS. Các biện pháp giải quyết tranh chấp được sử
dụng phổ biến hiện nay có thể kể đến như: đàm phán, điền tra, trung gian, hòa
giải, trọng tài và tòa án.
* Đàm phán là phương thức đơn giản, hữu hiệu và cũng được sử dụng
nhiều nhất hiện nay, với sự tham gia trực tiếp của các bên liên quan. Đàm
phán là việc thực hiện những cuộc thảo luận trao đổi quan điểm giữa các bên
có liên quan nhằm hòa giải những bất đồng, hoặc là bàn bạc giữa hai hay
nhiều Chính phủ để cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan đến các
bên [20, tr. 272]. Đàm phán là biện pháp giải quyết tranh chấp linh hoạt và có
hiệu quả. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, đây là biện pháp cơ bản, hữu hiệu
và thông dụng nhất để giải quyết các tranh chấp quốc tế.
* Trong một số trường hợp, việc giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của bên thứ ba. Đó có thể việc tham gia của một Nhà nước thứ ba, một nhóm
các chuyên gia, các tổ chức quốc tế hoặc một cá nhân có uy tín, để khuyến
khích các bên tranh chấp đi đến một giải pháp cho bất đồng. Có ba hình thức
khác nhau, phân biệt ở mức độ tham gia của bên thứ ba vào việc giải quyết
tranh chấp, đó là:
+ Hỗ trợ (good offices) hay còn gọi là môi giới, ở hình thức này, bên thứ
ba chỉ tham gia với vai trò thuyết phục các bên tranh chấp tham gia vào đàm
phán để giải quyết bất đồng. Vai trò này kết thúc khi cuộc đàm phán được bắt
đầu, và bên hỗ trợ không tham gia vào đàm phán. Ví dụ như việc hỗ trợ của
Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt năm 1906 để kết thúc cuộc chiến tranh
9
Nga - Nhật; sự hỗ trợ của Liên Xô trong giải quyết tranh chấp về khu vực
Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1965; hay vai trò của Pháp trong việc
thúc đẩy các cuộc đàm phán trong khuôn khổ Hội nghị Paris nhằm kết thúc
chiến tranh ở Việt Nam đầu những năm 1970.
+ Trung gian (mediation), so với biện pháp môi giới, ở hình thức này sự
tham gia của bên thứ ba tích cực và chủ động hơn. Bên thứ ba tham gia vào
đàm phán và có quyền đề xuất các giải pháp cho các bên tranh chấp, tuy nhiên
đề xuất này không có giá trị ràng buộc gì đối với các bên. Việc sử dụng biện
pháp trung gian chỉ được thực hiện khi có sự nhất trí của các bên tranh chấp.
Có thể kể đến một vài vụ việc có sử dụng trung gian như: vụ tranh chấp lãnh
thổ giữa Argentina và Chile đối với Kênh Beagle có Đức Giáo hoàng làm
trung gian; hay hoạt động của Hoa Kỳ để giải quyết cuộc Chiến tranh Trung
Đông lần thứ III giữa Israel và Ai Cập tại trại David năm 1979.
+ Hòa giải (Conciliation), cũng là một hình thức có sự xuất hiện của bên
thứ ba, nhưng khác với hai hình thức trên, bên thứ ba ở đây thường là một ủy
ban hoặc một hội đồng được các bên trong tranh chấp thống nhất lập ra, có
nhiệm vụ xem xét các vấn đề của tranh chấp, đưa ra một báo cáo chứa những
điều khoản kiến nghị nhằm giải quyết tranh chấp. Hình thức hòa giải mang
tính chính thức cao hơn nhưng lại ít linh hoạt hơn so với trung gian. Ủy ban
hòa giải thường bao gồm vài thành viên, hoặc có thể chỉ có một hòa giải viên
duy nhất. Các kiến nghị của Ủy ban hòa giải cũng không có giá trị ràng buộc.
* Hình thức phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn quốc tế
hiện nay là trọng tài. Điểm ưu việt lớn nhất của hình thức này so với các hình
thức trên là sự ràng buộc của các phán quyết của Hội đồng trọng tài. Giải
quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài vừa đảm bảo tính linh hoạt, vừa có
được những phán quyết cuối cùng mà các bên liên quan đều phải tuân thủ,
tranh chấp được giải quyết hiệu quả. Có thể kể đến một cơ quan Trọng tài
10
quốc tế như Tòa Trọng tài thường trực, được thành lập trên cơ sở Công ước
Hague năm 1899 về Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.
* Một biện pháp cũng được các chủ thể tranh chấp sử dụng hiệu quả là
các Tòa án quốc tế. Cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và trình tự thủ tục xét xử của
các Tòa án quốc tế có sự khác nhau, bởi mỗi Tòa án lại được thành lập dựa
trên một Điều ước hoặc một quy chế quốc tế khác nhau, nhưng đều có một
điểm chung là các phán quyết của các Tòa án quốc tế đều có giá trị ràng buộc,
thậm chí có thể có một cơ chế cưỡng chế đối với việc không tuân thủ, như
Tòa án Công lý quốc tế với cơ chế cưỡng chế của Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc. Một số Tòa án quốc tế có vai trò nổi bật có thể kể đến hiện nay như Tòa
án Công lý quốc tế (ICJ); Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS).
Ngoài ra, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ban thư ký Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế, khu vực cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc làm
trung gian, hòa giải và thúc đẩy các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh
chấp trên phạm vi khu vực và quốc tế.
1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp
Phù hợp với nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, Điều 279
của UNCLOS quy định:
Các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ giải quyết mọi tranh
chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng
các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2 khoản 3 của Hiến
chương Liên hợp quốc và vì mục đích này, cần phải tìm ra các giải
pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33 khoản 1 của
Hiến chương.
Như vậy, trong trường hợp phát sinh tranh chấp, các bên có thể lựa chọn
tất cả các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, dù đó là biện pháp
11
ngoại giao hay tài phán, trao đổi quan điểm trực tiếp hay thông qua bên thứ
ba:
- Giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán trực tiếp;
- Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba: trung gian, môi giới, hòa
giải;
- Giải quyết tranh chấp bằng cơ quan tài phán quốc tế;
- Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế;
- Những biện pháp hòa bình khác do các bên tranh chấp thỏa thuận.
Với mục tiêu hướng tới kết quả giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp
không chỉ có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp mà còn được quyền
tiến hành các biện pháp đã lựa chọn vào bất kỳ thời điểm nào của quá trình
giải quyết tranh chấp (Điều 280 UNCLOS).
1.2.2. Phạm vi giải quyết tranh chấp
Vấn đề đầu tiên các quốc gia cần quan tâm khi muốn áp dụng các
phương pháp giải quyết tranh chấp theo UNCLOS là những vụ việc như thế
nào thì có thể được giải quyết theo các quy định của Công ước. Theo quy định
tại Điều 279, cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS được áp dụng đối
với tất cả các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.
Như vậy, phạm vi giải quyết của UNCLOS là tất cả những nội dung và lĩnh
vực mà Công ước đã quy định và điều chỉnh, liên quan chủ yếu đến những
vấn đề sau:
- Việc hoạch định và tuyên bố các đường ranh giới trên biển, việc thực
thi chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven bờ cũng như quyền
của các nước khác trên các vùng biển ấy;
- Việc bảo tồn, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên, bao gồm tài
nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật;
12
- Quyền quá cảnh của các quốc gia không có biển đi ra biển, với những
ưu đãi và miễn trừ nhất định;
- Việc quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật và khoáng sản
trong Vùng, bao gồm mối quan hệ giữa Cơ quan quyền lực Vùng với các chủ
thể khác;
- Các hoạt động nhằm bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
- Các hoạt động xây dựng và lắp đặt các đảo, công trình nhân tạo trên
biển;
- Các hoạt động nghiên cứu khoa học biển; và
- Việc phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển.
Trong trường hợp tồn tại những xung đột, mâu thuẫn liên quan đến giải
thích hay áp dụng nội dung UNCLOS, thì tranh chấp sẽ được xem xét giải
quyết theo một trong hai hệ thống sau: hệ thống các phương thức hòa bình
giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn, quy định tại Mục 1 và hệ thống các
thủ tục pháp lý bắt buộc dẫn đến các quyết định ràng buộc quy định tại Mục 2
Phần XV UNCLOS.
Về xung đột giữa cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS với những
cơ chế được ghi nhận trong các điều ước quốc tế khác, Điều 282 của
UNCLOS quy định: khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ
của một hiệp định chung, khu vực hay thỏa thuận hai bên, đã thỏa thuận rằng
một vụ tranh chấp như vậy sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết
định bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù
định trong UNCLOS, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác. Ngoại lệ
này cho thấy sự tôn trọng ý chí và thỏa thuận của các quốc gia thành viên của
Công ước, với mục đích cuối cùng là tranh chấp được giải quyết hoàn toàn.
13
1.2.3. Cơ quan giải quyết tranh chấp
UNCLOS không thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp duy nhất
mà cho phép các bên tranh chấp lựa chọn các thiết chế tài phán sau để giải
quyết tranh chấp (Điều 287):
- Tòa án Công lý quốc tế (ICJ);
- Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS);
- Tòa trọng tài thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước;
- Tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VIII của Công ước;
Mỗi bên tranh chấp có thể lựa chọn để chấp nhận thẩm quyền của một
hoặc một vài cơ quan tài phán nói trên. Thời điểm lựa chọn có thể là tại thời
điểm quốc gia ký kết, phê chuẩn Công ước, hay bất cứ thời điểm nào khác sau
đó, và có thể tuyên bố sửa đổi hay hủy bỏ lựa chọn đó bất cứ lúc nào. Tuy
nhiên, đối với một tranh chấp đang trong quá trình giải quyết bằng một thủ
tục được tiến hành trước một tòa án có thẩm quyền do các bên lựa chọn thì
những tuyên bố sửa đổi hay hủy bỏ đó không có giá trị, trừ khi các bên có
thỏa thuận khác.
Trong trường hợp các bên không lựa chọn hoặc không thể nhất trí trong
việc lựa chọn một trong các cơ quan tài phán trên, Tòa trọng tài thành lập theo
đúng Phụ lục VII của Công ước sẽ là cơ quan tài phán có thẩm quyền để giải
quyết tranh chấp.
Ngoài ra, đối với các tranh chấp liên quan đến đáy đại dương (Vùng) thì
các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải chấp nhận thẩm quyền của một Viện
đặc biệt thuộc Tòa án Luật biển quốc tế. Tuy là một bộ phận của Tòa án Luật
biển quốc tế, nhưng Viện có những nhiệm vụ độc lập, quyền hạn riêng biệt,
quy định tại Mục 5 phần XI Công ước. Viện có thẩm quyền xét xử gần như là
độc quyền đối với những tranh chấp có liên quan tới các hoạt động tại Vùng,
được quy định cụ thể tại Điều 187, cùng với một số hạn chế nhất định theo
14
Điều 189 UNCLOS. Tuy nhiên, nghĩa vụ này không ảnh hưởng đến quyền tự
do lựa chọn các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp của các thành viên.
1.2.3.1. Tòa án Công lý quốc tế
Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) được thành lập theo Hiến chương Liên hợp
quốc; Quy chế của Tòa là một Phụ lục của Hiến chương Liên hợp quốc. ICJ
không có thẩm quyền tự động giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, mà
chỉ giải quyết các vụ việc khi các bên chấp nhận thẩm quyền. “Các quốc gia
thành viên của quy chế này bất kỳ lúc nào cũng có thể tuyên bố rằng họ thừa
nhận vô điều kiện đối với mỗi quốc gia khác bất kỳ đã nhận nhiệm vụ như
vậy: thẩm quyền xét xử của Toà án là nghĩa vụ xét xử về tất cả các vấn đề
tranh chấp pháp lý…” (Điều 36.5 Quy chế ICJ). Các quốc gia không phải là
thành viên của Liên hợp quốc cũng có thể tham gia thủ tục giải quyết tranh
chấp trước ICJ khi có tuyên bố thừa nhận thẩm quyền của Toà.
Thành phần của Tòa bao gồm 15 thẩm phán, các thẩm phán được bầu
chọn không theo quốc tịch. Nhiệm kỳ của mỗi thẩm phán là 9 năm, cứ 3 năm
thì được bầu chọn lại bởi Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an, tức là cứ 3 năm
thì thành phần Tòa được thay đổi một phần ba. Ngoài các thẩm phán thường
trực, ICJ còn có các thẩm phán ad hoc, là những thẩm phán được các quốc gia
thành viên lựa chọn, không bao gồm các thẩm phán thường trực. Thành phần
của một phiên xét xử thông thường gồm 15 thành viên (phiên họp toàn thể),
ngoài ra có thể là 9, 5 hoặc 3 thành viên. Số lượng thành viên của Tòa phụ
thuộc và hình thức phiên tòa: Tòa rút gọn trình tự tố tụng, Tòa đặc biệt; Tòa
rút gọn thành phần hay Tòa ad hoc đối với từng vụ việc.
Giải quyết tranh chấp là một trong những thẩm quyền chính của Tòa.
Điều 33, khoản 1 của Quy chế Tòa quy định: “Tòa có thẩm quyền tiến hành
xét tất cả các vụ việc mà các bên đưa ra cũng như tất cả các vấn đề được nêu
riêng trong Hiến chương Liên hợp quốc hoặc trong các hiệp ước, các công
15
ước đang có hiệu lực”. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa được thiết
lập bởi sự chấp nhận của các quốc gia tranh chấp theo từng vụ việc; hoặc sự
chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa trong các điều ước quốc tế; hoặc bằng
một tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.
1.2.3.2. Tòa án Luật biển quốc tế
Ngoài ICJ, các bên tranh chấp có thể lựa chọn Tòa án Luật biển quốc tế
(ITLOS). Đây là một cơ quan tài phán được thành lập dựa trên cơ sở các quy
định của UNCLOS. Vì vậy, ITLOS có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
quốc tế liên quan đến việc áp dụng và giải thích các điều khoản của
UNCLOS. Mặc dù số vụ việc tranh chấp được đưa ra giải quyết tại ITLOS
không nhiều nhưng không thể phủ nhận vai trò của Tòa trong việc giải quyết
các tranh chấp quốc tế về khai thác và sử dụng biển. Thành phần, thẩm quyền
và cơ chế giải quyết tranh chấp của ITLOS sẽ được phân tích kỹ hơn trong
phần sau.
1.2.3.3. Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS
Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS là cơ quan
tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích hoặc
áp dụng các điều khoản của Công ước (Phụ lục VII Điều 1). Thông thường
Tòa trọng tài có năm thành viên (Phụ lục VII Điều 3). Các thành viên của Tòa
này được lựa chọn từ một danh sách do Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và
nắm giữ. Mỗi bên tranh chấp được quyền chỉ định không quá bốn trọng tài
trong danh sách đó (Phụ lục VII Điều 2). Trong giai đoạn đầu tiên, mỗi bên
lựa chọn một người trong danh sách mà mình đã chỉ định. Bên Nguyên cử
một thành viên trong bản danh sách các trọng tài viên và người đó có thể là
công dân của nước đó. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được thông
báo, bên Bị phải cử một thành viên của mình. Trong thời hạn 60 ngày kể từ
khi nhận được thông báo, ba thành viên còn lại được các bên thỏa thuận đề
16
cử, trên bản danh sách đã đưa ra, là công dân của quốc gia thứ ba. Chánh tòa
của Tòa trọng tài này được các bên thống nhất lựa chọn trong số ba thành viên
đó. Nếu không thỏa thuận được sự lựa chọn sẽ do một cá nhân hoặc một quốc
gia thứ ba mà hai bên thống nhất tiến hành (Phụ lục VII Điều 3 điểm d, e).
Nếu quá thời hạn kể trên mà các bên không thể thỏa thuận được việc cử
người, thì Chánh án Tòa án Luật biển quốc tế sẽ chỉ định vị trí đó.
Các quyết định của Tòa trọng tài được thông qua theo đa số các thành
viên của Tòa. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số thành
viên không cản trở Tòa ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau,
thì Chánh tòa sẽ quyết định. Quyết định của Tòa có tính chất chung thẩm và
bắt buộc các bên thực hiện.
1.2.3.4. Tòa trọng tài đặc biệt theo Phụ lục VIII UNCLOS
Tòa trọng tài đặc biệt được quy định tại Phụ lục VIII Công ước luật Biển
1982. Tòa trọng tài đặc biệt được lập ra với nhiệm vụ giải quyết các tranh
chấp trong từng lĩnh vực riêng biệt liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
các điều khoản của UNCLOS trong các lĩnh vực: việc đánh bắt hải sản;
nghiên cứu khoa học biển hoặc hàng hải; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển,
kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhấn chìm, v.v.
Thông thường Tòa cũng có 5 thành viên, nhưng thủ tục lựa chọn thành
viên của Tòa này có nhiều khác biệt so với Tòa trọng tài được thành lập theo
Phụ lục VII UNCLOS. Thành phần của Tòa được lựa chọn từ một danh sách
chuyên gia đặc biệt được xây dựng nên bởi các Tổ chức quốc tế đặc biệt có
trách nhiệm được liệt kê bởi Công ước. Mỗi lĩnh vực có một danh sách
chuyên gia riêng biệt. Đó là FAO (Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc)
đối với vụ việc liên quan đến đánh bắt hải sản; UNEP (Tổ chức Môi trường
quốc tế) trong trường hợp liên quan đến vấn đề bảo vệ và bảo tồn môi trường
biển; về nghiên cứu khoa học biển thì do IOC (Hội đồng Hải dương học liên
- Xem thêm -