Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chuyên đề thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty bảo việt hà...

Tài liệu Chuyên đề thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty bảo việt hà nội

.PDF
60
246
150

Mô tả:

Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở ra cơ hội kinh doanh, làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành "thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường. Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy nổ đã không còn xa lạ. Mấy năm gần đây Chính phủ và Bộ Tài chính đã đưa vào áp dụng chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Thực trạng khai thác bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu. -1- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành loại hình bảo hiểm mới mẻ này trong những năm vừa qua. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Hương và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm cháy nổ và rủi ro hỗn hợp thuộc Tổng Công ty Bảo Việt Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó. Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình của thầy giáo và các bạn đồng nghiệp. Sinh viên thực hiện Nguyễn Mạnh Cường -2- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp CHƯƠNG I GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ 1.1 Sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ: 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy: Trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, cũng như các hoạt động sản xuất, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được, một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vô cùng tốn kém và khó khăn, gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách quan nhằm san sẻ những rủi ro trong xã hội, sự san sẻ giữa con người với con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như sản xuất kinh doanh khi rủi ro ập đến. Quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những rủi ro, thảm họa xảy ra bất ngờ trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất. Nó thường mang tính chất thảm họa và khi xảy ra hậu quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ. Theo lịch sử để lại từ thời Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ thống phòng cháy hữu hiệu nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La Mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ cháy là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hỏa hoạn xảy ra thì thì thiệt hại từ cháy có thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội vên. Tuy nhiên khoản trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên theo kiểu này do các nhà buôn thành phô Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 -3- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp trong nhà thờ Saint Ptree. Nhưng thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem hỏa hoạn là rủi ro không thể tránh khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các bệnh dịch khác… Sự xuất hiện của bảo hiểm cháy nổ được đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luôn Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, lúc ngày người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó những nhà khinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hỏa hoạn như : Một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm cháy “ Fire Office ” (năm 1667) , năm 1684 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời là công ty “ Friendly Society ” sau đó hang loạt các công ty bảo hiểm khác đã ra đời: “ Hand and Hand ” năm 1696, “ Lom Bard House ” năm 1704… Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập là “ Company L’assurance Centree L’incendie” và “ Company Royade” và dần lan rộng sang các nước khác trên lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Ở Việt Nam trước năm 1945 đã có mộ t công ty BH cháy của Pháp hoạt động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro. Vì vậy BH nói chung và BH cháy nói riêng không có điều kiện phát triển. Phải đến tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự hạch toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm -4- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp về tài chính, về thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của Bộ Tài Chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ này mới chình thức được công ty Bảo Hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) triển khai và phát triển. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài Chính ban hành them một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 thay thế biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt buộc. Việc Chính Phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định về chế độ BH cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài Chính về quy tác và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên để Bảo Việt cũng như các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp vụ cháy. Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy với giá trị tham gia bảo hiểm lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 bảo hiểm cháy được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố, them nhiều công ty triển khai như : PJICO, PVI, Bảo Minh… với tổng giá trị bảo hiểm là gần 28.000 tỷ đồng. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng 16% so với năm 1999. Ngày càng có nhiều công ty tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn, gần đây có các công ty như: AAA, BIC… làm cho thị trường bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng và phong phú, tăng tính chất cạnh tranh từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm. Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn ngày được triển khai rộng khắp, mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp vụ này. Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế xã hội. -5- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1.1.2 Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc: Điều 8, Luật kinh doanh bảo hiểm có ghi rõ: “ …Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội”. Theo quy định này thì chỉ những thiệt hại gây hậu quả cho lợi ích của người khác hoặc của xã hội mới thuộc phạm vi bảo hiểm bắt buộc. Do đó loại bảo hiểm này chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Thực hiện bắt buộc loại bảo hiểm này giúp giải quyết tốt các tranh chấp khi xảy ra tai nạn làm thiệt hại cho người khác hoặc của Nhà nước. Nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập khi văn hóa khiếu nại sẽ là phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đã ban hành nghị định 130/CP-NĐ quy định các doanh nghiệp, cơ sở có nguy cơ cháy nổ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm cháy… Vì sao lại có quy định này khi mà đối tượng của bảo hiểm cháy nổ là tài sản riêng của một số cá nhân, đơn vị, và nếu họ không gây thiệt hại cho ai khác ngoài bản thân thì họ không phát sinh trách nhiệm gì với xã hội. Trên thực tế các nước chủ yếu áp dụng bảo hiểm cháy nổ dưới dạng tự nguyện, nhưng đối với những cơ sở kinh tế trọng điểm, tập trung như nhà máy điện, lọc dầu, ciment… thường áp dụng bảo hiểm bắt buộc. Bởi chẳng may gặp rủi ro và xảy ra tổn thất lớn sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc dân. Do đó tham gia bảo hiểm cháy nổ như một hình thức đảm bảo an toàn xã hội. Hiện nay, các quốc gia duy trì qui trình bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại khu vực Châu Á là Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở Hong Kong, Đài Loan, Philipin, Singapore không bắt buộc. Tại Việt Nam, tất cả các cơ sở được coi là có nguy cơ cháy nổ, như đã quy định tại Nghị định 35/NĐ-CP của Chính Phủ về PCCC, đều là đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Những đối tượng này tập trung vào bắt buộc nhóm lớn : -6- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B  Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nhóm có sản xuất, chế biến, vận chuyển, tang trữ, xuất nhập khí, chất nổ, khí đốt, xăng dầu…  Nhóm nhà máy điện, trạm biến áp từ 110KV trở lên.  Nhóm địa điểm công cộng, tập trung dân cư cao…( chợ, trung tâm thương mại, nhà tập thể, chung cư, rạp hát, rạp chiếu phim, nhà ga…). Vậy đối tượng của bảo hiểm cháy nổ không chỉ là những cơ sở có nguy cơ cháy nổ cao mà còn có khả năng gây thiệt hại mang tính thảm hỏa đối với xã hội. Chính từ đặc điểm này đã giải thích phần nào về ý nghĩa của sự bắt buộc trong bảo hiểm cháy nổ. Cháy xảy ra tại các cơ sở sản xuất vật liệu cháy nổ, tại các cơ sở khai thác chế biến dầu mỏ, hay kho vật liệu nổ… đều có khả năng cháy rộng và cháy lớn rất cao. Hơn nữa, do các cơ sở trên là những cơ sở có vai trò quan trọng hàng đầu với các nghành kinh tế, nên rủi ro xảy ra dẫn tới sự trì trệ không chỉ của riêng nghành đó mà còn có thể ảnh hưởng đến các nghành khác có liên quan. Do đó thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc xuất phát từ mục đích bảo hiểm vệ lợi ích công cộng và an toàn cho xã hội. Bởi vậy ngày nay với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cơ sở kinh doanh, trụ sở của các doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh, hơn nữa với tốc độ đô thị hóa cao mật độ nhà cửa, dân cư trên mỗi m2 ngày càng dày đặc. Theo số liệu thống kê mà Tổng cục thống kê công bố vào tháng 7 năm 2002, đến năm 1995 bình quân mỗi Km2 có 6,2 cơ sở kinh tế, năm 2002 là 8,8 cơ sở; đến nay con số này có thề là 11 cơ sở. Vì vậy, cháy nổ xảy ra sẽ là thảm họa chung của cả xã hội, không còn là vấn đề riêng của mỗi cá nhân doanh nghiệp. Thực hiện quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc sẽ mang lại rất nhiều lợi ích đối với nhà nước, với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng: -7- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Thứ nhất, đối với nhà nước và xã hội thực hiện cháy nổ bắt buộc tạo ra những lợi ích sau:  Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gián tiếp nâng cao tinh thần trách nhiệm phòng cháy chữa cháy trong xã hội. Trước khi tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, cơ sở và doanh nghiệp buộc phải sở hữu giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy. Do vậy, đây là cơ hội để chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc một lần nữa công tác PCCC.  Tăng thu ngân sách: Do doanh nghiệp bảo hiểm tăng doanh thu từ chi phí bảo hiểm cháy nổ, lợi nhuận tăng, kết quả là thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp nhiều hơn.  Bảo hộ nghành kinh tế bảo hiểm trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, tại Luật kinh doanh bảo hiểm bắt buộc phải xin phê duyệt của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính. Luật cũng quy định các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài được phép bán sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nói chung, chứ không nói rõ là trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có doanh nghiệp bảo hiểm nào trong khối này ( có vốn đầu tư nước ngoài ) được phép bán bảo hiểm bắt buộc. Như vậy, rõ rang qui định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước. Nó tạo ra sự giới hạn sân chơi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài trước thị trường bảo hiểm cháy nổ đầy hấp dẫn. Đây sẽ là bước đệm để tăng cường hơn nữa nội lực của các doanh nghiệp, tạo ra vị thế vững chắc cho các doanh nghiệp trước thời điểm hiệp đinh thương mại Việt- Mỹ và các cam -8- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp kết quốc tế, cam kết WTO về lĩnh vực bảo hiểm chính thức được dỡ bỏ.  Giảm chi ngân sách cho hoạt động chi PCCC. Để PCCC hàng năm, ngân sách nhà nước dành cho công tác này là khá lớn. Số tiền đó được chi cho các hoạt động như tuyên truyền, quảng bá về sự cần thiết của PCCC, hoặc tài trợ cho cơ quan PCCC thực hiện các dự án xây dựng các công trình như bể chứa nước ngầm, tăng cường trạm bơm công cộng…; tăng cường trang thiết bị cho lực lượng PCCC; đầu tư cho giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng về PCCC… Doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện bảo hiểm cháy nổ cho các đối tượng có nguy cơ cháy nổ, vì lợi ích của chính mình cũng sẽ thực hiện những biện pháp trên, phần nào đó đã giảm bớt gánh nặng cho nhà nước. Ngoài ra với nghĩa vụ phải trích một quỹ khá lớn cho các khoản chi PCCC, như vậy ngân sách dành cho công tác PCCC có thể cắt giảm…  Giảm nguy cơ cháy nổ, từ đó gián tiếp bảo hiểm vệ môi trường sống: Do nhà bảo hiểm có những chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn về quản trị rủi ro, nên khi tham gia bảo hiểm, các cơ sở và doanh nghiệp sẽ nhận được những ý kiến hữu ích nhất cho công tác PCCC. Để xảy ra tình trạng cháy sẽ gây tác hại không lường tới chủ doanh nghiệp, xã hội, và công ty bảo hiểm (do bồi thường). Do đó, vì ích lợi của chính mình, doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải chủ động trong công tác PCCC tại các cơ sở. Biện pháp mà các doanh nghiệp áp dụng ngoài tư vấn còn có cử cán bộ thường xuyên xuống cơ sở thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động… Hạn -9- Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp chế được số vụ cháy, nổ tức là hạn chế lượng khí độc hại CO2 thải ra môi trường, như vậy đã góp phần giảm bớt sự ô nhiễm.  Sự bắt buộc sẽ tạo ra một xã hội an toàn hơn, bởi tất cả các cơ sở doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, khi bị tổn thất sẽ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường đầy đủ, từ đó khôi phục nhanh chóng hoạt động của chính mình. Nếu không có bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, sẽ có rất nhiều người không nhận thức hết sự nghiêm trọng của vấn đề… Thứ hai: Ích lợi của sự bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy nổ đối với doanh nghiệp và cơ sở:  Tạo ra động lực mạnh hơn khi tham gia bảo hiểm. Vì bắt buộc, doanh nghiệp để tránh những phiền phức nhất định, sẽ đặt biệt chú ý đến việc tham gia bảo hiểm cháy nổ. Không có sự bắt buộc, chủ doanh nghiệp có thể vì những lý do khác nhau trì hoãn việc mua bảo hiểm …  Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, từ đó tạo ra sự minh bạch hơn nữa trong thực hiện bảo hiểm cháy nổ… Trước khi có nghị định 130/NĐ-CP, nghiệp vụ này đã được qui định bắt buộc tại Luật PCCC và Luật bảo hiểm, song các quy định và chế tài trong áp dụng còn rất sơ sài. Hiệu quả áp dụng không cao, do vậy sau văn bản quy phạm pháp luật này, hệ thống các văn bản về cháy nổ, bảo hiểm cháy nổ đã đầy đủ hơn, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho người tham gia. Có đầy đủ cơ sở cho khiếu kiện hơn… - 10 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp  Tạo điều kiện cho DN được tiếp cần với tất cả những tác dụng của bảo hiểm cháy, như đã trình bày… Thứ ba, đối với doanh nghiệp bảo hiểm  Tốc độ tăng doanh thu phí lớn hơn tốc độ tăng chi phí kinh doanh: Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm cần tới sự tham gia bảo hiểm của doanh nghiệp, cơ sở mà chính những đối tượng này, để tránh bọ phạt hành chính, tước giấy phép hoạt động… sẽ phải tìm tới các doanh nghiệp bảo hiểm… Như vậy, khách hàng tăng, trong khi chi phí cho khai thác có thể không tăng hoặc tăng không nhiều.  Sự bắt buộc tạo ra lợi thế hơn hẳn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được cấp phép kinh doanh bảo hiểm bắt buộc, trong khi đó thị trường bảo hiểm cháy nổ rất tiềm năng.  Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm, còn có các cơ quan hữu quan khác tham gia vào thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm cháy nổ, như công an, cơ quan PCCC, địa phương… Như vậy gánh nặng của doanh nghiệp bảo hiểm đã được chi nhỏ và san sẻ. 1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc: 1.2.1 Cơ sở pháp lý: Luật dân sự quy định chung về hoạt động bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm … đây cũng là cơ sở của hoạt động bảo hiểm cháy, nổ. - 11 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Luật phòng cháy chữa cháy có hiệu lực từ ngày 29/06/2001 tại điều 9 – Bảo hiểm cháy nổ quy định “Cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở nguy hiểm về cháy, nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở đó…” Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ngày 09/12/có quy định “ Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về phí bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm va doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng bởi một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm: a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với khách. b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật. c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. d) Bảo hiểm cháy nổ. Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tưng thời kỳ, Chính Phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.” ( Điều 8 – Luật Bảo hiểm)  Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 18/11/2006 quy định chi tiết thi hành chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo Luật PCCC và Luật kinh doanh Bảo hiểm. - 12 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp  Thông tư lien tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/04/2007 hướng dẫn chi tiết về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc trích lập kinh phí cho hoạt động PCCC và cơ chế quản lý, cấp phát, thanh toán quyết toán nguồn kinh phí này.  Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc và Biểu phí bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc. 1.2.2 Đối tượng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, tổ chức, và cá nhân có cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo qui định. Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định là bảo hiểm tài sản đối với các rủi ro về cháy, nổ của: a) Nhà, công trình kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo. b) Máy móc thiết bị. c) Hàng hóa, vật tư, tài sản khác. Những tài sản này chỉ thực sự được bảo hiểm hiểm khi giá trị của chúng tính được thành tiền và được ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. Bên cạnh đó Nhà Nước cũng khuyến khích các cơ quan, tổ chức và các cá nhân không thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định mua bảo hiểm cháy, nổ trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan. - 13 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1.2.3 Phạm vi bảo hiểm. Đơn bảo hiểm bồi thường cho thiệt hại của tài sản được bảo hiểm do hai rủi ro được bảo hiểm là Cháy và Nổ ( được định nghĩa trong Quy tắc bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc đính kèm ) gây ra. Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do một trong những nguyên nhân sau đây: a) Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên. b) Tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt. c) Tài sản chịu tác động của tác động của một quá trình xử lý có dung nhiệt. d) Sét đánh trực tiếp vào tài sản được bảo hiểm nhưng không gây Cháy, Nổ. e) Thiệt hại xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của thiết bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ quang điện hay rò điện do bất kỳ nguyên nhân nào, kể cả do sét đánh. f) Những thiệt hại do hành động cố ý gây cháy nổ của người được bảo hiểm nhằm mục đích đòi bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bảo hiểm. g) Những thiệt hại do cố ý vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa cháy để xảy ra cháy, nổ. h) Hàng hóa nhận ủy thác hay ký gửi trừ khi những hàng hóa đó được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và Người được bảo hiểm trả them phí bảo hiểm theo quy định. i) Nguyên liệu vũ khí hạt nhân gây cháy nổ. j) Tiền, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế, trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. - 14 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp k) Chất nổ, trừ khi được xác nhận là được bảo hiểm trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. l) Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá. m) Những thiệt hại do cháy, nổ cho bên thứ bắt buộc. n) Những thiệt hại đối với dữ liệu, phần mềm và các chương trình máy tính. o) Những thiệt hại do những biến cố chính trị, an ninh và trật tự an toàn xã hội gây ra. 1.2.4 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tối thiểu là giá trị tính thành tiền theo giá thị trường của tài sản phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Cần lưu ý là bên mua bảo hiểm liệt kê số tiền bảo hiểm riêng rẽ của từng hạng mục tài sản bảo hiểm và tính tổng cộng số tiền bảo hiểm hiểm (gọi là Tổng Số tiền bảo hiểm). Theo luật định, trong mọi trường hợp, trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm sẽ không vượt quá Số tiền bảo hiểm của từng hạng mục và tổng cộng sẽ không vượt quá Tổng số tiền bảo hiểm. Trường hợp không xác định được giá thị trường của tài sản thì số tiền bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc do các bên thỏa thuận. 1.2.5 Phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc là mức phí bảo hiểm được tính trên cơ sở 1 năm. Trường hợp thời gian bảo hiểm khác 1 năm, phí bảo hiểm được tính tương ứng theo tỷ lệ của thời gian bảo hiểm. - 15 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đối với số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị tối đa thì phí bảo hiểm được tính toán cụ thể như sau: a) Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa theo thông báo của bên mua bảo hiểm hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được thu trước 75% số phí bảo hiểm tính trên cơ sở giá trị tối đa này. b) Cuối thời hạn bảo hiểm, căn cứ các giá trị tối đa được thông báo doanh nghiệp bảo hiểm tính giá trị tài sản tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm trên cơ sở giá trị tối đa bình quân này. Nếu phí bảo hiểm được tính lại nhiều hơn phí bảo hiểm đã nộp thì bên mua bảo hiểm phải trả thêm cho doanh nghiệp bảo hiểm số phí còn thiếu. Nếu số phí bảo hiểm được tính lại này thấp hơn số phí bảo hiểm đã nộp thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả số chênh lệch cho bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, số phí bảo hiểm chính thức phải nộp không được thấp hơn 2/3 số phí bảo hiểm đã nộp. c) Nếu trong thời gian bảo hiểm đã có tổn thất dược doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân tính đến thời điểm xảy ra tổn thất thì số tiền bảo hiểm đã bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm này. 1.2.5 Giám định và bồi thường. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tổ chức được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền sẽ tiền hành giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chi phí giám định tổn thất do doanh nghiệp bảo hiểm chịu - 16 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trong trường hợp bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm không thống nhất về nguyên nhân và mức độ tổn thất thì có thế trưng cầu giám định độc lập. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc trưng cầu giám định viên độc lập thì một trong các bên được yêu cầu tòa án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi bên mua bảo hiểm cư trú chỉ định giám định viên độc lập. Kết luận của giám định viên độc lập có trị bắt buộc đôi với các bên. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền lựa chọn một trong các phương thức bồi thường dưới đây:  Sửa chữa tài sản bị thiệt hại  Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác  Trả tiền bồi thường 1.3 Quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau: - Khai thác - Giám định - Bồi thường - Hạn chế tổn thất Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu trình hoạt động của một nghiệp vụ. 1. Công tác khai thác bảo hiểm Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công - 17 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta 1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như: cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm cháy nổ. Qua đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm. Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm. Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác như: Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên doanh - 18 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $. Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng. 1.2 Đánh giá rủi ro Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm. Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo vệ...), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ (với đơn vị kinh doanh dịch vụ v), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp. Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng. - 19 - Nguyễn Mạnh Cường – BH47B Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó yêu cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù hợp. 1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm) Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy chứng nhận bảo hiểm cháy nổ bao gồm: - Số đơn bảo hiểm - Tên, địa chỉ người được bảo hiểm - Ngành sản xuất kinh doanh - Những rủi ro được bảo hiểm - Tài sản dược bảo hiểm - Tổng giá trị tài sản - Số tiền bảo hiểm - Chi phí dọn dẹp hiện trường - Mức miễn thường - Thời hạn bảo hiểm - Phí bảo hiểm cả năm Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó: - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất