Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chuyên đề thực tập mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng ngoại thương việt nam...

Tài liệu Chuyên đề thực tập mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng ngoại thương việt nam – chi nhánh thăng long”

.PDF
81
58833
132

Mô tả:

Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập LỜI MỞ ĐẦU Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nƣớc trong thời gian qua đã thu đƣợc những kết quả khả quan, tạo đƣợc niềm tin trong nhân dân cũng nhƣ các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nƣớc, hoạt động Ngân hàng đã có những bƣớc tiến đáng kể, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bƣớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, ngành ngân hàng vẫn còn những hạn chế. Một trong những hạn chế là vấn đề các ngân hàng chỉ trú trọng cho vay đối với các đối tƣợng khách hàng là doanh nghiệp mà chƣa quan tâm đến cho vay tiêu dùng cho đối tƣợng khách hàng cá nhân. Thị trƣờng cho vay tiêu dùng những năm gần đây rất phát triển, và trở thành thị trƣờng rất hấp dẫn đối với các ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, do hình thức vay tiêu dùng còn khá mới mẻ đối với ngƣời Việt Nam và các ngân hàng thƣơng mại nên còn nhiều bất cập. Nhận thấy đây là thị trƣờng tiềm năng trong tƣơng lai đối với các ngân hàng thƣơng mại và cũng xu hƣớng tất yếu khi xã hội ngày càng phát triển. Chính vì thế nên em đã chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long” làm chuyên đề thực tập. Lê Hoàng Vỹ 1 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Chuyên đề thực tập gồm có các phần: Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long. Chương 3: Các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long. Với đề tài này em hy vọng những lý luận và thực tiễn về cho vay tiêu dùng trong đề tài sẽ giúp ích cho những ngƣời quan tâm đến việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Lê Hoàng Vỹ 2 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS Trần Thị Thanh Tú đã giúp đỡ, định hƣớng cho em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo ở khoa Ngân hàng – Tài chính, trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân đã dạy dỗ đào tạo và giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trƣờng. Cám ơn ban lãnh đạo của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long cùng các anh chi công tác trong phòng Tín dụng và Quan hệ khách hàng đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập và tạo điều kiện để em thu thập các tài liệu liên quan. Hà Nội, ngày 5 tháng 3 năm 2008 Sinh viên : Lê Hoàng Vỹ Lê Hoàng Vỹ 3 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại và các hình thức cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm cơ bản về ngân hàng thƣơng mại 1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thƣơng mại đƣợc hiểu một cách tổng quát là một trung gian tài chính hoạt động trên lĩnh vực đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Thật vậy, Ngân hàng thƣơng mại là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò thủ quỹ của toàn xã hội. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần với chính phủ. Trong đó, đối với các doanh nghiệp, Ngân hàng thƣờng cung cấp các khoản tín dụng phục vụ cho nhu cầu mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ thì họ thƣờng sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng và các tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin hay lập kế hoạch tài chính, họ thƣờng đến Ngân hàng để đƣợc tƣ vấn. Hoạt động của Ngân hàng thƣơng mại bao gồm: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian tài chính. Các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau làm cho Ngân hàng ngày càng phát triển và tạo đƣợc uy tín trên thị trƣờng tài chính. Lê Hoàng Vỹ 4 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Hiện nay, Ngân hàng thƣơng mại đƣợc phân loại theo các hình thức: - Phân chia theo hình thức sở hữu: Gồm có ngân hàng sở hữu tƣ nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng sở hữu Nhà nƣớc và ngân hàng liên doanh. - Phân chia theo tính chất hoạt động: Gồm có ngân hàng hoạt động chuyên doanh và đa năng, ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng hoạt động theo hƣớng chuyên doanh là ngân hàng chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân ngân hàng. Ngân hàng hoạt động theo hƣớng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi loại dịch vụ ngân hàng cho mọi loại đối tƣợng. Ngân hàng hoạt động bán buôn là cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nƣớc, cho những doanh nghiệp lớn. Ngân hàng hoạt động bán lẻ cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ. - Phân chia theo cơ cấu tổ chức: Gồm có ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu ngân hàng, ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh. Ngân hàng sở hữu công ty là nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép ngân hàng đƣợc quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Ngân hàng thuộc sở hữu của công ty là các tập đoàn kinh tế thƣờng tổ chức thành lập các ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn. 1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thƣơng mại - Hoạt động kinh doanh ngoại hối: Đây là hoạt động đầu tiên mà ngân hàng thực hiện với nội dung là ngân hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và thu đƣợc lợi nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch vụ. Ngày nay, hoạt động này đã mở rộng ra rất nhiều các hình thức dịch vụ phong phú nhƣ: Mua bán, trao đổi, gửi Lê Hoàng Vỹ 5 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ nhƣ giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tƣơng lai. Các ngân hàng thƣơng mại tham gia giao dịch ngoại hối với hai mụch đích. Một là, ngân hàng cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và ngân hàng thu một khoản phí. Hai là, ngân hàng kinh doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi. - Hoạt động huy động vốn: Các Ngân hàng cũng giống nhƣ bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế để duy trì hoạt động và phát triền cần vốn. Nguồn vốn của Ngân hàng gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sử hữu và vốn uỷ thác đầu tƣ. Để thực hiện hoạt động này Ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo một khoản tiền gọi là tiền lãi. Việc huy động đƣợc càng nhiều vốn sẽ càng tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng kinh doanh do đó các Ngân hàng luôn tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí thấp và ổn định, đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ nhằm thu hút đƣợc nhiều vốn trong nền kinh tế. - Hoạt động sử dụng vốn: Đây là hoạt động Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động đƣợc để đầu tƣ hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài sản bằng cách đầu tƣ vào các giấy tờ có giá nhƣ trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty ... Các hoạt động đầu tƣ và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhƣng lại chứa đựng nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thƣờng rất thận trọng khi thực hiện hoạt động này. - Các hoạt động khác: Lê Hoàng Vỹ 6 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Các hoạt động ngân hàng khác có thể kể ra ở đây nhƣ là hoạt động bảo quản vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tƣ vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tƣ chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý… Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy, các ngân hàng hiện đại ngày nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng nguôn thu giảm bớt rủi ro. 1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.2.1. Khái niệm: Cho vay là hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng, giúp ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tƣ. Ngân hàng thƣơng mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, đời sống và cũng có thể cho các tổ chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh. Ta có thể tóm tắt lại rằng: “Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán”. Đối với phần lớn các ngân hàng thì khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/3 đến 1/2 thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động ngân hàng lại tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Lê Hoàng Vỹ 7 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập 1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại Để phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại thì có rất nhiều tiêu thức để phân loại nhƣ: Phân loại theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tƣợng vay, theo phƣơng thức vay, theo nguồn cho vay… Cụ thể là:  Phân loại theo thời gian thì ta có: cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm và cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm.  Phân loại theo tài sản đảm bảo: bao gồm có đảm bảo bằng uy tín khách hàng và có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Đảm bảo bằng uy tín khách hàng đối với khách hàng làm ăn thƣờng xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dƣa, hoặc món vay tƣơng đối nhỏ so với vốn của ngƣời vay… Đảm bảo bằng tài sản đối với khách hàng mới, đối với các khoản vay lớn đòi hỏi ngân hàng phải có phƣơng án để dự phòng khi khách hàng không thanh toán đƣợc nợ cho ngân hàng…  Phân loại theo mục đích sử dụng vốn: Bao gồm cho vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng.Cho vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh là ngân hàng cho các tổ chức, các doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án đầu tƣ, các phƣơng án sản xuất. Cho vay tiêu dùng là ngân hàng cho cá nhân hay hộ gia đình vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng nhƣ mua ôtô, mua nhà ở … Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây nhƣng đã tỏ rõ đƣợc ƣu thế của nó so với các khoản cho vay khác của Lê Hoàng Vỹ 8 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập ngân hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành một xu hƣớng tất yếu và là một thị trƣờng tiềm năng để các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trƣờng tài chính. 1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng 1.2.1.1. Khái niệm Hoạt động cho vay tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng( ngƣời cho vay) và các cá nhân, ngƣời tiêu dùng(ngƣời đi vay) nhằm tài trợ cho các phƣơng án phục vụ đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ khi ngƣời tiêu dùng chƣa có khả năng thanh toán trên nguyên tắc ngƣời tiêu dùng sẽ hoàn trả cả gốc và lãi tại một thời điểm xác định trong tƣơng lai. Nếu nhƣ cho vay sản xuất kinh doanh là hình thức tín dụng mà trong đó ngân hàng thƣơng mại cấp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm tài trợ cho các dự án đầu tƣ, phƣơng án sản xuất kinh doanh… thì cho vay tiêu dùng lại là một sản phẩm rất hữu ích nhằm tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hộ gia đình. Nhƣ vậy, khác với các khoản cho vay sản xuất kinh doanh thì các khoản cho vay tiêu dùng giúp ngƣời tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá dịch vụ trƣớc khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hƣớng tới cuộc sống cao hơn nhƣ mua xe, các dụng cụ dân dụng, chi phí nghỉ ngơi, du lịch… 1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng Cũng là một hình thức cho vay của ngân hàng dành cho cá nhân và hộ gia đình, cho vay tiêu dùng có đầy đủ đặc điểm chung của một hình thức cho vay nhƣ đối tƣợng cho vay, nguyên tắc cho vay, thu nhập từ các khoản vay và rủi ro từ các khoản vay. Ngoài ra cho vay tiêu dùng còn có các đặc điểm sau: - Quy mô món vay nhỏ Lê Hoàng Vỹ 9 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Ngƣời tiêu dùng luôn có sự tích luỹ từ trƣớc khi có ý định mua sắm các tài sản có giá trị lớn ( do tâm lý cũng nhƣ trong điều lệ cho vay của các ngân hàng thƣờng là ngƣời tiêu dùng phải có đủ vốn chủ sở hữu trƣớc khi vay vốn). Hơn nữa, giá cả hàng hoá dịch vụ tiêu dùng thƣờng không lớn so với quy mô vốn của một ngân hàng. - Rủi ro lớn Nguyên nhân các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao là vì: Thứ nhất, các khoản cho vay này có lãi suất cố định nên ngân hàng phải chịu rủi ro lãi suất khi chi phí huy động tăng lên. Thứ hai, đối tƣợng của cho vay tiêu dùng là cá nhân, hộ gia đình nên chất lƣợng các thông tin tài chính của khách hàng thƣờng không cao. Tƣ cách của khách hàng là một yếu tố rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay nhƣng lại rất khó xác định. Trong cho vay đối với hộ sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ đƣợc lấy từ kết quả kinh doanh, còn trong cho vay tiêu dùng thì nguồn trả nợ là thu nhập hoặc tài sản của ngƣời vay. Khả năng trả nợ thay đổi nhanh chóng khi ngƣời vay thay đổi điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ giảm sút, khả năng bù đắp trong trƣờng hợp rủi ro hầu nhƣ không có. Lý do là các cá nhân dễ dàng giữ kín các thông tin đáng ra phải trình bày( nhƣ triển vọng về công việc cũng nhƣ tình trạng sức khoẻ) hơn là hầu hết các hãng kinh doanh khác( vì các hãng kinh doanh này sẽ phải gửi kèm theo đơn xin vay mọi giấy tờ chứng nhận về tài chính đã đƣợc kiểm toán). Hơn nữa, cá nhân và hộ gia đình không thể dễ dàng vƣợt qua các khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh. Đấy là chƣa kể đến những trƣờng hợp ngƣời đi vay cố tình lừa đảo. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy thì dù có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì các Ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Lê Hoàng Vỹ 10 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập - Lãi suất cao Cho vay tiêu dùng là một khoản đem lại lợi nhuận rất cao cho các Ngân hàng với lãi suất “cứng nhắc” tức nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của Ngân hàng và có một khoản lãi cần thiết. Không nhƣ hầu hết các khoản cho vay kinh doanh, lãi suất cho vay thƣờng biến động theo điều kiện thị trƣờng, nhƣ vậy với cho vay tiêu dùng Ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thƣờng đƣợc định giá rất cao đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trƣờng lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Lý do chính khiến các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao nhất trong thang lãi suất cho vay của Ngân hàng đó là do chi phí và rủi ro của các khoản vay tiêu dùng là cao nhất trong các loại cho vay của Ngân hàng. Tất nhiên đây cũng không phải là lý do đặc biệt gì vì đó luôn là nguyên nhân chính làm cho giá cả của các khoản tín dụng Ngân hàng thông thƣờng tăng lên. Nguyên nhân có thể do: Đặc điểm về quy mô của món vay tiêu dùng thƣờng nhỏ, thời gian vay không kéo dài lâu trong khi số lƣợng các món vay tiêu dùng thƣờng lại rất lớn. Hơn nữa, thông tin về các cá nhân thƣờng không đầy đủ và chính xác hoàn toàn, tiêu dùng là hoạt động không mạng lại các lợi ích kinh tế cụ thể cho ngƣời tiêu dùng, không cho các con số cụ thể về thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn vay hay các nguồn thu nhập cụ thể cho ngƣời tiêu dùng nên gây khó khăn cho cán bộ tín dụng từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định các nguồn trả nợ Ngân hàng của các khách hàng vay vốn, giải ngân và thu nợ. Điều đó làm cho chi phí mỗi món vay Lê Hoàng Vỹ 11 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập cao và rủi ro các khoản vay này tăng lên so với các loại cho vay kinh doanh luôn có những con số cụ thể với chi phí và thu nhập rõ ràng từ các nguồn công khai. - Có tính nhạy cảm theo chu kỳ: Cho vay tiêu dùng thƣờng có tính nhạy cảm theo chu kỳ, nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi ngƣời dân cảm thấy lạc quan về tƣơng lai. Ngƣợc lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tƣởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc vay mƣợn từ Ngân hàng, và khi đó tình trạng chất lƣợng khách hàng cũng giảm khiến tỉ lệ khách hàng đƣợc vay vốn cũng giảm xuống. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn có một số đặc điểm nhƣ: Khi vay tiền, cá nhân ngƣời tiêu dùng thƣờng không quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất mặc dù chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hƣởng đến quy mô số tiền phải trả. Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của ngƣời tiêu dùng. Những ngƣời có thu nhập cao có xu hƣớng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà ngƣời chủ gia đình hay ngƣời tạo thu nhập chính có học vấn cao cũng vậy. Với họ, việc vay mƣợn là một công cụ để đạt đƣợc mức sống nhƣ mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ đƣợc dùng trong tình trạng khẩn cấp. - Lợi nhuận thu đƣợc từ các khoản cho vay tiêu dùng là rất đáng kể Tƣơng ứng với mức rủi ro cao nhƣ vậy thì các khoản tín dụng tiêu dùng có đƣợc một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Bên cạnh đó, số lƣợng các khoản vay tiêu dùng khá nhiều khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu dùng rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng sẽ Lê Hoàng Vỹ 12 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập khiến cho lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng nhƣ phạm vi về đối tƣợng khách hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nƣớc phát triển hiện nay, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các ngân hàng thƣơng mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng nhƣ quản lý ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc phát triển loại hình tín dụng này trong tƣơng lai. Tại các nƣớc đang phát triển, loại hình cho vay này cũng đang dần khẳng định đƣợc vai trò của mình, đem lại những lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của ngân hàng. 1.2.2. Đối tƣợng của cho vay tiêu dùng Do cho vay tiêu dùng là một hƣớng cho vay cụ thể của ngân hàng bán lẻ nên cách phân loại khách hàng cá nhân cũng tƣơng tự nhƣ cách phân loại khách hàng cá nhân theo nhóm thu nhập của ngân hàng bán lẻ. Cụ thể là khách hàng cá nhân của cho vay tiêu dùng cũng đƣợc chia làm ba nhóm nhƣ sau: - Nhóm thứ nhất: Những cá nhân có thu nhập cao Những đối tƣợng này thƣờng cần đến tín dụng với tƣ cách là những khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt vào những khoản đầu tƣ dài hạn. Mặc dù sự vay mƣợn nhằm mục đích tiêu dùng chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản mà họ đang sở hữu, song họ lại thƣờng xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với những món tiền lớn. Và chính vì lý do này mà các ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến nhóm khách hàng đi vay này. - Nhóm thứ hai: Những cá nhân có thu nhập trung bình: Lê Hoàng Vỹ 13 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Nhu cầu về tín dụng của nhóm này có xu hƣớng tăng trƣởng ngày càng mạnh. Việc mong muốn chi tiêu ngay lập tức các nguồn tài chính trong tƣơng lai hoặc việc không thể điều tiết nhu cầu của mình mà chạy theo những chi tiêu có tính chất phô trƣơng dẫn đến quá khả năng thu nhập là nguyên nhân có thể làm nảy sinh các nhu cầu về tín dụng của nhóm khách hàng này. - Nhóm thứ ba: Những ngƣời có thu nhập thấp Nhu cầu tín dụng của nhóm này thƣờng rất hạn chế do thu nhập của họ thƣờng không đủ để thoả mãn những nhu cầu chi tiêu đa dạng của họ. Tuy nhiên, những ngƣời này cũng có các mong muốn chi tiêu không khác mấy so với những ngƣời có thu nhập cao hơn. Vì vậy, nếu có những chính sách và biện pháp hợp lý thì cũng có thể hình thành đƣợc các món tín dụng hợp lý đến nhóm khách hàng này. Nhìn chung, nhu cầu về tín dụng của hai nhóm đầu là rất cao, thƣờng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng mức cầu tiều dùng cúa cá nhân. Vì lẽ đó, nhu cầu cho vay tiêu dùng chủ yếu đến từ những ngƣời có thu nhập trung bình và thu nhập cao, nhƣng không vì thế mà các nhà quản trị ngân hàng, các nhà kinh doanh lại bỏ ngỏ nhu cầu tín dụng tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp mà phải có những chính sách và sản phẩm phù hợp để phục vụ mọi nhu cầu của mọi nhóm đối tƣợng khách hàng. 1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng 1.2.3.1. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với khách hàng Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của ngƣời tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay tiêu dùng cũng chính là ngƣời tiêu dùng, đặc biệt là những ngƣời có thu nhập trung bình. Nhờ những khoản cho vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị Lê Hoàng Vỹ 14 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính hiện tại của họ không cho phép. Thực tế, đối với cá nhân và hộ gia đình thƣờng nảy sinh nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống. Ví dụ nhƣ nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm các phƣơng tiện nhƣ xe máy, ôtô, du lịch, học hành… Mặc dù những nhu cầu thiết yếu thì nhiều nhƣng của cải thì đƣợc tích luỹ theo thời gian, do vậy khả năng tài chính thƣờng bị giới hạn. Vì vậy ngƣời ta thƣờng mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt sau một khoản thời gian dài tích luỹ. Khi đó lợi ích cảm nhận đƣợc từ sự hƣởng thụ sẽ ít đi. Do vậy ngƣời tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán trong hiện tại và tƣơng lai. Điều này có nghĩa là ngƣời tiêu dùng sẽ tìm cách để hƣởng thụ trƣớc số tiền sẽ có trong tƣơng lai. Nếu ta phân tích theo khía cạnh tài chính thì việc mƣợn tiền trƣớc của ngân hàng để tiêu dùng đòi hỏi chúng ta phải trả lãi thực chất là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tƣơng lai về thời điểm hiện tại. Khi xuất hiện cho vay tiêu dùng, sức mua sắm của ngƣời dân sẽ tăng nhanh, do đó mang lại sức mua rất lớn cho thị trƣờng, tuy nhiên sự lựa chọn hàng hoá sẽ trở nên khắt khe hơn, cầu kỳ hơn, kỹ lƣỡng hơn, do đó cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn dẫn đến nhà sản xuất sẽ phải chú trọng vào chất lƣợng và luôn sản xuất ra những sản phẩm tốt hơn nữa để tung ra thị trƣờng, vì vậy ngƣời tiêu dùng sẽ đƣợc hƣởng những dịch vụ tốt nhất tƣơng ứng với đồng tiền mà mình bỏ ra. Cho vay tiêu dùng chính là một giải pháp, nhờ vay tiêu dùng mà ngƣời tiêu dùng đƣợc hƣởng các lợi ích trƣớc khi họ tích luỹ đủ tiền để mua sắm. Bên Lê Hoàng Vỹ 15 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập cạnh đó cho vay tiêu dùng còn đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa khi đáp ứng nhu cầu chi tiêu mang tính cấp bách nhƣ chi tiêu cho học hành, khám chữa bệnh… Nhƣ vậy, việc ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng sẽ mang lại cho ngƣời tiêu dùng những lợi ích tốt nhất. 1.2.3.2. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thƣơng mại Hiện nay, các ngân hàng thƣơng mại phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng nhƣ công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán… Do vậy, để thành công thì ngân hàng phải dựa vào khả năng xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. Nhƣ vậy để tăng tính cạch tranh của ngân hàng thƣơng mại thì cần phải phát triển một cách toàn diện hoạt động của ngân hàng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, trong đó cho vay tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lƣợc cạnh tranh của ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ là tăng thu nhập của ngân hàng, mở rộng và tăng cƣờng mối quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp, tăng cƣờng khả năng cạnh tranh cũng nhƣ tạo hình ảnh và thƣơng hiệu đối với công chúng. Với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay kiếm lời, các ngân hàng thƣơng mại song song với nỗ lực huy động vốn, phải khai thác thị trƣờng tín dụng một cách triệt để, nghĩa là tìm cách để đảm bảo khả năng đáp ứng và trên cơ sở đó thoả mãn tốt nhất các nhu cầu về tín dụng của nền kinh tế. Vì vậy, sẽ là sai lầm và thiếu sót nếu bỏ qua thị trƣờng khách hàng cá nhân. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng thƣơng mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng những khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô nhỏ và rủi ro vỡ nợ cao do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng thƣơng Lê Hoàng Vỹ 16 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập mại bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tiến hành cho vay thƣơng mại. Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các Ngân hàng phải hƣớng vào ngƣời tiêu dùng nhƣ là một khách hàng trung thành. Sau thế chiến thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình có mức tăng trƣởng nhanh nhất. Các Ngân hàng tiếp tục phát triển và trở thành tổ chức cấp tín dụng chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Nhƣ vậy, phát triển cho vay tiêu dùng là một biện pháp tốt để mở rộng thị trƣờng cho các ngân hàng thƣơng mại. Trong nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, khách hàng tiềm năng của Ngân hàng và sự đa dạng về nhu cầu là vô cùng lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng gần nhƣ là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của Ngân hàng khi tiến hành cho vay tiêu dùng. Thực tế, rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một Ngân hàng nếu họ không thấy đƣợc rằng mình có triển vọng vay lại Ngân hàng đó khi có nhu cầu. Vì vậy, các ngân hàng thƣơng mại cung cấp sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng cũng có nghĩa là sẽ mở rộng đƣợc quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho Ngân hàng. Đồng thời, phát triển cho vay tiêu dùng cũng chính là Ngân hàng thực hiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy Ngân hàng nâng cao đƣợc khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập và phân tán rủi ro cho Ngân hàng. Bên cạnh đó mục tiêu hoạt động của Ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận, trong khi đó cho vay tiêu dùng có giá trị của món vay nhỏ nhƣng số lƣợng món vay thì rất lớn nên có thể chia sẻ rủi ro, đồng thời lại đơn giản hơn rất nhiều so với cho vay đối với sản xuất mà lãi suất lại tƣơng đối cao. Do vậy việc mở rộng cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thƣơng mại là một hƣớng kinh doanh có hiệu quả và tƣơng đối an toàn. Lê Hoàng Vỹ 17 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Ngày nay các dịch vụ của Ngân hàng ngày càng đa dạng và cuộc cạnh tranh hết sức mạnh mẽ. Thực hiện phát triển cho vay tiêu dùng vừa mở rộng khách hàng vay, tăng quan hệ giao dịch của Ngân hàng với khách hàng để hình ảnh của Ngân hàng ngày càng đậm nét trên thị trƣờng. Với những lợi ích trên, phát triển cho vay tiêu dùng là hƣớng đi rất đúng đắn của các ngân hàng thƣơng mại. 1.2.3.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nhà sản xuất Lợi ích của nhà sản xuất là cùng với sự gia tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của ngƣời tiêu dùng, là gia tăng cầu về hàng hoá dịch vụ, qua đó làm tăng quy mô thị trƣờng về hàng hoá dịch vụ. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ bán đƣợc nhiều hàng hóa hơn, cũng nhƣ đẩy nhanh đƣợc quá trình bán hàng, tăng vòng quay hàng tồn kho, giảm các khoản phải thu, từ đó làm tăng thu nhập và tăng độ an toàn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó cho vay tiêu dùng cũng tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa các nhà sản xuất cả về số lƣợng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.2.3.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế Cho vay tiêu dùng là đòn bẩy hữu hiệu cho việc kích cầu. Thị trƣờng cho vay tiêu dùng đã góp phần tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nƣớc, từ đó tăng GĐP cho nền kinh tế. Cùng với nó là hàng loạt các vấn đề xã hội đƣợc giải quyết nhƣ tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời dân, giúp họ cải thiện mức sống, giảm tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi… và làm tăng tiết kiệm quốc gia. Tuy nhiên cần phải đặc biệt chú ý tới tác dụng phụ của tăng cầu, đó là khi xảy ra lạm phát mà lại tăng cầu thì đó là một điều không tốt và sẽ làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Lê Hoàng Vỹ 18 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Tóm lại, hoạt động cho vay tiêu dùng ra đời là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Có thể nói phát triển cho vay tiêu dùng là một hƣớng đi vô cùng đúng đắn đối với các ngân hàng thƣơng mại trong điều kiện hiện nay. 1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng Để phân loại cho vay tiêu dùng đƣợc lựa chọn trên nhiều tiêu thức khác nhau. Cụ thể là ta có thể phân loại dựa vào: - Cắn cứ vào mục đích vay: Căn cứ vào mục đích vay thì cho vay tiêu dùng bao gồm:  Cho vay tiêu dùng cƣ trú( Residential Mortgage Loan): Đây là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.  Cho vay tiêu dùng phi cƣ trú( Nonresidential Loan): Cho vay tiêu dùng phi cƣ trú là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí về mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch, chữa bệnh… - Căn cứ theo phương thức hoàn trả:  Cho vay tiêu dùng trả góp( Installment Consumer Loan): Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó ngƣời đi vay trả nợ( gồm cả số tiền gốc lẫn lãi) cho ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phƣơng thức này đƣợc áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng thời kỳ của ngƣời đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thƣờng chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau: + Thứ nhất: Loại tài sản đƣợc tài trợ. Lê Hoàng Vỹ 19 Lớp TCDN 46Q Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập Thông thƣờng thiện chí trả nợ của ngƣời đi vay sẽ cao hơn nếu tài sản hình thành từ tiền vay đáp ứng đƣợc nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tƣơng lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thƣờng chú ý đến điều này vì ngân hàng thƣờng chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Bởi vì, có nhƣ vậy thì ngƣời tiêu dùng mới đƣợc hƣởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoảng thời gian dài. + Thứ hai: Số tiền phải trả trƣớc Nói chung thì các ngân hàng thƣờng yêu cầu ngƣời đi vay phải thanh toán trƣớc một phần giá trị tài sản cần mua sắm( số tiền này đƣợc gọi là số tiền trả trƣớc). Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trƣớc cần phải đủ lớn để một mặt làm cho ngƣời đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt khác lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận đƣợc rằng mình là chủ sở hữu của tài sản đƣợc hình thành từ tiền vay thì ngƣời đi vay sẽ có thái độ miễn cƣỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trƣờng hợp, ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mại tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều đã bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trƣờng nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trƣớc có vai trò rất quan trọng trong việc giúp ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trƣớc thƣờng phụ thuộc vào các yếu tố sau:  Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trƣớc nhiều và ngƣợc lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trƣớc ít.  Thị trƣờng tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.  Môi trƣờng kinh tế. Lê Hoàng Vỹ 20 Lớp TCDN 46Q
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất