A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................2
B. NỘI DUNG.....................................................................................................4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
VIỆT NAM..........................................................................................................4
1.1. Một số khái niệm......................................................................................4
1.1.1. Khái niệm chiến tranh, chiến tranh nhân dân......................................4
1.1.2. Khái niệm chiến tranh nhân dân Việt Nam..........................................5
1.2. Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân Việt Nam....................6
1.3. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam......................................7
1.4. Vai trò, tác dụng của chiến tranh nhân dân Việt Nam..........................8
CHƯƠNG 2. HỒ CHÍ MINH VỚI QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1945 – 1954)......................................................................................................10
2.1. Người tìm mọi cách để hóa giải chiến tranh, tích cực chuẩn bị cho
cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi........................................................10
2.2. Đề ra đường lối kháng chiến: Toàn dân – Toàn diện – Trường kỳ và
tự lực cánh sinh..............................................................................................13
2.3. Bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi..........15
2.4. Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ tổ chức thực
hiện đường lối chỉ đạo thực tiễn chiến tranh...............................................17
2.5. Tạo điều kiện và cổ vũ động viên các tầng lớp nhân dân tham gia
kháng chiến với mọi khả năng của mình.....................................................21
CHƯƠNG 3. PHÁT HUY SỨC MẠNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
VIỆT NAM ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI ĐẠI
MỚI....................................................................................................................23
3.1. Phát huy những điểm mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.....23
3.2. Tăng cường sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã
hội Chủ nghĩa.................................................................................................24
C. KẾT LUẬN...................................................................................................27
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................29
1
A. MỞ ĐẦU
Dân tộc ta đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm từ lâu. Trải qua hơn hai
nghìn năm, nhất là từ mươi thế kỷ trở lại đây, dân tộc ta đã đánh thắng nhiều
đạo quân xâm lược lớn mạnh, từng bước xây dựng nên lý luận quân sự độc đáo
lấy nhỏ thắng lớn của Việt Nam.
Dưới các triều đại phong kiến, kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần, nhưng
đều cùng một chế độ, một phương thức sản xuất phong kiến, kinh tế nông
nghiệp lạc hậu. Đến thế kỷ XIX, nước ta vẫn là nước phong kiến nhưng kẻ thù
xâm lược đã hoàn toàn khác trước. Chúng là bọn đế quốc với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, có nền kinh tế công nghiệp phát triển, có quân đội nhà
nghề được trang bị bằng vũ khí hiện đại. Nhân dân ta ở nhiều dịa phương do các
sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã anh dũng, bền bỉ đứng lên chống giặc, nhung đều
bị thất bại. Công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta gặp bế tắc về
đường lối chính trị, dẫn đến bế tắc cả đường lối quân sự. Chính trong bối cảnh
ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chiến tranh nhân dân là chiến tranh phải dựa vào dân, mục tiêu là giải phóng
nhân dân lao động, thực sự đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
Người dân chiến đấu vì lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, đồng thời cũng là vì
lợi ích của chính mình. Đó là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa
thực sự vì dân và do toàn dân tiến hành. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh
đạo cuộc chiến tranh nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng. Với sự say mê, hứng
thú và muốn tìm hiểu sâu hơn về chiến tranh nhân dân, cá nhân đã chọn đề tài:
Hồ Chí Minh với vấn đề chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống
2
Pháp (1945 – 1954) để làm bài cuối kỳ cho chuyên đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về quân sự.
Bố cục gồm có ba phần như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Chương 2. Hồ Chí Minh với quá trình tiến hành chiến tranh nhân dân trong
cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954).
Chương 3. Phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong thời đại mới.
3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm chiến tranh, chiến tranh nhân dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chiến tranh là hiện tượng xã hội –
chính trị được thể hiện chủ yếu bằng đấu tranh vũ trang giữa các bên trong một
nước hoặc giữa các nước, nhằm đạt tới mục đích kinh tế, chính trị nhất định... là
sản phẩm của xã hội có giai cấp đối kháng. Mỗi cuộc chiến tranh, xét về bản
chất xã hội đều là sự tiếp tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Tùy theo tình hình
cụ thể, chiến tranh có những tên gọi khác nhau, như chiến tranh nhân dân, chiến
tranh du kích, chiến tranh giải phóng, chiến tranh đế quốc, chiến tranh phá hoại
v.v... nhưng xét về bản chất chỉ có hai loại chiến tranh là chiến tranh chính nghĩa
và chiến tranh phi nghĩa.
Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh tự vệ chính đáng, được lòng dân và có
thể được nhân dân tự nguyện tham gia bằng mọi hình thức như chiến tranh giải
phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chiến tranh cách mạng.
Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh mất lòng dân, không được nhân dân đồng
tình, ủng hộ, thậm chí còn phản đối, đó là chiến tranh xâm lược, chiến tranh
phản cách mạng, phản tiến bộ.
Chiến tranh nhân dân chính là chiến tranh chính nghĩa do quần chúng nhân dân
tiến hành, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của giai cấp
tiến bộ, bằng mọi lực lượng, mọi hình thức, mọi thứ vũ khí có trong tay, vì lợi
ích của nhân dân chống ách áp bức thống trị bên trong hoặc sự xâm lược của
nước ngoài.
4
Mục đích chính trị của chiến tranh nhân dân càng triệt để thì lực lượng tham gia
càng đông đảo, mạnh mẽ. Chiến tranh nhân dân đã xuất hiện từ lâu, nó khác với
chiến tranh chỉ do quân đội tiến hành.
Sức mạnh của chiến tranh nhân dân tạo điều kiện cho các nước nhỏ có thể đánh
thắng các quân đội xâm lược.
1.1.2. Khái niệm chiến tranh nhân dân Việt Nam
Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa, chiến tranh nhân dân Việt
Nam là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt
Nam tiến hành trong tiến trình lịch sử dân tộc mà tiêu biểu là hai cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945 - 1954) và kháng chiến chống Mĩ (1954 - 7195). Ở Việt
Nam, truyền thống tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân để giải phóng
dân tộc và bảo vệ đất nước đã có từ lâu. Các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 43), khởi nghĩa Lý Bí (542 - 544), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa
Phùng Hưng (767 - 791)... đều là các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân.
Các cuộc chiến tranh trong các đời Trần, Lê… đều là các cuộc chiến tranh nhân
dân do giai cấp phong kiến lãnh đạo. Cuộc chiến tranh do Nguyễn Huệ lãnh đạo,
lúc đầu là một cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân nhằm lật đổ bọn phong
kiến thối nát trong nước, về sau là một cuộc chiến tranh nhân dân chống lại xâm
lược của nhà Thanh (Trung Quốc). Các cuộc chiến tranh nhân dân trong các thời
đại trước đều có những hạn chế của điều kiện lịch sử, phản ánh trong mục đích
của chiến tranh, trong lực lượng lãnh đạo và phương thức tiến hành chiến tranh
cũng như trong nhiều mặt khác. Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
(3.2.1930), chiến tranh nhân dân Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo, là
một cuộc chiến tranh vì dân và do dân với đầy đủ ý nghĩa nhất của nó trong thời
đại mới.
5
1.2. Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân Việt Nam
Về mục đích, chiến tranh nhân dân Việt Nam là nhằm Nhằm “Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia
trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị vàm ôi trường hoà bình,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mục đích chính trị của chiến tranh nhân dân là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc để đưa cách mạng
Việt Nam tiến lên. Độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam là tình cảm và cũng là
lợi ích thiết thực cho mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Vì thế hơn ai hết, nhân
dân ta hiểu rõ hạnh phúc của người dân độc lập và nỗi nhục của kẻ mất tự do.
“không có gì quý hơn độc lập tự do”, câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh đã trở
thành một chân lý lớn. Mục đích chính trị của chiến tranh nhân dân càng phản
ánh đầy đủ càng phản ảnh đầy đủ những mục tiêu của cách mạng do Đảng đề ra
thì càng động viên được những lực lượng đông đảo nhất, to lớn nhất tham gia
kháng chiến. Chính hai cuộc kháng chiến thần thánh đó đã nói lên tất cả.
Đối tượng tác chiến: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động có hành động
phá hoại, xâm lược lật đổ cách mạng, hiện nay chúng thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự can thiệp khi có thời
cơ.
Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lược nước ta là: Thực hiện đánh
nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động
bạo loạn lật đổ từ bên trong, đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để
lừa bịp dư luận.
6
1.3. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam
Chiến tranh nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt nhất định.
Trước hết là cuộc chiến tranh chính nghĩa vì lợi ích của nhân dân, mục tiêu cơ
bản là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, xóa bỏ mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ
nghĩa. Đó là thể hiện nguyện vọng của nhân dân bảo vệ độc lập chủ quyền quốc
gia, tiến bộ xã hội, chống ách đô hộ thống trị của nước ngoài, chống việc xóa bỏ
bản sắc dân tộc, đồng hóa và thôn tính đất đai, chống ách áp bức bóc lột, vơ vét
của cải và những hành động tàn bạo đối với nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, chiến tranh nhân dân Việt Nam dựa vào lực lượng của toàn dân đã
được giác ngộ sâu sắc về nhiệm vụ cách mạng, về mục đích chính trị của chiến
tranh, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà nòng cốt là liên
minh công nông. Do đó đã xây dựng được lực lượng chính trị quần chúng hùng
hậu và lực lượng vũ trang nhân dân rộng rãi và vững mạnh. Là cuộc chiến tranh
toàn dân, toàn diện. Thực hiện toàn dân đánh giặc. Lực lượng vũ trang nhân dân
gồm 3 thứ quân làm nòng cốt, quân chủ lực, quân địa phương, tự vệ vũ trang và
dân quân.
Đánh giặc toàn diện trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, ngoại
giao, quân sự - an ninh…; đánh bằng tất cả phương tiện, vũ khí huy động được.
Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, các mặt trận, các phương tiện để đánh giặc. Đó
là cuộc chiến tranh “của dân, do dân, vì dân”. Cuộc chiến tranh này phải dựa
vào sức mạnh của toàn dân, phải động viên, phát huy cao độ sức mạnh vật chất
và tinh thần của toàn dân trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt
mới có thể giành được thắng lợi trước cuộc tiến công của kẻ thù hung bạo.
7
Thứ ba, chiến tranh nhân dân Việt Nam dựa vào tiềm lực của nhân dân,
đất nước đang xây dựng chế độ xã hội mới đồng thời còn dựa vào sự giúp đỡ, cổ
vũ của lực lượng cách mạng và tiến bộ thế giới. tạo thành sức mạnh tổng hợp để
đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
Thứ tư, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân phong phú, sáng tạo,
đã phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh giặc một cách toàn diện, khắp
nơi, với mọi hình thức tổ chức và đấu tranh thích hợp. Phương thức tiến hành
chiến tranh nhân dân đó khiến địch đông mà hoá thiếu, có sức mạnh lớn mà
không phát huy được tác dụng, có sở trường mà không thi thố được, lại bị sa lầy
trong biển lửa của toàn dân, lúng túng và bị động trong một kiểu chiến tranh
không rõ đâu là tiền tuyến đâu là hậu phương, một kiểu chiến tranh xen kẽ triệt
để.
Bốn đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam là những căn cứ để xây
dựng các bước chiến lược và phát triển chiến thuật của chiến tranh nhân dân cho
phù hợp với tình hình ở chiến trường.
1.4. Vai trò, tác dụng của chiến tranh nhân dân Việt Nam
Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã khoét sâu những mâu thuẫn cố hữu của bất
cứ một đội quân xâm lược nào; đó là các mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung,
giữa phòng ngự và tiến công, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài làm cho lực
lượng và phương tiện của đối phương ngày càng bị hao mòn, ý chí xâm lược
ngày càng sa sút.
Chiến tranh nhân dân sẽ làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch và
có lợi cho ta, vì ta có tiềm lực to lớn của nhân dân đóng góp cho chiến tranh đó
là con người và của cải vật chất. Là đấu tranh hòa bình chống lại các cuộc hành
quân càn quét, cướp của, giết người, bắt lính bắt phu và những chính sách phản
dân hại nước của chúng. Lên án hành động tội ác, đấu tranh làm giảm bớt tính
hung hăng tàn bạo của địch, làm giảm sút uy tín của địch trên trường quốc tế đi
8
tới cô lập địch. Bên cạnh góp nhân lực cho chiến tranh nhân dân còn góp vật
lực, ủng hộ, giúp đỡ và bảo vệ lực lượng ta lớn mạnh đủ sức là chủ chiến trường
Sức mạnh của chiến tranh nhân dân đã chứng tỏ: sau thất bại ở Điện Biên Phủ
năm 1954, Pháp phải rút khỏi Miền Bắc Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam được
giải phóng đến vĩ tuyến 17, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Mĩ thay Pháp
thống trị Miền Nam Việt Nam. Nhân dân Việt Nam ở cả hai miền tiếp tục chiến
đấu buộc Mĩ phải rút khỏi Việt Nam năm 1973 và tháng 4.1975 đánh bại quân
nguỵ, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Lí luận và thực tiễn chiến tranh nhân dân Việt Nam là một cống hiến quan
trọng đối với phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng của nhân dân và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới.
9
CHƯƠNG 2. HỒ CHÍ MINH VỚI QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1945 – 1954)
2.1. Người tìm mọi cách để hóa giải chiến tranh, tích cực chuẩn bị cho cuộc
chiến tranh không thể tránh khỏi
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành
lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất
nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước
ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực
lượng tay sai phản động trong hai tổ chức “Việt quốc” (Việt Nam quốc dân
Đảng) và “Việt cách” (Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam,
quân Tưởng Giới Thạch còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá
tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay
sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông
Dương dưới chế độ “uỷ trị”, một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của
Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải
giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông
Dương. Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân
Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Lúc
10
này, các tổ chức phản động “Việt quốc”, “Việt cách”, Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi
theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời
và các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền
phản động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có
mặt nhiều thù trong, giặc ngoài như lúc này.
Như vậy, vào lúc này nước ta đang đứng trước vô vàn những thử thách, chính
quyền non trẻ của ta đứng trước thách thức nghiệt ngã của lịch sử, vận mệnh
nước nhà “ngàn cân treo sợi tóc” Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận trách nhiệm nặng
nề ấy trước nhân dân: “Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế
nào để đưa chiếc thuyền tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió mà an toàn là bờ
bến hạnh phúc của nhân dân”1.
Đứng trước tình hình như vậy, chính quyền mới thành lập chưa được nước nào
công nhận mà các thế lực xâm lược đang tiến vào nước ta ngay một nhiều. Chủ
tịch Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh xảy ra, nên người đã tìm mọi cách để
hòa hoãn tìm giải pháp giải quyết bằng thương lượng hòa bình. Trước hết là
bằng việc ký hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946. Vì Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ
rằng cả Pháp và Tưởng đều muốn chấm dứt xung đột. Nếu ta không đi đến thỏa
thuận với Pháp thì chúng sẽ dàn xếp với nhau. Khi đó, cuộc xung đột sẽ diễn ra,
không phải giữ quân Pháp với quân Tưởng mà là giữa quân Pháp với bộ đội và
nhân dân ta. Tiếp đến là Người đã xúc tiến những cuộc gặp gỡ với người đại
diện của nước Pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng, trong đó cuộc gặp
tại Pari giữa đại diện của Chính phủ hai nước nhằm ký một hiệp định chính
thức.
1. Phạm Đức Quí (2001), Bí mật về sức mạnh huyền thoại của chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Mũi Cà
Mau
11
Ngoài ra ở những nơi Người ghé qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh tận dụng mọi cơ
hội để bày tỏ thiện cảm của nhân dân ta đối với nước chủ nhà, đồng thời làm
cho họ thấy được cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta và thiện ý của
nước ta đối với nước Pháp.
Cuộc đàm phán tại Phôngtennơblô vẫn bế tắc, vẫn dẫm chân tại chỗ do thái dộ
ngoan cố của phe thực dân. Trước tình hình hình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với
Pháp bản Tạm ước Việt – Pháp 14/9/1946. Bản Tạm ước quy định hai bên đình
chỉ xung đột, phía Pháp bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam
Bộ..v.v. Đến tháng 12/1946 sau khi phát lời Tổng khởi nghĩa, lúc nay chiến
tranh đã bung nổ nhưng vẫn kiên trì tìm kiếm khả năng cứu vãn hòa bình. Từ
sau ngày 19/12/1946 đến tháng 3/1947, Người đã hơn 10 lần gửi thư kêu gọi
Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp hãy tìm mọi cách để chấm dứt cuộc
chiến tranh không co lợi cho chính nước Pháp. Người phân tích: “Nếu không
chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước.
Nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn
sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và sẽ biến hẳn khỏi
cõi Á châu”2. Nhưng thực dân Pháp đã khước từ mọi đàm phán vì chúng biết
cuộc chiến tranh xâm lược này không phải chỉ giữ lấy Đông Dương mà còn bảo
vệ cả hệ thống thuộc địa của chúng. Thái độ ngoan cố, thiếu hiểu biết đó của
bọn thực dân phản động Pháp đã cắt đứt mọi khả năng vãn hồi hòa bình. Nhân
dân ta chỉ có một con đường như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định là phải
đánh, “đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất
thật sự”.
Ngay tư những ngày đầu ký với Pháp hiệp định Sơ bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lường trước được nhân dân ta không thể tránh khỏi được cuộc chiến này.
Chúng ta hòa để mà tiến, hòa để tránh tình trạng bất lợi phải cô lập chiến đấu
2 Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 5, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 19.
12
cùng một lúc nhiều thế lực phản động. Cần bảo toàn lực lượng, giành lấy giây
phút nghỉ nghơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng,
bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào. Cái gì đến rồi cũng đến,
chúng ta bước vào cuộc chiến đấu chống Pháp trong một tương quan lực lượng
chênh lệch, nói riêng “về trình độ tổ chức, trang bị kỹ thuật, thì đây là một
khoảng cách có tính thời đại”3.
Vì vậy, trong buổi đầu kháng chiến, lịch sử đã dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh
một vai trò và trách nhiệm vô cùng nặng nề và khó khăn. “Người lãnh đạo toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên
những trang sử vàng vẻ vang nhất của Tổ quốc ta”4
2.2. Đề ra đường lối kháng chiến: Toàn dân – Toàn diện – Trường kỳ và tự
lực cánh sinh
Khi mà khả năng hòa hoãn không còn nữa, chúng ta chỉ còn cách là cầm vũ khí
đứng lên đánh giặc, với tinh thần yêu nước quật cường. Tinh thần đó lại càng
nồng nàn, sôi nổi mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nhưng để khơi dậy được tinh
thần ấy của một dân tộc, làm cho dân tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh
vũ trang trước một kẻ thù mạnh hơn mình về vũ khí thì là điều không đơn giản.
Để chuẩn bị cho kháng chiến, trước hết phải xây dựng cho toàn dân quyết tâm
chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Không quân đội nào,không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần
hy sinh của toàn thể một dân tộc”5. Người yêu cầu cán bộ phải có và phải làm
cho dân ta có ý chí quyết chiến và niềm tin quyết thắng, nhân tố tinh thần tiên
quyết để bước vào kháng chiến chống chọi với quân thù.
3. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội Nhân dân – Thanh niên, Hà Nội, tr. 35.
4. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 12, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 516.
5. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 4, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 77.
13
Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc với kết hợp bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để tìm ra lời giải chính xác cho
câu hỏi cách mạng nước ta kháng chiến theo đường lối nào. Đó chính là đường
lối chiến tranh nhân dân toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến với
phương châm lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến, Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”6.
Trước hết để kháng chiến toàn dân, Người kêu gọi: “Mỗi công dân là mỗi chiến
sĩ. Mỗi làng là mỗi chiến hào”7. Chiến tranh nhân dân sẽ đưa kẻ thù vào “thiên
la địa võng”, không có sự phân biệt giữa tiền tuyến và hậu phương, trước mặt,
sau lưng, bất cứ ở đâu và lúc nào chúng cũng có thể bị tấn công và tiêu diệt.
Toàn dân kháng chiến, theo Hồ Chí Minh là toàn cả dân , ai cũng đánh giặc. Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ ai cũng tham gia kháng chiến.
Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất
nước thì ai cũng phải làm nô lệ.
Kháng chiến toàn dân sẽ dẫn đến kháng chiến toàn diện. Cuộc chiến đấu chống
kẻ thù sẽ diễn ra trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, địch
vận, ngoại giao,... Người đề ra khẩu hiệu: vừa diệt giặc đói, giặc dốt vừa diệt
giặc ngoại xâm; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa chi viện cho tiền tuyến,
vừa củng cố cho hậu phương. Người ra lời kêu gọi thi đua ái quốc: “Mỗi người
dân Việt Nam, bất kỳ già tre, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải
trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa.
6. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 4, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 480.
7. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 5, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 151.
14
Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”8.
Đánh lâu dài là một quy luật tất yếu để có thời gian chuyển hóa từ yếu thành
mạnh, từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ phòng ngự, cầm cự sang tổng phản công.
Kháng chiến trường kỳ, nhưng không có nghĩa là phải kéo dài vô thời hạn, mà
phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển lực lượng ta,
càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm mưu chiến lược của
địch, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong hoàn
ảnh đó, phải sáng tạo ra thời cơ để giành thắng lợi càng sớm càng tốt.
Ta bắt đầu kháng chiến trong hoàn ảnh bị cô lập giữa vòng vây của chủ nghĩa đế
quốc nên phải dựa vào sức mình là chính. Người nói: “Cố nhiên, sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong
chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập 9”. Muốn thắng kẻ địch mạnh
hơn ta, phải có phương châm chiến lược đúng, lại còn phải có cách đánh sáng
tạo, kiềm chế được cái mạnh của địch, phát huy được lợi thế của ta. Phương
pháp của Người là lấy “nhu” để thắng “cương”.
Tóm lại, đường lối, phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
dựa vào sức mình là chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối phát huy sức
mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân, nên nhờ đó càng đánh ta càng
mạnh, càng đánh ta càng thắng. Đó là một đường lối đúng đắn và sáng tạo.
Đường lối đó được đồng chí Trường Chinh phát triển và cụ thể hóa trong tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi, một tác phẩm lý luận quan trọng của
Đảng ta, đã cùng tư tưởng Hồ Chí Minh đưa kháng chiến đến thắng lợi.
8. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 5, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 444.
9. Hồ Chí Minh : Toàn tập (2002), Tập 6, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 522.
15
2.3. Bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi
Để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm
lo giải quyết những vấn đề về xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, rèn
luyện tư tưởng, đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Người đã
không ngừng chăm lo giáo dục rèn luyện Đảng ta thành một Đảng mácxít –
lêninnít đoàn kết thống nhất. Chính vù vậy mà Người đã viết hai tác phẩm “Đời
sống mới” và Sửa đổi lối làm việc” để giáo dục cán bộ, đảng viên.
Sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân chỉ có thể phát huy được đầy đủ
khi xây dựng được một lực lượng vũ trang với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương và dân quân du kích. Bởi vì như Lênin đã nói, “trong một cuộc
chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang
đổ máu ở chiến trường”, tức là tùy thuộc vào lực lượng vũ trang của các bên
tham chiến. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không lúc nào ngừng chăm lo tổ chức và xây dựng Quân đội ta trở thành một
quân đội anh hùng. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục chính trị và tư tưởng
cho bộ đội, làm cho cán bộ và chiến sĩ nắm vững nguồn gốc, bản chất, mục tiêu
chiến đấu của Quân đội ta.
Đi đôi với bồi dưỡng chính trị, Người còn nhắc nhở các lực lượng vũ trang ra
sức rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, thể lực để nâng cao trình độ tác chiến. Không
chỉ tập trung xây dựng lực lượng chính quy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất xem
trọng vai trò chiến lược của chiến tranh du kích. Người nói: “dân quân tự vệ và
du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức
tường sắt của tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo nào, hễ đụng vào lực lượng
đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã.
Tóm lại, những chỉ thị của Người về vũ trang toàn dân, về tổ chức và nhiệm
vụ của ba thứ quân, về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến thuật quân sự, về
16
xây dựng tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, đạo
đức người chỉ huy. Tất cả đó là những biểu hiện chăm lo xây dựng và giáo dục
toàn diện , sâu sắc, thiết thực, cụ thể đối với các lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam, vừa trên cương vị một tư lệnh tối cao, vừa với tình cảm của người cha
thân yêu.
2.4. Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ tổ chức thực hiện
đường lối chỉ đạo thực tiễn chiến tranh
Thực hiện đường lối kháng chiến của Hồ Chí Minh cùng với Trung ương
Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân
địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn
của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách
chống phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm
1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành
được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Đầu năm
1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến
mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành
được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu lần thứ II
tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị
quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo
cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt
động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải
17
phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng
Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng lao động Việt Nam đã kế
thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được
phản ánh trong chính cương của Đảng lao động Việt Nam.
Nội dung của Chính cương Đảng lao động Việt Nam.
Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc
địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn
chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc
địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc
Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: Đối tượng chính là chủ nghĩa
đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối
tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động. Nhiệm vụ
cách mạng: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật
sự cho dân tộc. Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng. Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội.
Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản
dân tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những
giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công
nông, lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Sắp
xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin
(cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô
sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng
chí Trường Chinh giải thích: Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc
giành độc lập cho dân tộc. Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp
18
phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó
do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy. Đây là sự bổ sung và phát triển lý
luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao to lớn
thuộc về đồng chí Trường Chinh. Phương hướng tiến lên của cách mạng dân
tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất định sẽ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai
đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng
cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy
không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: Người lãnh đạo cách mạng là
giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do,
hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa
số, thiểu số ở Việt Nam. Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy
mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung
Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên Lào. - Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các
hội nghị trung ương tiếp theo. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (3 - 1951),
Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo
chiến tranh, củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương
và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính, thực hiện việc
19
khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát
triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế giới,
củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức. Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951), đã nêu lên chủ trương đẩy
mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là: Ra sức tiêu
diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự. Ra sức phá âm mưu thâm độc
của địch là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.
Đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát triển sức kháng
chiến đoàn kết.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng
ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực
hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng,
muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì
phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia
ruộng đất cho nông dân. Hội nghị Trung ương lần thứ năm (11 - 1953), Đảng
quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng
đất trong kháng chiến.
Bộ máy chính quyền năm cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên
một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu
hiệu người cày có ruộng. Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã
có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi các
chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng
Lào...đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân
cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng Lào.... Chiến
thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các
20
- Xem thêm -