lịch sử khai hoang và mở rộng lãnh thổ Việt Nam
ĐẠI NAM THỰC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
SỰ KIỆN
Năm 1698: Mở rộng đất được nghìn dặm,
được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân
xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở
cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia
cắt giới giới phận, khai khẩn ruộng nương,
định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền.
Năm 1779: Buổi sơ quốc, Gia Định còn là
nơi nhiều rừng rú, đầm lấy, mộ dân tới ở, cho
tùy tiện lập ấp vỡ hoang, các thửa ruộng chỉ
ước số đại khái, không chia ra hạng tốt, xấu,
đặt chín trường khố nạp riêng để thu thuế.
Năm 1789:… Lại thấy rằng tổng Kiến Hòa
thuộc dinh Trấn Định nhiều ruộng bỏ hoang,
nhà nước cấp trâu để cày, nếu bị dịch chết thì
không bắt đền.
Năm 1789: Lại mộ dân ngoại tịch làm điền
tốt, thuộc về quan điền tuấn, cấp cho ruộng
hoang, trâu cày và điền khí, nếu không đủ thì
nhà nước cho vay, sau mùa gặt thì nộp thóc
để trả nợ.
Năm 1790: Ra lệnh cho các đội túc trực và
các vệ thuyền Trung quân ra vỡ ruộng ở Vàm
Cỏ, đặt tên là trại đồn điền, cấp cho trâu bò,
điền khí và thóc ngô giống. Đến ngày thu
hoạch đem hết về kho.
Năm 1791: Ra lệnh cho dân ở các dinh lãnh
trưng ruộng đất bỏ hoang, 3 năm bắt đầu thu
thuế, ai xin trưng thì hạn 20 ngày thì thôi,
ngoài hạn ấy cấp cho dân cày cày cấy, không
dc tranh nữa.
Tháng 6/ 1791, hai phủ Xa Bắc, Trà Vinh, đất
rộng người thưa, dân H
án nhiều người ở lẫn vào để khai khẩn…Duy
có người Đường, lưu ngụ thì không ví như
GHI CHÚ
Tr 111, tiền biên-quyển
VIII, tập 1- thực lục về
Hiển tông Hiếu minh
hoàng đế (thượng).
Tr 207-Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển I, tập 1Thực lục về Thế Tổ Cao
hoàng đế.
Tr 244-Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển IV, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
Tr 249- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển IV, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
Tr 265- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển V, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
Tr 272- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển V, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
Tr 275- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển V, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
8
người Hán, phàm đất hoang nhàn, có xin
quan khẩn trị thì cho.
Năm 1798: Dân Chân Lạp ở miền Hậu Giang
dinh Vĩnh Trấn nhiều người bị dân
Hán(người Việt) xâm chiếm vườn đất, kiện ở
quan. Sai khâm sai chưởng cơ Hồ Văn Lân
hội đồng với cai bạ Phạm Ngọc Uẩn đi khám
xét, hễ nơi nào dân Chân Lạp trồng cây rồi
thì trả cho người ta làm ăn, còn đất hoang
nhàn thì cho dân Hán lập làm vườn tược, đều
chia vạch giới cho dứt mối tranh nhau.
Tr 370- chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển X, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
9
Năm 1802: Sai các dinh ở Gia Định chia cấp
ruộng hoang cho dân nghèo. Gia Định đất đai
màu mỡ, thóc gạo chan chứa mà nhân dân
phần nhiều hay làm mạt nghệ nên ruộng dất
có chỗ bỏ hoang. Vua bèn dụ cho các dinh
thần phải chăm đi khuyên bảo. Người nào
không có điền sản thì đem ruộng hoang cấp
cho và cho vay thóc giống đợi thu hoạch
xong sẽ trả lại cho nhà nước.
Tr 482- chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển XVI, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
10
Năm 1803: Khai khẩn thêm ruộng hoang ở
Gia Định. Sai lưu trấn thần chiêu tập cùng
dân , cấp cho thóc của nhà nước để cho đi
khẩn trị.
Tr 591- chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển XX, tập 1thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
11
Năm 1808: Nguyễn Hoàng Đức tâu xin khai
khẩn hơn 30 mẫu ruộng hoang ở trại Phương
Lang huyện Phù Ly. Vua y cho và cho miễn
thuế.
Tr 740- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển XXXVI, tập
1- thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
12
Năm 1811: Vua thấy Hà Tiên là nơi trọng yếu
ngoài biên hai người đã biết rõ tình hình biên
cương cho nên sai đi. Bọn Giáo đến trấn,
chính sự chuộng rộng rãi giản dị không làm
phiền nhiễu, sửa sang trại dân chiêu tập dân
xiêu dạt đặt trường học khẩn ruộng hoang.
Tr 871- Chính biên, Đệ
nhất kỉ, quyển XLIII, tập
1- thực lục về Thế tổ cao
hoàng đế.
13
14
15
16
17
18
Tháng 2/1821,vua cho Nguyễn Văn Thụy
lãnh chức Bảo hộ quốc ấn nước Chân Lạp ,
kiêm lí việc biên vụ Hà Tiên đến vùng đất
Châu Đốc xung yếu, mộ dân buôn lập thành
làng mạc để hộ khẩu ngày một tăng, đồng
ruộng ngày mở mang.
Tháng 5/1824, nhân dân Hà Tiên đến nay địa
lợi ngày thêm mở mang, dân số được 608
người, lập thành 37 xã thôn sách, ruộng vườn
khoảnh.
Tr 116, Đệ nhị kỷ - Quyển
VIII.
Tập 2
Tháng 9/1828, vua cho phép Dinh điền sứ
Nguyễn Công Trứ đến dải miền Tiền
Châu(Nam Định) đo đạc đất hoang chia cấp
cho dân nghèo thành 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10
giáp, số đinh được hơn 2.350 người, số ruộng
được hơn 18.960 mẫu, bắt đầu đặt huyện Tiền
Hải thuộc phủ Kiến Xương.
Tháng 9/1828, vua sai Nguyễn Công Trứ
cùng với đạo thần hội cho dân nghèo còn có
hơn 1000 người xin lãnh ruộng khai hoang để
khai khẩn ở các huyện Yên Khánh, Yên Mô
thuộc Ninh Bình cùng chỗ đối ngạn với
huyện Nam Chân thuộc Nam Định – một dải
bãi biển còn nhiều đất hoang rậm rạp cấy lúa
được chẳng kém gì Tiền Hải.
Tháng 3/1829, Dinh điền sứ là Nguyễn Công
Trứ, ở phía ngoài đê Hồng Lĩnh đo được số
ruộng hoang là 14.620 mẫu, chia cấp cho dân
nghèo hơn 1.260 người, nhập thành 3 làng,
22 ấp, 24 trại và 4 giáp, chia làm 5 tổng, vua
đặt riêng một huyện gọi là Kim Sơn thuộc
Ninh Bình.
Năm 1830, Vua cho bọn tù phạm ấy dồn bổ
làm binh tháng cấp tiền gạo (gạo 1 phương
Tr 753, Đệ nhị kỷ - Quyển
LIV.
Tập 2
Tr 345, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXVII
Tập 2
Tr 753, Đệ nhị kỷ - Quyển
LIV.
Tập 2.
Tr 827, Đệ tứ kỷ - Quyển
LVIII
Tập 2
Tr.49, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ -
19
20
21
22
23
tiền 5 tiền), giao dao cuốc cho họ khai khẩn
những chỗ có ruộng đất bỏ hoang
Năm 1830, Cho mộ thổ dân để lập thôn ấp
miễn thuế thân và tạp dịch khiến ở và cày cấy
dọc ven núi để tự giữ gìn
Năm 1830, Vua dụ Nguyễn Văn Tuyên, Bùi
Đức Minh tìm cách chiêu dân đến mà vỗ về ở
Châu Đốc, khiến cho người ở ngày càng đông
đúc, ruộng đất ngày càng mở mang, sinh hoạt
đều được dư dụ, để đáp ý tốt của Trẫm gây
dựng cho nơi biên giới
Năm 1831, Vua thấy đất Hà Tiên rộng rãi bát
ngát, mà ruộng nương chưa mở mang, làng
mạc còn thưa thớt, muốn một phen kinh lý để
,mở rộng địa lợi và ổn định dân cư, dụ cho
thành thần Gia Định, cùng đốc suất ba tào hết
lòng trù tính, làm thế nào để khiến những dân
không nghề nghiệp, đến chỗ đất chưa khẩn
hết, chia nhau lập ra làng mạc, cày cấy làm
ruộng trồng dâu để làm cái lợi muôn đời.
Năm 1831, Vua cho trấn Thanh Hoa: những
ruộng đất bỏ hoang đã thành ngạch và ruộng
đất công tư hiện cày cấy được mà bỏ hoang
phải theo sự thực mà biên vào sổ, ruộng đất
công bỏ hoang thì cho dân xã đều khai khẩn
ruộng đất tư bỏ hoang thì chủ ruộng tự khai
khẩn lấy.
Trấn Ninh Bình ruộng bỏ hoang đều phải bắt
cải chính lại. xã nào nhiều ruộng dân xã
không có sức khai khẩn được, mới cho người
xã khác khẩn canh, nếu dân này lưu tán đi mà
dân khác cày cấy để nộp thuế, thì cho cai
tổng làm sổ thay”.
Năm 1831, Tất cả những chỗ hai bên đường
lớn, đường nhỏ trong cả nước, và những chỗ
bên sông, bên ngòi, bờ ao, chân rừng, gò
đống, hiện còn bỏ cho phép ai khẩn hoang
trước thì người nấy được. Nếu là ruộng tư, thì
ra lệnh cho chủ ruộng đất tự khai khẩn lấy,
quyển LXVII, Thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.54, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXVII, Thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.70, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXVIII, thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.101 – 102, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXXI, thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.123 -124, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXXII, thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.137, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXXIII, thực lục về
thánh tổ nhân hoàng đế
24
25
26
27
28
29
cũng kể bắt đầu từ báo việc khai khẩn ấy. Sau
6 năm, khi đã xét thành tích rồi, đều cho theo
vào hạng ruộng đất tư bắt đầu đánh thuế.
Hạ lệnh cho các địa phương, xem ở trong hạt
những ruộng đất còn bỏ hoang, sức bắt phải
khai khẩn trồng trọt.
Năm 1831, Vua truyền dụ quan thành Gia
Định phải nghiêm sức cho viên coi đồn ấy,
hết lòng xếp đặt, cốt sao đất được khai khẩn,
dân được đông đúc, hết hạn 3 năm, lập tức
làm thành tập tâu lên, không được cho là khó
mà thoái thác nữa
Năm 1832, Vua cho tỉnh Quảng Yên phái lính
thú, do nhà nước cấp cho lương ăn đồ dùng,
sai đi khai khẩn cày cấy, chỗ nào nên phải
đắp đê thì cho đắp lên. Đến lúc thu hoạch cứ
số thóc làm được chia 3 phần, lấy 2 phần để
vào kho, còn 1 phần cấp cho người vỡ ruộng.
Sau khi thành ruộng, mộ dân lĩnh cấy, đánh
thuế theo lệ công điền ”
Năm 1834 - Xây sựng đồn bảo Thanh Hải và
pháo đài Thanh Hải ở đảo Côn Lôn thuộc Gia
Định. Pháo đài ở phía nam đồn đảo. Sai quản
tỉnh vát lính và thuê dân tất cả 500 người để
làm việc. Quân lính những khi làm việc tuần
phòng hải phận nhàn rỗi, sức cho khẩn hoang
trồng cây, và chiêu mộ dân nghèo cùng ở, cho
sống vằng sức mình, còn trâu cày, nông cụ thì
do nhà nước cấp phát cho.
Tháng 9/ 1834 - Ruộng đất công tư còn bỏ
hoang, đều cho dân xiêu dạt khai khẩn dần
dần, nhưng gia hạn cho rộng, bắt phải làm
cho có công hiệu, khoảng 2,3 năm tưởng
không đến nỗi còn hoang lậu nhiều nữa.
Tháng 10/1834 - Nếu nay việc ngoai biên
giới đã đỡ gánh, thì nên liệu cấp đồ làm
ruộng cho quân và dân ở những nơi gần đồn
trại, xem chỗ ào có thể cày cấy đươc thì cho
họ khai khẩn, vừa cày quốc, vừa phòng thủ.
Năm 1835 - Lập đồn điền ở tỉnh Hà
Tr.192, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXVII, thực lục vê
thánh tổ nhân hoàng đế
Tr.296, Tập 3
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển LXXXIV, thực lục
về thánh tổ nhân hoàng
đế
(Tập 4;651).
Đệ nhị kỉ - quyển CLVI,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;259)
Đệ nhị kỉ - quyển CLVI,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;287)
Đệ nhị kỷ - quyển CLVI,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;420)
Tiên(…)lại mộ dân nghèo khai khẩn cày cấy.
30
Tháng 3/1835 - Chiêu mộ dân nghèo ở hai
huyện Kiên Giang, Hà Châu, cấp cho trâu
cày, đồ làm ruộng và thóc giống để khai
khẩn.
31
Tháng 6/1835 - Trấn Tây là đất rất màu mỡ,
bỏ hoang còn nhiều. Chính phải nên ciêu mọ
dâ Kinh theo đi khai khẩn cày cấy và cư trú.
32
Tháng 8/1835 - Tổng đốc Hải Dương Nguyễn
Công Trứ dâng tập thỉnh an, có nói: “Xã
Minh Liễn, huyện Nghi DƯơng thuộc tỉnh,
có đến hàng nghìn mẫu ruộng hoang. Xem
địa thế, khai khẩn cũng dễ. Vậy xin ra lệnh
cho mộ binh các vệ chia ban khai khẩn, cấp
cho làm ruộng thế nghiệp, rồi theo lệ ruộng tư
thu thuế; còn những đồ làm ruộng và trâu cày
vẫn chiếu lệ doanh điền cấp cho.”
Tháng 9/1835 - Truyền dụ cho các đốc , phủ,
bố, án các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Đinh, Phú
Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận đều xét xem
trong hạt mình có những chỗ đất có thể cày
trồng mà bỏ không, dân không thể khai khẩn
được hết thì cấp ngay cho những tù phạm
được ung làm lính kia để chúng ra sức làm
lụng trồng cấy.
Tháng 3/1836 - Vua dải đất ven rừng ở núi
Chử Chân, ước bao nhiêu mẫu, mộ dân ngoại
tịch, lập ấp, liệu xem sức làm được đến đâu
thì khai khẩn đến đó. Sau khi thành ruộng,
chiếu theo lệ, đánh thuế. Còn số dân chiêu
mộ và số ruộng khai khẩn thì làm sổ tâu lên.
Tháng 4/1836 - Ở Nam kì, những đất bỏ
không, có ra sức khai khẩn cày cấy, thì dân
thường cũng được chia lợi. Cho nên người
thích muốn đạc ruộng thì nhiều.
33
34
35
Đệ nhị kỷ quyển
CXLVII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;420)
Đệ nhị kỷ
- quyển
CXLVII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4; 523)
Đệ nhị kỷ - quyển CLV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4; 546)
Đệ nhị kỷ - quyển CLVII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;654)
Đệ Nhị kỷ - quyển CLIX,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;675)
Đệ nhị kỉ - quyển CLXVII,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;683)
Đệ nhị kỉ - quyển
CLXVIII,
Thực lục về Thánh tổ
36
37
38
39
40
Tháng 7/1836 - Từ nay nên khuyên bảo dân
trong hạt (ở Quảng Trị) cố khai khẩn ruộng,
sau này trở thành đất thuộc, có ai muốn lĩnh
thóc giống, tiền và thóc thì lập tức tuân dụ
trước, cấp cho.
Tháng 12/ 1836 - Ra lệnh cho 6 tỉnh Nam
Kỳ: phàm trong hạt có người nhà Thanh
nghèo thiếu, và khách đáp thuyền mới đến,
tình nguyện ở lại thì cho đưa đến thành Trấn
Tây, chọn đất cho ở, chia ra lập ấp, lý, cho
khai khẩn đất bỏ không. Người nào không có
vỗn thì nhà nước cấp cho thóc giống và đồ là
ruộng; sau 3 băm, chiếu theo số người, số
ruộng, xếp thành sổ sách, tâu lên.
Tháng 6/1837, các phủ thuộc thành ấy chiêu
tập lưu dân lập được 22 thôn ấp cùng ở lẫn
với dân Phiên, khai khẩn đất hoang, nhưng
thiết lập lần đầu sinh lý chưa được thừa thãi,
xin đợi đủ 3 năm, làm sổ đinh điền, chước
định ngạch thuế.
Tháng 9/1837 - Sai đốc, phủ, bố, án các tỉnh
Nam Kỳ, sức rõ cho phủ huyện khuyên bảo
dân trong hạt, đem hết ruộng đất còn bỏ
hoang báo lên để khai khẩn, chuẩn cho đến
cuối năm cứ theo số ruộng đât trong hạt tăng
giảm, làm sổ tâu lên.
Tháng 3/1938 - Thông dụ cho các trực tỉnh:
phamg các đồn bảo dọc theo biên giới có
binh dân canh giữ, thì quan tỉnh đều chuyển
sức cho phủ huyện sở tại xét xem nơi nào có
đất bỏ không, có thể cày cấy được, liệu cho
khai khẩn cày cấy, mỗi người một mẫu hoặc
5,7 sào, lấy một năm làm hạn cho tỉnh phái
khám, làm sổ hộ đưa lên để xét, phân biệt kẻ
siêng người lười, chước nghị thưởng phạt,
các ruộng khai khẩn được ấy, sung làm ruộng
lương cho các đồn, hoa lợi thóc thu được,
chia cấp cho ăn dùng, đồn nào theo lệ được
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;729)
Đệ nhị kỷ - quyển CXXI,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 4;796)
Đệ nhị kỉ - quyển
CLXXVI,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;78)
Đệ nhị kỷ quyển
CLXXXII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;119)
Đệ nhị kỷ - CLXXVII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;219)
Đệ nhị kỷ - quyển
CLXXVII
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
41
chi lương, đợi 3 năm thành điển, đình cấp tất
cả.
Tháng 7/1838 - Sai thành Trấn Tây khuyên (Tập 5;271)
bảo quân dân khai khẩn ruộng đất.
Đệ nhị kỷ - Quyển CXCIV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
42
Năm 1838 - Bố chính Khánh Hòa là Vũ Đình
dang tập thỉnh an nói: :”Tỉnh hạt ấy nhiều đất
bỏ hoang, xin sắc cho các tỉnh lớn ở Bắc Kỳ
chiêu mộ các dân cùng túng, dời đến đó, để
cày cấy khai khẩn”
(Tập 5;285)
Đệ nhị kỷ - Quyển CXCIV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
43
Tháng 9/1838 - Sai thự Lang trung bộ Công
Đỗ Khắc Thư, Ngự sử đạo Định Biên Tô Trân
đi khắp phủ hạt Thừa Thiên xem xét đất bỏ
không có thể trồng được gai, chọn được trên
70 mâu (ở chân rừng các xã Trúc Lâm, Hải
Cát, Thạc Lai, Diễn Phái, Thạch Hạn). Chuẩn
cho bộ Binh chia phát quan quân các vệ đi
khai khẩn để trồng.
Tháng 3/1839 - Vua dụ rằng: Giặc Xiêm đắp
thành, chẳng qua sợ ta mà làm kế tự giữ. Và
nghe tin họ Đỗ đóng quân ở nơi tiếp giáp với
chúng, mưu tính đến lấn quấy, chính sẽ tự giữ
không xong, đâu có thể quấy ở biên giới ta
được. Nay chỉ nên sức rõ phải đóng giữ và
biền binh trong hạt khai khẩn nhiều ruộng đất
hoang, tùy tiện gieo trồng lúa, ngô để cho
thức ăn thêm đầy đủ.
Tháng 7/1839 - Dân xã Duyên Trường phủ
Thừa Thiên (thuộc huyện Phú Xuyên) xin
đắp con đê nhỏ ngăn nước phía tây sông Phổ
Lợi, chỗ tiếp với sông lớn và khai khẩn lòng
sông thành ruộng nộp thuế.
(Tập 5;297)
Đệ nhị kỷ - quyển CXCV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
Tháng 8/1839 - Sai thông dụ cho 6 tỉnh Nam
Kỳ đều xét trong hạt những nơi bỏ hoang,
chỗ nào có lính đồn điền khai khẩn cày cấy
thì đem ngay những tù phạm bị sung quân,
(Tập 5;427)
Đệ nhị kỷ - quyển CCV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
44
45
46
(Tập 5; 371)
Đệ nhị kỉ - quyển CC,
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;413)
Đệ nhị kỷ - quyển CCIV
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
47
48
49
50
51
52
phát lưu, tội đồ cho đến những người phải an
trí hay giao đến làm nô, cùng là sung làm
việc kho sai ở trong tỉnh mình, giao cho lính
đồn điền sở tại quản thúc, băt chúng chăm chỉ
làm ruộng.
Tháng 12/1839 - Định lệ thưởng phạt về việc (Tập 5;473)
khai khẩn ruộng hoang ở Nam Kỳ.
Đệ nhị kỷ - quyển CCVIIL
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
Tháng 2/1840 - Vua cho bảo Côn Lôn tỉnh
Vĩnh Long, đất rộng tốt màu mà dân ở thưa
thớt. Dụ cho quan tỉnh sức bọn biền binh trú
phòng, gia sức khai khẩn, đều lượng Cáo cho
canh ngưu điền khí và thóc giống tùy theo thổ
nghi mà gieo trồng lúa mạ khoa đậu để ăn
dùng.
Tháng 3/1840 - Quan tỉnh Định Tường tâu
nói: hạt ấy có thổ bảo Từ Linh (ở giang phận
cửa Tiểu), địa thế rộng, đất tốt màu, có thể
cày trồng được. Xin cho tù phạm hạt ấy (34
người) đến đấy khai khẩn, phái lính tỉnh hiệp
cùng viên thủ ngự sở tai quản thúc bọn
ấy.Vua cho làm.
Tháng 3/1840 - Tổng đôc Hà Tỉnh là Mai
Công Ngôn tâu nói: …Xét ra, xứ Hà Trai núi
rừng liên lạc đều là đất bỏ không, không có
người ở và cày cấy, xin hãy cho thổ dân 2
huyện Cam Cát, Cam Môn ở tạm đấy 2,3
năm, khai khẩn thành điền, bấy giờ sẽ khám
thực chiểu theo lệ thuế dân Kinh mà nghĩ
định. Vua y theo lời bàn ấy.
Năm 1841, Vua phái quân hai đội Tuần hải
đến đóng giữ núi Chàng Sơn, tỉnh Quảng
Yên, nhân đó, khai khẩn những chỗ đất rộng
bỏ không và ruộng hoang để cấp lương cho
quân lính.
Năm 1841, Hộ phủ là Ngụy Khắc Tuần được
tin báo, đem quân trong tỉnh đến đuổi người
Nam Man Chưởng sang cướp châu Ninh
(Tập 5;504)
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển CCX
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;516)
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển CCXI
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
(Tập 5;522)
Chính biên, đệ nhị kỷ quyển CCXI
Thực lục về Thánh tổ
Nhân hoàng đế.
Tr.86, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển VI, thực lục về hiến
tổ chương hoàng đế
Tr.92 – 93, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển VI, thực lục về hiến
Biên, thuộc Hưng Hóa. Tuần đặt thêm nơi tổ chương hoàng đế
phủ lỵ, mộ dân đến lập ấp, khai khẩn những
chỗ bỏ hoang, mở mang việc buôn bán để
tính phương kế làm cho nơi biên viễn được
đầy đủ chắc chắn.
53
54
55
56
Năm 1841, Vua cho Nguyễn Khắc Tuần mộ
lấy 300 binh dõng, cấp cho lương tháng, trích
lấy những ruộng bỏ hoang, cho học vỡ đất
trồng cấy để chi dùng. Lại lấy thêm dân ngoại
tịch, cứ 20 người làm một xã, hoặc 3 – 4 xã
làm một tổng. Lại chiêu mộ bọn lái buôn
người Thanh ở các nơi biên giới đến đấy mở
cửa hàng buôn bán, lưu thông hàng hóa chỗ
có đến chỗ không, để giúp cho dân được tiện
việc mua dùng, cùng là những ruộng đất đã
khai khẩn ra đều được tha thuế trong hạn ba
năm. Như thế thì dân cư được đông, đất vỡ
thêm rộng, sự phòng bị nơi biên giới mỗi
ngày đầy đủ thêm, có thể tuyệt được cái lòng
dòm ngó của bọn man rợ bên ngoài, bờ cõi
được mở thêm bền vững”
Năm 1841, Định cách thức thưởng cho những
người mộ dân lập ấp ở Nam Kỳ.
Năm 1841, Lại dụ cho tất cả các đại thần ở
trong sáu tỉnh Nam Kỳ rằng hết lòng vỗ yên:
thôn dân người nào lưu tán thì gọi về mà phủ
dụ,đồng ruộng chỗ nào bỏ hoang thì khai
khẩn, nhân dân người nào đói thì cứu tế cho,
người nào túng thiếu thì tư giúp cho, cấm
ngăn trộm cướp, hòa hợp nhân dân. Bên
trong đã yên thì kẻ đối địch bên ngoài có thể
không phải cần đến binh lực mà họ tự phải
phục”.
Năm 1842, Thất Sơn đã dẹp yên. Vua sai
Nguyễn Công Trứ và Phùng Nghĩa Phương
thay nhau đi sắp đặt, lựa chia lập ấp, thôn, đặt
người trong coi giúp đỡ sự khai khẩn ruộng
Tr.116, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển VIII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.127, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển IX, thực lục về hiến
tổ chương hoàng đế
Tr.156, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XI, thực lục về hiến
tổ chương hoàng đế
Tr.256, Tập 6
Chính biến, đệ tam kỷ quyển XX, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
57
58
59
đất cho cày cấy và ở, để việc làm và chỗ ở
được yên.
Năm 1843, ở Đất Tây Ninh vua cho Tổng
Đốc Định – Biên Lê Văn Phú liệu cắt lính
thú và lính tỉnh hơn 1000 tên do Đề Đốc Ngô
văn Giai đem đi đóng giữ Tây Ninh, dựng
đồn trại, làm đồn điền để làm kế ở lâu. chiêu
dụ bọn thổ dân ở Tây Ninh cùng Nam Ninh,
và Nam Thái, bọn thổ mục, thổ dân nếu có ra
thú thì bất luận trước đây có theo giặc hay
không, đều rộng tha cho, để chúng báo cáo
lẫn nhau, lần lượt quay đầu về, rồi trước hết
pử những chỗ ấy, chiêu dân lập ấp, mở đất
thẳng tới Lư An, thì công hiệu tuy chậm,
nhưng có thể giữ được vạn toàn, vô ngại…
Năm 1843, Vua sai thự Đề đốc Gia Định Ngô
Văn Nhai đặt trại đồn, mở đồn điền, chiêu
dân, lập ấp ở Tây Ninh; vỗ về quân ngũ, yên
ủi phường dân, khiến cho ruộng đất ngày một
mở mang, dân vật ngày một phồn thịnh để
thu lấy thành hiệu.
Năm 1843, Dụ sai Lê Văn Phú lấy thêm 500
quân trong tỉnh đến Tây Ninh đặt đồn ở xứ
Long Giang gọi là đồn Định Liêu, chia quân
để phòng thủ. Chiêu tập những dân đinh lưu
tán và những người ký ngụ chưa vào sổ cùng
những quân trốn đi hoặc những kẻ bị tội lỗi,
đều cho ra thú, sẽ tha tội, chia thành từng ấp,
từng làng, cấp cho trâu cày và đồ làm ruộng,
bắt phải khai khẩn ruộng đất. Sai quân dân
nhổ cỏ, chặt cây ở khúc đường cũ, đến thẳng
xứ Bông nguyên, để thông đường quan báo.
Lại chọn một khu đất đặt trường sở giao dịch
để cho người Kinh, người Thổ thông thương.
Đồng Thanh Lưu, chuẩn đặt quân canh giữ ở
địa phận Đông Thuận. Các xứ Bông Nguyên,
Thông Bình, chuẩn cho tỉnh Định Tường phái
thêm quên để phòng thủ. Lại bắt binh thuyền
hiệp đồng nhổ cỏ, chặt cây ở khúc đường cũ.
Tr.324, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXVII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.349, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXX, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.352, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXX, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
60
61
62
63
Năm 1843, Vua dụ rằng Nam Kỳ đất rộng
người thưa, cho những quân ở các tỉnh Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường giải giao tỉnh An
Giang, quân ở các tỉnh Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên giải giao tỉnh Gia Định, chuyển phát
đến tỉnh Tây Ninh đều sung và làm quân đồn
điền. Những người nô dịch cũng sung đến sở
đồn điền mà trồng cấy, giao cho biền binh
đóng giữ ở đấy quản thúc, cấp cho trâu cày và
đồ làm ruộng, sức bắt phải ra sức để khai
khẩn ruộng hoang..
Năm 1843, Vua dụ rằng: “… Còn như phủ
Điện Biên đặt ra , cốt để phòng giặc cướp,
giữ yên dân, trước đã cho trích phải quân mộ
thổ trước, bắt thêm thổ dõng ở gần, trú phòng
ở đấy, chiêu dân khẩn đất, từ trước đến nay
đã dần dần có thành hiệu…”.
Năm 1844, …Tha cho các phạm nhân bị
giam, đều phân sáp đi các đồn, sai khai khẩn
các ruộng bỏ hoang.
Lại dụ bọn Nguyễn Đức Hộ rằng: “Khai khẩn
ruộng hoang càng là chính sách cốt yếu làm
cho biên cương được đầy đủ, nên gia tâm
chiêu dân để khai khẩn, hoặc sức cho biền
binh đóng giữ, lúc có việc thì nghiêm cẩn
phòng bị hơn nữa, lúc không việc thì ra sức
cày cấy, sao cho ruộng nương ngày một mở
mang, thóc chứa năm một thêm lên, cũng là
giúp cho địa phương biên cương được bền
đó”.
Năm 1845, Quyền Tuyên phủ sứ ở Tây Ninh
là Cao Hữu Dực tâu rằng: “Chiêu mộ được
dân trong hạt, chia ra lập thành xóm làng
(chia làm các nhóm: Tiên Thuận, Phúc Hưng,
Phúc Bình, Vĩnh Tuy, Phúc Mỹ, Long Thịnh,
Long An, Long Thai, Long Khánh, An Thịnh,
Khanh Ninh, Vĩnh An, An Hòa, Gia Bình,
Long Bình, Hòa BÌnh, Long Đình, Phú
Thịnh, Thái Định, Hòa Thuận, An Thường,
Thuận Lý, Thiên Thuận, Hướng Hóa, Định
Tr.381, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXXIII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.391, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXXIV, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.481, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XXXVIII, thực lục
về hiến tổ chương hoàng
đế
Tr.510, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XLVII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
64
65
66
67
68
69
70
71
Thái, Định Bình, cộng 26 thôn), cấp cho trâu
cày, đò làm ruộng, khiến cho hết sức khai
phá, để nơi biên cương được vững”. Vua
chuẩn y.
Năm 1845, Vua dụ bảo rằng: Đồn Bình Hải
đã có quân đóng (150) lại có 2 đội mới mộ.
đủ giúp cho sự canh giữ; tiếp tục mộ dân
đinh, nên chọn chỗ đặt thành làng, để cho
khai khẩn làm ăn, không cần biên vào ngạch
quân làm gì.
Năm 1845, Định rõ lệ thương phạt về khai
khẩn ruộng Nam Kỳ
Năm 1846, Vua cho từ tỉnh Khánh Hòa trở
vào Nam, những người can án trốn đi lại ra
thú giao viên coi đồn ở phủ Ba xuyên và Tĩnh
Biên chiếu lĩnh. Ai tình nguyện ra sức khẩn
hoang thì lượng cấp cho trầu cày và đồ làm
ruộng, để cho khai khẩn, nhưng phải gia tâm
quản thúc.
Tháng 10/1847, vua chuẩn cho dân hạt phủ
Tây Ninh ( thuộc Gia Định) chiêu mộ người
lập ra 3 thôn Bình Nhuận, Bình Tứ và Bình
Châu.
Tháng 1/1848, tỉnh thần Bình Thuận dâng
sách khai khẩn ruộng hoang. Vua dụ bảo phải
chăm khuyên đốc khẩn làm hơn nữa, không
còn lợi bỏ sót để đời sống cho dân được
phong phú.
Tháng 11/ 1848, Bộ Lại tâu xin đem số ruộng
đất mới khẩn thêm ở các tỉnh Nam Kỳ để bàn
định thưởng phạt các thứ bậc khác nhau.
Tháng 6/1850, vua cho Nguyễn Tri Phương
mang phù tiết đến miền Nam họp dân làm
đồn điền để giúp sinh tế.
Tháng 5/ 1851, những tù phạm về tội quân
lưu ở các tỉnh giao cho 6 tỉnh Nam Kỳ, liệu
Tr.526, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển XLVIII, thục lục
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.570, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển LIII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr.661, Tập 6
Chính biên, đệ tam kỷ quyển LXII, thực lục về
hiến tổ chương hoàng đế
Tr 36, Đệ tứ kỷ - Quyển I.
Tập 7
Tr 56, Đệ tứ kỷ - Quyển
II.
Tập 7
Tr 106, Đệ tứ kỷ - Quyển
III.
Tập 7
Tr 168, Đệ tứ kỷ - Quyển
IV.
Tập 7
Tr 203, Đệ tứ kỷ - Quyển
VI.
72
73
74
75
76
77
78
78
cấp cho trâu và đồ làm ruộng để hết sức khai
khẩn cày cấy, đẫy 3 năm số ruộng khai khẩn
đươc bao nhiêu đều cho làm tư điền đến 6
năm bắt đầu thu thuế.
Tháng 1/1852, tỉnh An Giang tiếp giáp cõi
nước Miên, đất bỏ hoang còn nhiều, vua cho
những tên du côn, trộm cắp vặt ở 6 tỉnh Nam
Kỳ tù 3 năm trở xuống, phát giao cho các đồn
, cho khai khẩn để cày cấy
Tháng 1/1853, vua chuẩn cho Nam Kỳ thi
hành phép mở đồn điền và lập ấp. Gián hoặc
có người nước Thanh nào đến ứng mộ cũng
cho sung vào binh đồn điền.
Tháng 5/1854, vua cho phép đợi dân phiêu
tán ở tỉnh Nghệ An trở về để khẩn ruộng nộp
thuế, khiến cho những dân không sản nghiệp
được nhờ đấy để sinh sống.
Tháng 4/1855, Viên phủ Diên Khánh ( tỉnh
Khánh Hòa) là Đỗ Thúc Tĩnh mộ được hơn
150 nhân đinh, khai khẩn, làm ăn sinh sống
và xin nộp thuế.
Tháng 9/1856, Ngự sử Nguyễn Ích Khiêm tâu
xin giảm bớt số lính đồn điền ở tỉnh Định
Tường di cư để biên giới được nhiều quân,
kén lấy 6 cơ cho ở 6 tỉnh để khai khẩn ruộng
bỏ hoang.
Tháng 7/ 1857, vua cho phép dân xã Hà
Trung thuộc phủ Thừa Thiên đắp đê khẩn
ruộng. Số ruộng khai khẩn được cho miễn
thuế 3 năm.
Tháng 11/1857, tuần phủ Thuận – Khánh là
Nguyễn Hữu Cơ theo chỉ dụ chiêu mộ nhân
dân khai khẩn.
Tháng 7/ 1858, ở 6 tỉnh Nam Kỳ đã lập đồn,
mỗi người lính khẩn ruộng hoặc được 2-3-4
Tập 7
Tr 235, Đệ tứ kỷ - Quyển
VIII.
Tập 7
Tr 263, Đệ tứ kỷ - Quyển
IX.
Tập 7
Tr 315, Đệ tứ kỷ - Quyển
X.
Tập 7
Tr 373, Đệ tứ kỷ - Quyển
XII.
Tập 7
Tr 468, Đệ tứ kỷ - Quyển
XV.
Tập 7
Tr 515, Đệ tứ kỷ - Quyển
XVII.
Tập 7
Tr 531, Đệ tứ kỷ - Quyển
XVII.
Tập 7
Tr 567, Đệ tứ kỷ - Quyển
XIX.
79
80
81
82
83
84
85
86
mẫu từ chỗ đất bỏ hoang, công việc dần yên
ổn.
Tháng 8/ 1862, thư án sát Ninh Bình là
Dương Doãn Am đem việc ấp Văn Hải thuộc
tỉnh thần xin khẩn ruộng nộp thuế hơn 3000
mẫu.
Tháng 4/ 1863, Biện lý Bộ hình là Trần Đình
Túc xin mộ người khai khẩn ruộng bỏ hoang
ở Thừa Thiên và Quảng Trị. Vua cho Đình
Túc sung làm Doanh điền sứ.
Tháng 3/1864, Doanh điền sứ là Trần Đình
Túc xin ở các xứ ruộng hoang thuộc địa phận
xã Lương Điền huyện Phú Lộc, mộ dân trong
sổ đình lập ấp( chia làm các ấp Quý Lộc, Mỹ
Thuận, Lương Tri, Lương Sơn Tây) nhận
khai khẩn ruộng.
Tháng 3/ 1864, vua cấp cho cửu phẩm là Lê
Văn Giai, thông quán bị cách chức là Vũ
Đăng Thiệu, tú tài là Bùi Duy Liễn cấp cho
tiền vốn công 3000 quan để khai khẩn đến
hơn 1000 mẫu ruộng hoang ở những chốn
ven núi, ven sông thuộc tỉnh Quảng Bình.
Tháng 7/ 1864, vua cho các tù phạm về tù
phạm về tội quân thực lòng hối cải thì chia
giao cho tổng lý, sáp nhập vào khai khẩn
ruộng hoang.
Tháng 1/ 1865, dời dân đói ở Quảng Nam
( hơn 600 người cả đàn ông và đàn bà) đến
Phúc Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa dựng nhà,
khai hoang.
Tháng 2/ 1865, vua cho tuần phủ Hà Tiên
kiêm Doanh điền sứ Trần Hoán lấy lính ở
Vĩnh Long, An Giang, tụ họp dân mở mang
ruộng.
Tháng 6/ 1865, vua cho Khâm phái Doanh
Tập 7
Tr 786, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXVII.
Tập 7
Tr 810, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXVIII.
Tập 7
Tr 840, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXIX .
Tập 7
Tr 842, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXIX.
Tập 7
Tr 861- 862, Đệ tứ kỷ Quyển XXX
Tập 7
Tr 896, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXI
Tập 7
Tr 901, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXI
Tập 7
Tr 939, Đệ tứ kỷ - Quyển
87
88
89
90
91
92
93
94
điền Nguyễn Văn Phương chiêu mộ những
người ngoại tịch và dân không có căn cước
dẫn giao cho các tỉnh, cấp cho trâu cày, đồ
làm ruộng để cho khai khẩn cày cấy những
ruộng bỏ hoang bắt đầu từ tỉnh Bình Thuận.
Tháng 3/ 1866, Doanh điền sứ ở An Giang,
Hà Tiên là Trần Hoán và Phạm Hữu Chính
được vua cấp tiền cho dân ở 149 thôn ấp mới
khai khẩn được 8.333 mẫu ruộng .
Tháng 4/ 1866, Tỉnh thần Vĩnh Long nhiều
lần mộ lập được 41 xã thôn ( đinh 600 tên,
ruộng đất 2700 mẫu).
Tháng 10/ 1866, vua ra lệnh cho các tỉnh ,
các đạo chỗ nào có ruộng đất bỏ không nên
mộ dân lập ấp để nhà nước không lãng phí,
dân vui về làm ruộng.
Tháng 10/ 1866, vua cho phép Quản đạo
Quảng Trị là Nguyễn Quýnh đặt một đồn ở
Ba Xuân Tỉnh Quảng Trị, khuyên mộ dân mở
mang.
Tháng 11/ 1866, nhà Doanh điền ở tỉnh
Thuận Khánh chiêu mộ được hơn 500 người
dân lưu tán khai khẩn được hơn 3000 mẫu
ruộng đất, lập thành 6 hộ ấp.
Tháng 11/ 1866, vua cho bang biện Thành
Hóa huyện vụ là Nguyễn Văn Tường ở đem
200- 300 người đến các phận rừng đồn ở Cao
Bằng khai khẩn dần dần để đề phòng nhà
Thanh mà đất bỏ không ở biên giới đều có
chia giữ.
Tháng 2/ 1867, vua cho bang biện Thành Hóa
mộ những dân còn lậu chưa có tên trong sổ
đinh, cho ở gần chỗ dân lương để khai khẩn
thêm dân đông đúc .
Tháng 5/1869, quan tỉnh Nam Định gồm
XXXI
Tập 7
Tr 990, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXIV.
Tập 7
Tr 992, Đệ tứ Kỷ - Quyển
XXXIV.
Tập 7
Tr 1021, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXV.
Tập 7
Tr 1030, Đệ tứ kỷ-Quyển
XXXV
Tập 7
Tr 1031, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXV.
Tập 7
Tr 1031, Đệ tứ kỷ - Quyển
XXXV.
Tập 7
Tr 1048, Đệ tứ kỷ -Quyển
XXXVI
Tập 7
Tr 1183, Đệ tứ kỷ- Quyển
95
96
97
98
99
100
Tổng đốc Đào Trí, Bố Chính Nguyễn Huy Kỷ
, Án sát Lê Tuấn huy động sức dân khai khẩn
ruộng được hơn 17000 mẫu.
Tháng 7/1870, vua chuẩn giao cho Điền nông
sứ Thuận – Khánh là Phạn Trung với quan
tỉnh Bình Định, mở đồn điền ở dải An Khê,
tiếp giáp sơn Man để khai thác hết nguồn lợi
ở đất và để giữ nơi xung yếu.
Tháng 7/ 1872, sai viên Doanh điền phó sứ
tỉnh Nam Định là Đỗ Phát dốc sức khai khẩn
những ruộng đất bỏ hoang của 2 phủ Xuân
Trường và Nghĩa Hưng.
Giáp Tuất, Tự Đức năm thứ 27(1874): Tướng
giặc ở Nghệ An là Trần Quang Cán sinh sự ở
huyện Hương Khê, năm trước lĩnh giấy mộ
người khai khẩn ở phận rừng huyện Hương
Khê, giáp cuối địa giới tỉnh Hà Tĩnh, Quảng
Bình.
XL.
Tập 7
Năm 1875: Vua phê báo: Tư Gián thiên tư
dung túng, rất phụ lòng yêu dùng của trẫm,
phải cách chức ngay, chuẩn ch đến miền núi
mộ dân khẩn hoang làm việc chuộc tội.
Tháng 8-1875: Trước sơn phòng sư Thanh
Hoa Trương quang Đàn nghĩ tâu công việc
làm đồn điền khẩn hoang, nói đại khái rằng:
Xét ra tĩnh Thanh từ Cầm Thùy trở lên, đất
bỏ hoang chưa khai khẩn và người Mán gieo
trồng ruộng thuộc rất nhiều. Nay muốn sơn
phòng giữu vững, cần nên dặt ty doanh điền
và giao cho sơn phòng kiêm trông coi hoặc
mộ dân làm quân hoặc khuyên dân quyên tiền
hoặc vay vốn công, liệu cấp cho trâu cày, đồ
làm ruộng, cho tùy thế khai khẩn, sau 3-4
năm số quân đầy đủ, ruộng đất mở mang có
thể thành một nơi đô hội lớn.
Tháng 11-1875: Sai đem 7 cơ thổ binh đặt
trước ở các huyện thượng du tỉnh Thanh Hóa
Tr 93- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LIV, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
Tr 95- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LIV, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
Tr 1236, Đệ tứ kỷ - Quyển
XLIII.
Tập 7
Tr 1347, Đệ tứ kỷ - Quyển
XLVII.
Tập 7
Tr 18- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển L, tập 8- Thực
lục về Dực Tông Anh
hoàng đế.
Tr 110- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LIV, tập 8-
thuộc nha sơn phòng làm đồn điền khẩn Thực lục về Dực Tông
hoang.
Anh hoàng đế.
101
Năm 1876: Quan tỉnh Tuyên Quang xin cấp
bạc cho Ma Sĩ Hùng(người phủ Tương an),
Triệu quốc Tuấn(người Man, quyền Bá hộ),
để chiêu mộ dân xiêu tán.(Tư nói đến hạt ấy
bị giặc quấy, hao tán, Sĩ Hùng, Tiến Quốc xin
chiêu dân cày cấy khẩn hoang, buổi đầu chiêu
mộ không lấy gì sinh sống xin cấp cho mỗi
tên 20 lạng bạc, để chia cấp cho nhân dân tiện
mua trâu cày và đồ làm ruộng). Vua y cho.
Tr 115- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LV, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
102
Năm 1876: trả lại hàm Hồng lô Tự khanh cho
Nguyễn Uy đã chết nguyên trước cho làm
việc ở quân thứ Thái Nguyên. Trước Nguyễn
uy vì khoản tự tiện cho người làm việc chuộc
tội, đi theo sai phái, phải tội sung quân. Khi
ấy có người cùng làng là Nguyễn Phác phải
tội sung quân được tha phát đi làm việc khai
hẩn ruộng hoang ở Bình Thuận.
Tr 135- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LVI, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
103
Tháng 11-1876: Thống đốc Hoàng Tá Viêm
xin cho Nguyễn Mậu Kiến đổi giao cho sơn
phòng Hưng Hóa mộ dân khẩn hoang. Nói
nhà giàu to ấy có thể bỏ của ra mộ dân khẩn
hoang.
Tr 147- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LVI, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
104
Tháng 5-1877: Doanh điền sứ tỉnh Bình
Thuận là Nguyễn Thông tâu bọn người mộ
nghĩa ở Nam Kì(hơn 50 người) tình nguyện
đến các sứ Đồng My để ở đấy khai khẩn, vua
y cho.
Tr 167- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LVII, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
105
Năm 1879:…quân mộ thì lấy người hăng hái
dữ tợn cấp thêm cho tiền gạo, chọn quan võ
người nào có võ nghệ thao lược thì cai quản
huấn luyện, khiến cho cố gắng lập công, lúc
không việc thì cấp cho trâu cày và đồ làm
Tr 248- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LXI, tập 8- Thực
lục về Dực Tông Anh
hoàng đế.
106
107
108
109
ruộng, khai khẩn những ruộng bỏ hoang để
dùng cho quân, các thổ dân ở thượng du có
muốn theo đi khai khẩn chúng cho.
Năm 1879: Nay xin cho quan tỉnh ấy và
doanh điền sứ khuyên bảo dân được tùy tiện
đến chỗ bỏ không ở mạn núi, mạn biển, mộ
người khai hoang lập ấp.
Tr 255- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LXII, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
Năm 1879: Sai các quan địa phương khuyên Tr 259- Chính biên, đệ tứ
dân đi khai phá ruộng hoang.
kỉ, quyển LXII, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
Năm 1881: Chuẩn cho dân Nùng ở Cao Bằng Tr 339- Chính biên, đệ tứ
khai khẩn ruộng hoang của dân Thổ, cho kỉ, quyển LXVI, tập 8ngạch ruộng của dân Nùng làm ruộng thế Thực lục về Dực Tông
nghiệp mãi mãi.
Anh hoàng đế.
Năm 1882:Quan tỉnh Cao Bằng tâu nói: dân Tr 361- Chính biên, đệ tứ
Man gần chợ Dã tỉnh Thái Nguyên, bị giặc kỉ, quyển LXVII, tập 8cướp phá, tràn đến ở cánh đồng hạt Cao Thực lục về Dực Tông
Bằng. Xin sức cho dân ấy đều về hạ du tỉnh Anh hoàng đế.
Thái Nguyên, tìm chỗ tiện để làm ăn sinh
sống hặc khai khẩn những ruộng bỏ không,
cho khỏi lưu lạc. Vua nghe theo.
110
Năm 1882: Kinh lý sứ ở An Khê, tỉnh Bình
Định là Nguyên Trường xin trích tiền quyên
thuê dân phụ vào việc khai khẩn ruộng
hoang. Vua y cho.
Tr 368- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LXVII, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
111
Năm 1882: Xin sức cho dân ấy về hạ du tỉnh
Thái Nguyên, tìm chỗ tiện để làm ăn sinh
sống hặc khai khẩn những ruộng bỏ không,
cho khỏi lưu lạc. Vua nghe theo.
Tr 380- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LXVIII, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
112
Năm 1883: Tha tù phạm quân lưu tỉnh Bình Tr 389- - Chính biên, đệ
113
114
Thuận chia ra giao cho 2 nha kinh lý ở Bình
Định và điền nông. ở Khánh Hòa quản thúc
và xếp đặt chổ ở để khai khẩn ruộng hoang.
Năm 1883:Tha tù phạm quân lưu tỉnh Bình
Thuận chia ra giao cho 2 nha kinh lý ở Bình
Định và điền nông.
tứ kỉ, quyển LXIX, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
Tr 390- Chính biên, đệ tứ
kỉ, quyển LXIX, tập 8Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế..
Năm 1883: Bố chính Thái Nguyên là Vũ Giác Tr 398- chính biên, đệ tứ
xin chiêu mộ điền tốt đóng đồn để khai khẩn kỷ quyển LXIX, tập 8ruộng hoang.Vua y cho.
Thực lục về Dực Tông
Anh hoàng đế.
115
Năm 1883: Xếp dặt dân nghèo tỉnh Quảng
Ngãi dến tỉnh Bình Định(nha kinh lý) và tỉnh
Thuận- Khánh(nha doanh điền) liệu cấp vốn
công cho khai khẩn ruộng hoang cày cấy.
116
Mùa thu, tháng 7,1888 - cho Bắc Kỳ khai
khẩn ruộng đất bỏ hoang.
117
Cho hàng tướng nhà Minh vào khai khẩn
vùng Gia Định- Mĩ Tho.
118
Cử Nguyễn Công Trứ làm dinh điền sứ và kế
hoạch khai khẩn ruộng hoang ở Bắc Thành.
119
Định thưởng phạt về việc khai khẩn ruộng
hoang ở Nam Bộ
120
Liệt kê số ruộng mới khai khẩn được năm
trước ở 6 tỉnh Nam Kì
121
Định rõ lệnh thưởng phạt về khai khẩn ruộng
ở Nam Kì
122
Khai hoang ở Ba Xuyên và Tĩnh Biên (An
Giang)
Tr 401- chính biên, đệ tứ
kỷ quyển LXIX, tập 8thực lục về dực tông anh
hoàng đế .
.
(Tập 9;325)
Đệ lục kỷ - quyển X
Thực lục về Cảnh tông
Thuần hoàng đế.
Tr 102- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
Tr 103- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
Tr 103- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
Tr 103- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
Tr 103- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
Tr 103- Chính biên, kỷ
thứ năm (từ 1885- 1888),
tập 10.
- Xem thêm -