Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên quân đội nhân dân việt nam hiện nay...

Tài liệu Bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên quân đội nhân dân việt nam hiện nay

.DOCX
185
92
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHU XUÂN HẢI BỒI DƢỠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHU XUÂN HẢI BỒI DƢỠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM Ngành: CNDVBC&DVLS Mã số: 9 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phùng Văn Thiết 2. TS. Đào Huy Tín Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN T i in ca oan c ng tr nh nghi n c u c a ri ng t i c s i u s d ng trong u n n trung th c Nh ng k t u n n u trong u n n chưa c c ng t k c ng tr nh khoa học n o TÁC GIẢ LUẬN ÁN Chu Xuân Hải MỤC LỤC MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.................................................................................................................6 1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hoá quân sự......................................6 1.2. Những nghiên cứu về văn hoá ứng xử và văn hoá ứng xử của quân nhân quân đội nhân dân Việt Nam.................................................................................20 1.3. Những kết quả cơ bản và vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục giải quyết.................................................................................................................................................37 Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƢỠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM .. 42 2.1. Văn hoá ứng xử, và văn hóa ứng xử của thanh niên Quân đội Nhân dân Việt Nam..............................................................................................................................42 2.2. Thực chất bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam..............................................................................................................................73 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG BỒI DƢỠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................................................98 3.1. Thực trạng bồi dƣỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.........................................................................................98 3.2. Những yêu cầu đặt ra trong bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.........................................................118 Chƣơng 4: GIẢI PHÁP CƠ BẢN BỒI DƢỠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 124 4.1. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong bồi d ƣỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay . 124 4.2. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng văn hoá ứng xử của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay........130 4.3. Xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam............................................................................136 KẾT LUẬN.........................................................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................151 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT QĐNDVN Quân đội nhân dân Việt Nam XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hoá ứng xử của người việt đã được hình thành trong quá trình giao tiếp qua 4000 năm dựng nước và giữ nước. Văn hóa ứng xử là một phương diện của văn hóa, phản ánh phương thức sống của con người và trình độ văn minh của một đất nước, một dân tộc, khát vọng của con người vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ. Văn hóa ứng xử là hệ giá trị, chuẩn mực, quy tắc phản ánh đời sống hiện thực về mặt văn hóa, nó vừa là sản phẩm của con người vừa là chuẩn mực quy định hành vi con người cần tuân theo. Ứng xử có văn hoá không chỉ tạo nên vẻ đẹp cho từng cá nhân, mà còn phản ánh bản sắc văn hoá của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Văn hoá ứng xử có những cấp độ khác nhau, nhưng nói chung bắt đầu từ cách ứng xử tử tế, chân thành, khiêm tốn, trung thực và thấm đẫm tình người trong quan hệ giao tiếp hàng ngày. Những điều tưởng như đơn giản ấy, thực ra lại có vai trò quan trọng và mang lại giá trị to lớn đối với mỗi người và xã hội. Ngày nay, mặc dù xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng văn hóa ứng xử vẫn có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo nên các mối quan hệ có văn hóa, có đạo đức trong cộng đồng dân cư và xã hội, đồng thời giúp con người giải quyết đúng đắn và hiệu quả các quan hệ phức tạp trong cuộc sống. Là một bộ phận của xã hội, thanh niên QĐNDVN lực lượng đông đảo nhất, trực tiếp thực hiện chức năng chiến đấu, sản xuất và công tác của quân đội. Trong thực hiện nhiệm vụ họ phải ứng xử, giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp, đặc thù. Hơn 74 năm xây dựng và trưởng thành, thanh niên QĐNDVN đã góp phần tạo dựng nên nét văn hóa ứng xử độc đáo - văn hóa ứng xử “Bộ đội Cụ Hồ” với những chuẩn mực, giá trị cốt lõi: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi chiêu đãi mừng quân đội ta tròn 20 tuổi đã nói: “Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, 1 học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau” [57, 435]. Những chuẩn mực, giá trị ấy giữ vai trò định hướng, là động lực thôi thúc các thế hệ thanh niên quân đội ta không ngừng phấn đấu, vươn lên hoàn thiện nhân cách, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, trước tác động của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông đại chúng làm cho văn hóa ứng xử của xã hội nói chung, thanh niên QĐNDVN nói riêng có sự biến động theo hai chiều thuận, nghịch. Một ặt, những giá trị cốt lõi trong văn hóa ứng xử của thanh niên quân đội tiếp tục được phát huy, bổ sung nội dung mới và phát triển phù hợp điều kiện mới. Thái độ, hành vi ứng xử của hầu hết thanh niên quân đội đúng điều lệnh, chuẩn mực văn hoá xã hội, văn hoá quân sự, khơi dậy, phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc, quân đội và đơn vị. Mặt khác, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, các hiện tượng tiêu cực xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch và trình độ hạn chế về nhận thức, một số thanh niên QĐNDVN đã có biểu hiện lệch chuẩn. Họ có thái độ, hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực trong giao tiếp, sinh hoạt… gây mất đoàn kết, ý thức trách nhiệm trong rèn luyện, công tác chưa cao, thậm chí vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội…Những biểu hiện đó đã cản trở sự phát triển, hoàn thiện nhân cách quân nhân, làm xấu đi hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng xây dựng đơn vị, quân đội vững mạnh toàn diện. Điều đó, đòi hỏi phải tăng cường bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sự trưởng thành về văn hoá ứng xử của thanh niên QĐNDVN trải qua quá trình phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó giáo dục, bồi dưỡng ở các đơn vị cơ sở có vai trò quan trọng hàng đầu. Nhìn chung công tác bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN những năm qua đã được lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị hết sức quan tâm. Nội dung, biện pháp bồi dưỡng được xác định phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời mỗi thanh 2 niên đã phát huy tính tích cực, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện tạo ra bước phát triển về văn hoá ứng xử. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả công tác bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên quân đội so với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới vẫn còn có mặt hạn chế, bất cập cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Một số cấp uỷ Đảng, cơ quan, chính ủy và người chỉ huy chưa quan tâm đúng mức, thiếu tích cực, chủ động, sáng tạo trong đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên. Bên cạnh đó, một số thanh niên chưa thật chủ động trong tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ văn hóa ứng xử của mình. Do đó, bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết cần được nhận thức và thực hiện trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Liên quan đến vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu làm sáng tỏ cả lý luận và thực tiễn về văn hóa ứng xử và văn hóa ứng xử quân nhân QĐNDVN, nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu dưới góc độ triết học một cách cơ bản, hệ thống về bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN hiện nay. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Tiếp cận dưới góc độ triết học, luận án trình bày làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN. Đồng thời đề xuất giải pháp cơ bản bổ sung, củng cố, phát triển văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. 2.2. Nhiệm vụ Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa ứng xử và bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN. 3 Phân tích, đánh giá thực trạng bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN, chỉ ra nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra trong bồi dưỡng phát triển văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN hiện nay. Đề xuất giải pháp cơ bản bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN với tư cách là hoạt động xã hội nhằm xây dựng và phát triển văn hóa ứng xử quân nhân. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN là vấn đề rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ triết học, tập trung nghiên cứu văn hóa ứng xử của thanh niên QĐNDVN và bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN trong thực tiễn hoạt động quân sự. Phạm vi khảo sát: thông qua các báo cáo tổng kết, đánh giá hàng năm của Ban thanh niên Quân đội, các cơ quan, đơn vị và qua khảo sát thực tế ở một số đơn vị, nhà trường quân đội khu vực phía Bắc từ năm 2010 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn Cơ sở lý luận chủ yếu của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị về văn hóa, phát triển và xây dựng đời sống văn hóa. Đồng thời luận án cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tập thể, cá nhân trong và ngoài quân đội về những vấn đề liên quan đến đề tài. Cơ sở thực tiễn chủ yếu của luận án là tình hình thực tế việc bồi dưỡng văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN từ năm 2010 đến nay, qua các báo cáo tổng kết, đánh giá của Ban Thanh niên Quân đội và các cơ quan, đơn vị; kết 4 hợp với việc xử lý chọn lọc kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả ở một số đơn vị đủ quân, nhà trường quân đội khu vực phía Bắc. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp liên nghành khoa học xã hội khác như phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống hoá, khái quát hoá. Bên cạch đó, luận án có kết hợp sử dụng phương pháp điều tra xã hội học ở một số đơn vị đủ quân, nhà trường khu vực phía Bắc, xin ý kiến chuyên gia và nghiên cứu số liệu báo cáo tổng kết hàng năm của các cơ quan, đơn vị, của Ban Thanh niên Quân đội. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Dưới góc độ triết học, trên cơ sở nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống, rõ ràng vấn đề dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN trong hoạt động quân sự. Luận án đóng góp thêm về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN nói riêng, bồi dưỡng văn hóa ứng xử nói chung trong tình hình hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn cho các chủ thể vận dụng hiệu quả vào bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho thanh niên QĐNDVN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Luận án có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, ứng dụng trong bồi dưỡng, xây dựng, phát triển văn hóa ứng xử cho thanh niên QĐNDVN ở các cơ quan, đơn vị. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hoá quân sự * Các công trình nghiên cứu về văn hoá Có một số công trình khoa học trực tiếp nghiên cứu về vấn đề liên quan đến luận án với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, ở các phạm vi khác nhau, trong đó nổi bật là: ý u n về văn ho v nh n c ch Khi nghiên cứu văn hoá và nhân cách trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển, tác giả A.Lunatsaroxki trong “Tại sao kh ng thể tin v o chúa” [43], đã chỉ ra: sự tồn tại trọn vẹn của con người, sự phát triển toàn diện lực lượng sáng tạo, trí tưởng tượng, đời sống tình cảm cũng như đời sống thể lực của con người - đó là các hiện tượng cơ bản của văn hóa. Tác giả P.N.Phedoxeep, “Văn h a v ạo c” [69], khẳng định: Đối với chủ nghĩa Mác, văn hóa không phải là một hệ thống khép kín các giá trị riêng biệt, đó là một tổng thể các thành tựu vật chất và tinh thần đang phát triển của nhân loại mà trong khuôn khổ các thành tựu đó một phương thức hoạt động thực tiễn - xã hội nhất định của con người trong mỗi thời đại được thực hiện. Tác giả A.G.Egorop trong “Nh n c ch v ch nghĩa văn h a trong iều ki n hội ph t triển” [23], đã luận chứng khá sâu sắc dưới góc độ triết học, xã hội học; chỉ ra sự tương tác chặt chẽ giữa văn hoá và nhân cách; khẳng định: khi nói tới văn hóa không chỉ có ý nói đến các kết quả hoạt động, mà nói đến cả tính chất hoạt động, trong chừng mực nó góp phần phát triển tiềm năng tinh thần của con người và toàn bộ các quan hệ lý luận, kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ của con người với thực tại. Tác giả L.M.Áckhanghenxki, chủ biên “ h nghĩa hội v nh n c ch”[04], tuy không bàn trực tiếp về văn hóa nhưng trong chương VI “nhân cách và văn hóa” đã đưa ra quan niệm và vai trò của văn hóa đối với hình 6 thành nhân cách. Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử tác giả đưa ra quan niệm về văn hóa: “văn h a ược hiểu như c ượng ản ch t c a con người trong họ, như ột phương th c nh t c ộ th c hi n c c ọi qu tr nh hoạt ộng ịnh c a hoạt ộng hội c a ”[04,187]. Tác giả khẳng định: văn hóa là đặc trưng phổ biến của tất cả các mặt hoạt động của con người; mọi khuynh hướng tiên tiến, tiến bộ trong văn hóa đều luôn có tác động tới việc hoàn thiện nhân cách và ngược lại; trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, các yếu tố cơ bản của hệ thống văn hóa đều tham gia vào việc hình thành nhân cách; việc giáo dục hình thành nhân cách đã trở thành chức năng có tính mục đích cực kỳ quan trọng của văn hóa. Tác giả cũng luận giải một cách sâu sắc quan hệ hiện chứng giữa văn hóa và nhân cách “Dưới chủ nghĩa xã hội đang diễn ra quá trình “tiêu dùng văn hóa vì mục đích sản xuất”, tức là đối với nhân cách xã hội chủ nghĩa, tiêu dùng các giá trị văn hóa là phương tiện, là cơ sở để thực hiện nhân cách, để tự sáng tạo văn hóa. Nhân cách xã hội chủ nghĩa vừa là kh ch thể, vừa là ch thể c a hoạt ộng văn h a, còn văn hóa xã hội chủ nghĩa là phương ti n v k t quả c a s ph t triển nh n c ch” [04,198]. Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển, văn hóa thực sự tạo nên nhân cách phát triển toàn diện. Tác giả La Quốc Kiệt, nhà nghiên cứu ở Trung Quốc, trong “Tu dưỡng ạo c tư tư ng” [36], đã đưa ra quan điểm về nhân cách, giá trị, luận chứng bản chất và sự thống nhất giữa giá trị bản thân và giá trị xã hội trong nhân cách; đặc biệt, đã làm rõ khái niệm “t ch t văn ho ”, coi đó là tố chất cơ sở, nó thẩm thấu và ảnh hưởng rất mạnh đối với sự hình thành, phát triển các tố chất khác. Việc tu dưỡng tố chất văn hoá là điều kiện tiên quyết nhằm hoàn thiện nhân cách ở mỗi người. Tuy nhiên “văn hoá” ở đây chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là “trình độ học vấn”. Tác giả Trần Ngọc Thêm, trong “ ơ s văn ho Vi t Na ”[78], đã trình bày hệ thống văn hoá Việt Nam theo chiều đồng đại, trong mỗi thành tố, 7 mỗi bộ phận của thành tố được tác giả chú ý xem xét tới tính lịch đại của nó. Ở đó, tiến trình văn hoá Việt Nam được trình bày theo một lôgic nhất quán, bắt đầu từ điều kiện vật chất quy định và định vị văn hoá Việt Nam ở văn hoá nhận thức và văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng. Trong nội dung cuốn sách tác giả cũng tập trung phân tích, làm rõ cách ứng xử của người Việt Nam với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; sự giao lưu giữa văn hoá bản địa với các nền văn hoá khác trong quá khứ, và kết thúc bằng việc xem xét cuộc “đối mặt” đang diễn ra giữa văn hoá cổ truyền với nền kinh tế thị trường và sự xâm nhập của văn minh phương Tây hiện đại. Tác giả Nguyễn Văn Huyên, “Văn h a v văn h a chính trị từ cách nhìn ti p c n c a tri t học chính trị c ít” [34], làm rõ phạm trù văn hóa và chính trị; dưới góc độ triết học văn hoá. Tác giả khẳng định: mục tiêu chính trị có nhân văn hay phản nhân văn; hệ thống chính trị, thiết chế chính trị, cơ chế chính trị có khoa học hay không khoa học; phương thức tổ chức và ứng xử chính trị có phù hợp với đạo lý con người, có dân chủ hay không... nói lên văn hoá của nền chính trị. Trên cơ sở đó, đưa ra và phân tích quan niệm: văn ho chính trị trị, phẩ ch chính trị nh t hợp với diện của văn hoá, cho nên văn hoá chính trị là “lát cắt bổ dọc” lịch sử văn hoá theo lĩnh vực hoạt động chính trị. Những bản chất, tính chất, đặc trưng và kết cấu của văn hoá đều có mặt trong văn hoá chính trị. Cái riêng của văn hoá chính trị ở đây chỉ là những bản chất, đặc tính, yếu tố văn hoá đó biểu hiện trong lĩnh vực hoạt động chính trị mà thôi. Cái đặc trưng nhất của văn hoá chính trị là sức sống, sức mạnh của một nền chính trị vươn tới những giá trị cao đẹp, tới xã hội nhân đạo, nhân văn. Tác giả kết luận: văn hoá nói chung, văn hoá chính trị nói riêng vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - 8 xã hội. Vì vậy, nâng cao văn hoá chính trị là nhu cầu tất yếu và bức xúc của sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Tác giả Trần Ngọc Thêm, “Kh i u n về văn ho ”[79], đã khẳng định văn hóa được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn ho bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…). Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Tác giả cho rằng, định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh: “V ới s ng tạo v học, t n gi o, văn học, ngh thu ăn, ặc, t v c c phương th c văn h a Văn h a với iểu hi n c a n cầu ời s ng v giả, mặc dù văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và phức tạp, với nhiều đặc trưng, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau, nhưng vẫn có thể thấy nổi lên bốn đặc trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh, tính gi trị, tính h th ng và tính ịch s - đây là những đặc trưng cần và đủ cho phép phân biệt văn hóa với những khái niệm có liên quan. 9 Tác giả Nguyễn Trần Bạt, “Kh i ni v ản ch t ca văn h a”[ChúngTa.com, 13/3/2017], cho rằng, đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của mình. Theo tác giả, văn hóa, nói một cách giản dị: “ tr nh ịch s với nhau Th ng qua ỗi với nh v gọi văn h a”. Từ đó khẳng định: văn hóa là một h tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Đồng thời đi sâu phân tích sự khác biệt và quan hệ giữa các khái niệm: văn hóa và văn minh, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. * Các công trình nghiên cứu về văn hóa quân sự Văn hóa quân sự hình thành từ khi con người biết tổ chức các lực lượng vũ trang để chiến đấu đến ngày nay. Việc nghiên cứu văn hóa quân sự cũng được quan tâm từ rất sớm, nhưng với tư cách là một thuật ngữ khoa học thì mới chính thức xuất hiện từ cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, đến nay văn hóa quân sự vẫn được hiểu và định nghĩa khác nhau tùy vào truyền thống, hoàn cảnh quân sự của mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Tổng cục Chính trị “ hặng ường 5 nă d ng i truờng văn ho trong c c th c hi n cuộc v n ơn vị qu n ộng ội” [86] đã đăng tải tiêu chuẩn đơn vị có môi trường văn hoá tốt, những kinh nghiệm xây dựng môi trường văn hoá ở một số loại hình đơn vị cơ sở thuộc quân khu, quân đoàn, quân chủng. Tác giả Đoàn Mô, chủ nhiệm đề tài “N ng cao ch t ượng hoạt văn ho ơn vị cơ s trong Qu n ội nh n d n Vi t Na 10 ộng hi n na ” [52], luận giải tương đối toàn diện việc tổ chức các hoạt động văn hoá ở đơn vị cơ sở trong quân đội. Theo các tác giả, hoạt động văn hoá ở đơn vị cơ sở có thể chia thành hai nhóm: nhóm hoạt động thuần văn hoá (hay còn gọi là hoạt động văn hoá) và nhóm hoạt động văn hoá hoá nhằm xây dựng đời sống văn hoá từ các hoạt động của tập thể quân nhân. Tác giả Trần Văn Giàu, “Th n về c u trúc văn h a qu n s Vi t Na ”[24], tác giả chỉ rõ: xuất hiện từ thời đại các vua Hùng, định hình với đầy đủ vóc dáng, phẩm giá, bản lĩnh trong thời đại Hồ Chí Minh, văn hóa quân sự Việt Nam có cấu trúc hết sức phức tạp cả về chiều sâu và diện rộng. Đó là sự dung hợp giữa giá trị văn hóa với giá trị quân sự được biểu hiện ở tất cả các yếu tố cấu thành vòng cộng đồng văn hóa ấy. Theo chiều s u, giá trị văn hóa quân sự hiện diện như một dòng chảy liên tục từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đến các giá trị văn hóa quân sự đang được sáng tạo theo xu hướng phát triển ngày càng tiên tiến. Cấu trúc văn hóa quân sự theo chiều sâu còn được phân định bởi các yếu tố: tư tưởng - văn hóa; tâm lý - văn hóa; chuẩn mực văn hóa và biểu tượng - văn hóa trong lĩnh vực quân sự. Theo di n rộng, với tư cách một phương diện của đời sống xã hội văn hóa thâm nhập vào tất cả mọi phương diện cùng những hoạt động của con người trong cộng đồng. Chính sự thâm nhập đó làm nảy sinh những hình thái biểu hiện đa dạng của văn hóa quân sự dưới các loại hình văn hóa: chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu; huấn luyện, chỉ huy, pháp luật và kỷ luật, chính trị - quân sự, kinh tế, kỹ thuật, ứng xử và giao tiếp, đạo đức, nghệ thuật, thể chất và thẩm mỹ quân sự. Với cấu trúc như vậy, văn hóa quân sự Việt Nam có vai trò đặc biệt trong phát triển phẩm chất, tinh thần của con người quân sự và xây dựng quân đội; xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân; xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc của dân tộc. Đặc biệt với hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ” sự giá trị văn hóa đó là sự đan kết những tinh túy nhất của văn hóa quân 11 truyền thống của dân tộc trong dòng sông lịch sử Việt Nam với bản chất cách mạng của thời đại Hồ Chí Minh. Tác giả Trần Văn Giàu, “B n về ản ch t văn h a qu n s ” Vi t Na [25], từ phân tích lịch sử hình thành, phát triển văn hóa quân sự Việt Nam, tác giả khẳng định: ản ch t văn h a qu n s Vi t Na trước h t ược iểu hi n qua tổng thể c c d u n s ng tạo v nh n văn trong tổ ch c cũng như hoạt ộng c a c ượng vũ trang c ch ạng trong s nghi p gi nước c a d n tộc. Theo tác giả, dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, tính đặc thù của văn hóa quân sự Việt Nam vẫn được thể hiện cả trong mục đích, phương thức tiến hành chiến tranh, tính chất xã hội - chính trị và hiệu quả xã hội của nền văn hóa đó tạo ra; vấn đề cốt lõi của văn hóa quân sự Việt Nam là bản chất sáng tạo và nhân văn theo tiêu chí chân - thiện - mỹ. Từ kết quả phân tích ở các góc độ khác nhau, tác giả kết luận: có thể hiểu văn hóa quân sự Việt Nam là một phạm trù rất rộng, trong đó phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa tổ chức quân sự và các hoạt động quân sự; giữa con người quân sự với tổ chức, hoạt động và môi trường quân sự. Tác giả Đoàn Chương, “Văn h a qu n s , văn h a nh giặc v nh giặc c văn h a”[13], theo tác giả, quân sự là một lĩnh vực phức tạp, được cấu thành bởi: tư tưởng, học thuyết quân sự; nghệ thuật quân sự; tổ chức quân sự; kỹ thuật quân sự. Cho nên, nghiên cứu văn hóa quân sự cần phải đi sâu vào các lĩnh vực ấy. Tác giả đã luận giải một cách sâu sắc sự thấm đượm chủ nghĩa nhân văn, giá trị văn hóa trong các lĩnh vực trên của hoạt động quân sự Việt Nam. Từ đó kết luận: chủ nghĩa nhân văn, tính tiến công cách mạng và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là những nét đặc trưng của văn hóa quân sự Việt Nam. Minh chứng cho nhận định trên, tác giả trích lời dạy của Hồ Chí Minh trong khi nói chuyện với cán bộ, giáo viên, học viên trường Chính trị trung cấp quân đội ở Việt Bắc 25/10/1951 “Ri ng về c c chú, chính trị iểu hi n ra trong úc nh giặc”. Tác giả nhấn mạnh: chính trị quân sự là vậy, văn hóa quân sự cũng 12 phải như vậy. Văn hóa quân sự với người lính chúng ta - phải là văn hóa đánh giặc và đánh giặc có văn hóa. Tác giả Dương Xuân Đống, “Văn h a qu n s Vi t Na với c ích ch n, thi n, ỹ” [20], tác giả cho rằng, văn hóa quân sự nói chung, đặc biệt là văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng, cũng là một loại hình văn hóa. Nó là một chi lưu của dòng sông văn hóa dân tộc Việt Nam. Luận chứng cho nhận định trên, tác giả xem xét động cơ nào buộc phải tiến hành chiến tranh, chiến tranh tiến hành theo phương pháp nào để ít tổn thương nhất đối với nhân dân, đối với kẻ thù đã hạ vũ khí... dưới góc độ văn hóa và chứng minh bằng các cuộc chiến tranh giữ nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Tác giả kết luận: hoạt động đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm ở Việt Nam mang tính nhân văn rõ rệt vì nó luôn luôn hướng tới mục đích chân, thiện, mỹ. Nội dung đó được thể hiện rõ rệt nhất trong nghệ thuật quân sự, bộ mặt rực rỡ nhất của văn hóa quân sự Việt Nam và cũng là nơi tập trung mọi sáng tạo cao nhất về trí tuệ của con người trong chiến tranh chống ngoại xâm. Tác giả khái quát những biểu hiện cụ thể của văn hóa quân sự Việt Nam: văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn thực hiện những cuộc chiến tranh chính nghĩa để giữ nước, không xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào; văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn hướng tới điều lành, né tránh điều dữ, cố gắng hạn chế tới mức thấp nhất, không cho chiến tranh xảy ra; văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn hướng tới cái đẹp bằng cách đấu tranh kiên cường, kiên quyết giành cho được thắng lợi trong mọi cuộc chống xâm lược, mở đường, đi tới tự do, hạnh phức cho nhân dân. Tác giả Lê Quý Đức, “Một s v n ề ý u n văn h a qu n s ” [22], phân tích quan niệm của một số nhà quân sự, quân sự học nước ngoài và trong nước: David Hogg (Hoa Kỳ), Lâm Kiến Di, Trương Khải Minh (Trung Quốc), Nicola Di Cosmo (Anh), Jock Deacon (Nam Phi), Martin Antonio Balza Teniente (Achentina), các tác giả B ch khoa tri th c qu c phòng toàn dân, Lê 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất