ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--- ---
ĐINH HẠNH NGA
ẢNH HƯỞNG CỦA
NHO GIÁO ĐẾN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ
CHỒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2007
§¹i häc quèc gia hµ néi
Khoa luËt
§inh H¹nh Nga
¶nh h-ëng cña
nho gi¸o ®Õn c¸c quy ®Þnh ph¸p
luËt viÖt nam vÒ mèi quan hÖ gi÷a vî vµ chång
chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
m· sè
: 603830
luËn v¨n th¹c sü luËt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: pgs.ts. Hµ thÞ mai hiªn
Hµ néi, 2007
MỤC LỤC
Mục lục .........................................................................................................................1
Bảng chữ cái viết tắt ...................................................................................................3
Mở đầu ..........................................................................................................................4
Nội dung .......................................................................................................................5
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ
BIÊN TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................................................6
1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự ....6
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản ...................................................................6
1.1.2. Kê biên tài sản – Biện pháp cưỡng chế để thi hành án dân sự ....7
1.1.2.1. Điều kiện để chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản của người phải THA ........................................9
1.1.2.2. Xử lý tài sản đã kê biên ...................................................................9
1.1.3. Sự khác biệt giữa kê biên tài sản là một biện pháp khẩn cấp tạm
thời với kê biên tài sản – biện pháp cưỡng chế để thi hành án dân sự 12
1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để THA ....... 15
1.2. Sơ lược về sự phát triển của chế định cưỡng chế kê biên tài sản trong
quá trình phát triển của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam ..................... 16
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960 ............................................................ 16
1.2.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1989 ............................................................ 17
1.2.3. Giai đoạn từ 1989 đến 1993 ............................................................ 20
1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến 2004 ............................................................ 22
1.2.5. Giai đoạn từ 2004 đến nay ............................................................. 23
Chƣơng 2. NỘI DUNG BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN TÀI SẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM ..................................................................................... 25
2.1. Kê biên tài sản....................................................................................... 25
1
2.1.1. Kê biên tài sản của cá nhân để THA ............................................. 25
2.1.1.1 Những nguyên tắc kê biên tài sản ................................................ 25
2.1.1.2. Những tài sản không được kê biên ............................................. 26
2.1.2.3. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản của người phải
THA............28
2.1.2. Kê biên tài sản của Doanh nghiệp để THA................................. 31
2.1.2.1. Phạm vi tài sản kê biên ................................................................. 32
2.1.2.2. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản của doanh nghiệp để THA .. 33
2.2. Xử lý tài sản để đã biên...................................................................... 35
2.2.1. Giao tài sản để thi hành án .............................................................. 35
2.2.2. Định giá tài sản kê biên ................................................................... 36
2.2.3. Bán đấu giá tài sản đã kê biên ........................................................ 38
2.2.3.1. Chủ thể bán đấu giá ....................................................................... 39
2.2.3.2.Thủ tục bán đấu giá tài sản đã kê biên ........................................ 40
Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HIỆN NAY ..................................... 45
3.1. Những kết quả đạt được ...................................................................... 45
3.2. Những vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản để THA ............................................................ 47
3.2.1. Xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan ................................. 47
3.2.2. Xuất phát từ những nguyên nhân khách quan ............................. 48
3.2.3. Những bất cập từ các quy định về kê biên tài sản ...................... 53
3.3. Khuyến nghị .......................................................................................... 58
Kết luận ..................................................................................................................... 62
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................. 64
2
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THA
Thi hành án
THADS
Thi hành án dân sự
PLTHADS
Pháp lệnh thi hành án dân sự
PLTTGQCVADS
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
KBTS
Kê biên tài sản
CHV
Chấp hành viên
CQTHADS
Cơ quan thi hành án dân sự
BTP
Bộ tư pháp
TAND
Tòa án nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
BLDS
Bộ luật Dân sự
3
MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự là thực hiện bản án, quyết định dân sự của Tòa án.
Việc thi hành án đạt hiệu quả, một mặt sẽ bảo đảm được việc thực hiện quyền
lực Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của mọi chủ thể trong xã hội đối với phán
quyết của Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước. Mặt khác, nó là một biện
pháp hữu hiệu để khôi phục lại các lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân đã bị xâm hại.
Trong giai đoạn hiện nay, thi hành án dân sự là một vấn đề bức xúc, bởi
trong quá trình thực thi pháp luật về thi hành án dân sự đã nảy sinh những vấn
đề mới cần phải giải quyết. Mặc khác bản thân nó phải chịu áp lực từ nhiều
phía, nhiều nguyên nhân khác nhau (chủ quan, khách quan) làm cho việc
THADS gặp nhiều khó khăn. Trong đó, việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nói chung và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng cũng có không
ít những trở ngại cả về mặt pháp lý cũng như thực tiễn. Có những quy định
chưa chặt chẽ, rõ ràng, có những quy định không còn phù hợp; ngoài ra còn
có những vấn đề thực tiễn đòi hỏi cần phải giải quyết nhưng pháp luật lại
chưa quy định. Những yếu tố này dẫn tới cưỡng chế kê biên tài sản để THA
nhiều khi không đạt hiệu quả, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng THADS
hiện nay. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp cưỡng chế
KBTS và quá trình áp dụng trong thực tế là cơ sở quan trọng cho việc hoàn
thiện về mặt pháp luật đồng thời tìm ra được những thiếu sót, vướng mắc về
mặt lý luận cũng như thực tiễn của biện pháp cưỡng chế KBTS để THADS, từ
đó nâng cao hiệu quả khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế góp phần vào việc
đẩy mạnh công tác THADS nói chung.
Hiện nay đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về THADS,
song riêng về các biện pháp cưỡng chế THA trong đó có biện pháp cưỡng chế
KBTS chưa có công trình nào nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này. Để góp phần
nâng cao hiệu quả THADS thì việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định
của pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để THA là cần thiết.
4
Chính vì thế tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu này làm Luận văn tốt
nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật thi hành án
dân sự Việt Nam về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án và
thực tiễn áp dụng các quy định đó, chủ yếu từ khi pháp lệnh THADS 1993 và
pháp lệnh THADS 2004 có hiệu lực cho đến nay. Trong đó tập trung xem xét,
nghiên cứu những tồn tại cơ bản của hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản để
THA trong mối quan hệ với hiện trạng pháp luật như là một nguyên nhân
chính bên cạnh các nguyên nhân khác.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để THA nhằm nhận thức đúng đắn hơn
về cưỡng chế kê biên tài sản từ đó thấy được vai trò quan trọng của nó đối với
hiệu quả của hoạt động THA; đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu tìm ra những
vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng pháp luật về biện pháp cưỡng
chế kê biên tài sản và đưa ra những đề xuất cụ thể
Khi nghiên cứu đề tài này tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp cụ thể
như: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp… Cơ cấu của luận văn được
trình bày thành 3 phần : Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.
Mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài.
Nội dung: Gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án dân sự
Chương 2: Nội dung của biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để THA
theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để
THA và một số khuyến nghị.
Kết luận: Khẳng định, khái quát kết quả nghiên cứu.
5
6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ KÊ
BIÊN TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1998 thì kê biên là một từ Hán - Việt. “Kê” nghĩa là tính toán, còn
“biên” có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Vậy kê biên có
nghĩa là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Về tài sản, hiện
nay chúng ta chưa có một khái niệm khát quát về tài sản mà chỉ có một định
nghĩa mang tính chất liệt kê: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản (Điều 163 BLDS 2005)
Thuật ngữ kê biên tài sản đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp
luật của nước ta như pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989,
pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, 2004… do đó, có thể thấy rằng đây là một
thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong pháp luật tố tụng dân sự. Trong
cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng cũng của nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa KBTS như sau: “Kê biên tài sản là
việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét
xử và thi hành án”.
Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và
ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản ở
đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Từ những năm 1989 trở về trước, trong pháp luật tố tụng dân sự nước
ta chưa có sự phân biệt rõ ràng hai khái niệm kê biên tài sản và tịch biên tài
sản. Song mỗi khái niệm về một sự vật hiện tượng luôn gắn với một hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, trong quá trình phát triển các nhà lập pháp đã có sự phân
biệt về hai khái niệm này. Kê biên chỉ là một hình thức ghi lại tài sản theo thứ
tự và áp dụng đối với tài sản hợp pháp của một chủ thể, còn tịch biên thường
7
được áp dụng đối với tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp. Cũng chính vì thế
mà nó kéo theo hậu quả pháp lý khác nhau. Tài sản bị tịch biên thường bị
sung công quỹ Nhà nước, tài sản kê biên sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ
của người có tài sản bị kê biên, có nghĩa là không bị sung công quỹ Nhà
nước. Như vậy, tịch biên có thể gọi là tịch thu sung công quỹ Nhà nước
những tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, nó có bản chất hoàn toàn khác với
kê biên.
Qua khái niệm KBTS ta thấy rằng trong đời sống hàng ngày có những
khái niệm tương tự, gần giống với kê biên. Nhưng KBTS luôn gắn với một
chủ thể nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, vì thế không phải ai
cũng có quyền KBTS của người khác, không phải hành động nào tương tự
cũng được gọi là kê biên. Trong quá trình tố tụng dân sự nhiều chủ thể có
quyền áp dụng biện pháp KBTS nhưng việc áp dụng ấy có tính chất và mục
đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào KBTS cũng được áp dung với
tính chất là một biện pháp cưỡng chế để THA. Điều này chúng tôi sẽ làm rõ ở
phần tiếp theo.
1.1.2. Kê biên tài sản - Biện pháp cƣỡng chế để thi hành án dân sự.
Điều 18 PLTHADS 2004 quy định: “ Khi bản án, quyết định của Tòa
án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này thì Tòa án đã
tuyên án, quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi
hành án bản án hoặc quyết định có ghi “để thi hành”. Toà án phải giải thích
cho người được thi hành án, người phải thi hành án về quyền yêu cầu, thời
hạn yêu cầu thi hành án và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật ”.
Người được THA căn cứ vào bản sao quyết định, bản án đó có quyền
yêu cầu cơ quan THA thi hành. Đơn yêu cầu THA phải được gửi kèm cùng
bản sao bản án, quyết định và phải được gửi trong thời hiệu THA. Sau khi
nhận bản sao bản án, quyết định cùng với đơn yêu cầu của người được THA,
cơ quan THA phải vảo sổ nhận bản sao bản án, quyết định, sổ nhận đơn yêu
cầu THA. Đồng thời cơ quan THA phải cấp cho đương sự phiếu nhận đơn
8
ngay sau khi nhận đơn yêu cầu THA của đương sự. Sổ nhận đơn yêu cầu
THA phải ghi rõ nội dung yêu cầu THA của đương sự. Theo khoản 2, khoản
3, Điều 9 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP, nếu đơn yêu cầu THA không đúng
quy định thì cơ quan THA hướng dẫn người yêu cầu THA làm lại đơn đúng
quy định.
Nếu người được THA trực tiếp trình bày yêu cầu THA bằng lời nói tại
cơ quan THA thì cơ quan THA phải lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu theo
đúng hướng dẫn về đơn yêu cầu quy định tại Điều 6 Nghị định số
173/2004/NĐ-CP. sau đó, yêu cầu người yêu cầu ký vào biên bản hoặc nếu
không biết chữ thì điểm chỉ. Biên bản cũng có chữ ký của cán bộ lập biên bản,
biên bản thay cho đơn yêu cầu THA. Cán bộ lập biên bản cũng phải làm thủ
tục vào sổ nhận đơn yêu cầu và cấp cho người yêu cầu phiếu nhận đơn như
đối với trường hợp nhận đơn yêu cầu của đương sự. Thời hạn ra quyết định
thi hành án là năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định;
đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định
thi hành án.
Sau khi có quyết định THA, Thủ trưởng cơ quan thi hành án (CQTHA)
phải phân công chấp hành viên là nhiệm vụ thi hành. Chấp hành viên bắt đầu
thủ tục THA bằng thông báo cho người được THA, người phải THA về việc
THA. Chấp hành viên cũng định cho người phải THA thời hạn không quá 30
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định THA để tự nguyện THA (Điều 6 Pháp
lệnh THADS 2004). Nếu hết thời hạn này mà người phải THA không tự
nguyện thi hành thì chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế THA. Trong
trường hợp cụ thể CHV có quyền kê biên tài sản của người phải THA.
Như vậy, kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, chủ
thể có quyền áp dụng là cơ quan THA dân sự mà cụ thể là chấp hành viên
được phân công trách nhiệm thi hành bản án, quyết định dân sự đó. Tài sản bị
kê biên là tài sản của người phải THA, người phải THA này có thể là cá nhân
9
hoặc tổ chức đã được xác định cụ thể, đích danh trong quyết định, bản án
được mang ra thi hành.
1.1.2.1. Điều kiện để chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng
chế kê biên tài sản của người phải THA là:
Bản án, quyết định dân sự được thi hành (bao gồm những bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng thi hành ngay - Điều 2 Pháp lệnh THADS 2004).
Có quyết định THA của người có thẩm quyền.
Bản án, quyết định được thi hành là bản án, quyết định về tài sản, hoặc
có liên quan đến tài sản.
Người phải thi hành án có tài sản và tài sản đó thuộc phạm vi tài sản
được phép kê biên theo pháp luật hiện hành.
Người phải THA đã không THA trong thời hạn tự nguyện.
Khi có đầy đủ các căn cứ trên thì CHV có quyền ra quyết định KBTS
của người phải THA. Tuy vậy, pháp luật cũng cho phép trong trường hợp sau
thì CHV có quyền kê biên ngay tài sản của người phải THA (Khoản 2 Điều 7
Pháp lệnh THADS 2004):
Phát hiện người phải THA có hành vi tẩu tán tài sản.
Người phải THA có hành vi hủy hoại tài sản.
Phát hiện người phải THA có hành vi trốn tránh việc THA.
Tài sản đã kê biên được định giá và giao bảo quản theo quy định của pháp
luật để chờ xử lý.
1.1.2.2. Xử lý tài sản đã kê biên
Tài sản đã kê biên được trả lại cho chủ sở hữu nếu như tài sản đã kê
biên nhưng xác định được tài sản đó không phải là của người phải
THA, hoặc trước khi xử lý tài sản kê biên người phải THA đã thực hiện
nghĩa vụ THA hoặc khi có quyết định đình chỉ THA của người có thẩm
quyền thì Thủ trưởng cơ quan THA trả lại đơn yêu cầu THA (nếu có),
10
đồng thời ra quyết định giải toả kê biên, tài sản đã kê biên được trả lại
cho người có tài sản đã bị kê biên.
Nếu không thuộc các trường hợp trên thì khi hết thời hạn luật định, tài
sản đã kê biên được đem bán đấu giá để lấy tiền thực hiện nghĩa vụ
THA của người phải THA.
Việc bán đấu giá được tiến hành theo quy định của pháp luật, tiền bán
tài sản kê biên sau khi trừ mọi chi phí THA sẽ được thanh toán theo một thứ
tự ưu tiên nhất định. Sau khi thanh toán đầy đủ nghĩa vụ THA, nếu còn thì
CHV trả lại cho người phải THA.
Như vậy, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là để đảm
bảo thi hành bản án, quyết định của Tòa án về tài sản. Khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế này CHV nhân danh quyền lực Nhà nước tiến hành ghi lại từng tài
sản của người phải THA, theo một trình tự nhất định để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ THA về tài sản của người đó. Sau một thời gian nhất định, nếu
người phải THA không thực hiện nghĩa vụ thì tài sản này được mang bán đấu
giá để lấy tiền thi hành án.
11
SƠ ĐỒ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Bản án, quyết định được
thi hành
- CQTHA chủ động
- Yêu cầu THA của người
được THA
Tự nguyện THA
Quyết định THA
(phân công chấp hành viên)
Kết thúc THA
CHV định cho người phải
THA thời hạn không qúa 30
ngày để tự nguyện THA
Tự nguyện thi hành
trong thời hạn
Không tự nguyện
Khấu trừ tài khoản...
Trừ vào thu nhập hợp pháp
Cưỡng chế THA
Phong toả tài khoản, tài
sản của người phải THA
Kê biên, xử lý TS của
người phải THA, kể cả TS.
Buộc giao nhà, chuyển QSD.
12
Cấm hoặc buộc người phải
THA không làm hoặc làm ...
1.1.3. Sự khác biệt giữa kê biên tài sản là một biện pháp khẩn cấp tạm
thời với kê biên tài sản - biện pháp cƣỡng chế thể thi hành án dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, thẩm phán của TAND có
quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời KBTS, mặt khác trong quá trình
THA thì CHV của cơ quan THA cũng có quyền KBTS với tính chất là một
biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho THA.
Theo Điều 41 – PLTTGQCVADS – 1989, khi có yêu cầu của đương
sự, của Viện kiểm sát hoặc khi tự xét thấy cần thiết, Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời “ Kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán”.
Mặc dù vậy, biện pháp này được Thẩm phán áp dụng chỉ nhằm mục đích
“Tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng
chứng”. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong đó có KBTS
đang tranh chấp do Thẩm phán áp dụng là để chuẩn bị cho hoạt động xét xử
của Tòa án, nó khác với kê biên tài sản được quy định tại Điều 41 –
PLTHADS 2004 bởi KBTS do thẩm phán áp dụng không nhằm mục đích để
thi hành án. Sở dĩ như vật bởi vì các lý do sau:
Trước hết, về đối tượng tài sản kê biên. Tòa án chỉ tiến hành kê biên
với những tài sản mà đương sự đang có tranh chấp để tránh việc tẩu tán, trong
khi đó KBTS do CHV áp dụng để đảm bảo THA thì đối tượng tài sản ở đây là
tất cả những tài sản được phép kê biên (trong đó có tài sản đang tranh chấp)
mà người phải THA là chủ sở hữu.
Thứ hai, KBTS do Tòa án áp dụng không đáp ứng được những đòi hỏi
của thủ tục KBTS để THA. Bởi vì, KBTS để THA phải được tiến hành tại nơi
có tài sản của người phải THA với sự tham gia bắt buộc của các thành phần
theo quy định và phải lập biên bản và giao bảo quản tài sản kê biên.
13
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Thứ ba, theo Điều 41 PLTTGQCVADS biện pháp khẩn cấp tạm thời
KBTS chủ yếu là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án và quyết định này
của thẩm phán có thể bị hủy bỏ trước khi xét xử bởi Chánh án Tòa án đang
giải quyết vụ án, khi giải quyết khiếu nại của các đương sự hoặc kiến nghị của
Viện kiểm sát.
Do đó, khi Hội đồng xét xử giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
trong đó có tranh chấp liên quan đến tài sản như: tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, vay mượn, mua bán… mà quyết định KBTS để đảm
bảo THA là không đúng thẩm quyền, không đáp ứng được yêu cầu là KBTS
đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán hoặc là để bảo vệ bằng chứng nhằm đảm
bảo cho việc xét xử của mình.1
Theo Khoản 1, Điều 29, Khoản 2, Điều 40 PLTHADS, đoạn 2 mục V
của Thông tư liên ngành 981-TTLN ngày 21/09/1993 của BTP – TANDTC –
VKSNDTC đã ghi nhận : Khi KBTS, nếu có tranh chấp về tài sản bị kê biên
thì CHV giải thích cho người được THA, người phải THA, người có quyền,
lợi ích liên quan đến tài sản tranh chấp về quyền khởi kiện theo thủ tục tố
tụng dân sự. Sau khi thụ lý đơn kiện, Tòa án phải khẩn trương giải quyết tranh
chấp về tài sản để việc THA được tiếp tục, đảm bảo quyền lợi cho các đương
sự. Hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày kê biên nếu không có ai khởi kiện thì tài
sản đã kê biên được xử lý để THA.
Ta thấy, pháp luật đã cho phép người có tranh chấp đối với tài sản đã
kê biên để THA được khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự trong thời hạn 03
tháng để bảo vệ quyền lợi của mình, chính vì thế, nếu Hội đồng xét xử áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời KBTS mà để THA thì mặc nhiên đã tước đi
quyền khởi kiện của các đối tượng nói trên.
Như vậy, pháp luật thi hành án dân sự chưa quy định Tòa án được
quyết định KBTS để đảm bảo THA, nếu thấy cần thiết Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời KBTS đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán. Thẩm
1
Xem tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/98,trang 20,21.
14
phán ra quyết định kê biên trước khi xét xử và chuyển giao cho cơ quan THA
để thi hành. Vì thế, Tòa án không được tự mình KBTS để trực tiếp đảm bảo
cho THA bởi tính chất của biện pháp này là biện pháp khẩn cấp tạm thời, nó
được lập thành văn bản dưới dạng quyết định và cho thi hành ngay. Sau khi
có quyết định, bản án thì biện pháp này đương nhiên mất hiệu lực. Trong khi
đó, KBTS – biện pháp cưỡng chế để THA chỉ áp dụng khi đã có quyết định,
bản án của Tòa án được thi hành. CHV chỉ áp dụng khi người phải THA
không tự nguyện thi hành trong thời hạn đã ấn định, và với mục đích nhằm
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Biện pháp khẩn cấp
tạm thời KBTS
Thời điểm
Thẩm quyền
dụng
kiện
để thi hành án
Đã có bản án, quyết
Chưa có bản án, quyết
định (chuẩn bị xét xử)
Điều
Cưỡng chế KBTS
áp
định (Thi hành án)
Thẩm phán
Chấp hành viên
Yêu cầu của đương sự,
+ Bản án, quyết
định được thi hành
VKS
+ Quyết định THA
Tòa án tự thấy cần
thiết
của
người
có
thẩm
quyền
+ Bản án, quyết
định được thi hành là
quyết định, bản án về
tài sản
+ Người phải THA
có tài sản thuộc phạm vi
tài sản được kê biên
+ Người phải THA
đã không tự nguyện thi
15
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
hành trong thời hạn
Mục đích
Đảm bảo xét xử
Đảm bảo cho THA
Giải quyết yêu cầu cấp
bách của đương sự
Đối tượng
Tài sản đang có tranh
chấp
Tính chất
Tài sản của người
phải THA
Tạm thời
Chính thức
1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp cƣỡng chế kê biên tài sản để THA.
Cưỡng chế kê biên tài sản để THA góp phần vào bảo đảm pháp chế
XHCN bởi yêu cầu của pháp chế là sự đòi hỏi mọi chủ thể phải tuân thủ pháp
luật một cách đầy đủ, nghiêm minh và bình đẳng, mà KBTS để THA là nhằm
hiện thực hóa các quyết định, bản án dân sự của Tòa án, đây chính là một hoạt
động tích cực bảo vệ pháp luật , bảo đảm pháp chế.
Thứ hai, cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án đảm bảo được quyền
lợi của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo
được sự công bằng trong xã hội. Mục đích của cưỡng chế nói chung là buộc
người phải THA thực hiện nghĩa vụ của mình trước bên có quyền – người
được THA, người được THA này có thể là Nhà nước, tập thể hoặc cá nhân
công dân, vì thế, nó chính là một biện pháp bảo đảm cho quyền của người
được THA.
Thứ ba, thông qua cưỡng chế KBTS góp phần vào tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về THA. ở Việt Nam chúng ta ý thức pháp luật của người dân
chưa cao, đồng thời công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhất là
pháp luật THA chưa được chú trọng, chính vì thế thông qua việc áp dụng
pháp luật phần nào giúp người dân (trực tiếp là người phải THA, người được
THA và gia đình họ) hiểu luật và chấp hành pháp luật. Nhiều nơi, người được
THA do không hiểu biết pháp luật nên đã không yêu cầu THA hoặc người
16
phải THA nhận thức sai lầm về pháp luật đã cản trở, hoặc chống đối THA
một cách rất quyết liệt làm ảnh hưởng tới việc thi hành pháp luật.
Thứ tư, pháp luật THA nói chung, cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng
là một hoạt động thực tiễn, vì vậy thông qua cưỡng chế KBTS giúp chúng ta
xác định được nguyên nhân của việc chậm THA, phát hiện được những sai sót
trong quá trình thực hiện để từ đó khắc phục, sửa sai. Đồng thời, rút kinh
nghiệm trong đường lối xét xử và THA về tài sản, góp phần vào việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về THA dân sự.
Thứ năm, nói đến cưỡng chế THA là nói đến vai trò chủ yếu của chấp
hành viên, chấp hành viên sử dụng quyền của mình như thế nào, có hiệu quả
ra sao? Bởi pháp luật không buộc chấp hành viên phải cưỡng chế theo một
khuôn mẫu vì hoạt động cưỡng chế THA nói chung, cưỡng chế KBTS nói
riêng là hoạt động áp dụng pháp luật nó mang tính sáng tạo, đa dạng theo một
chừng mực nào đó có thể đánh giá được năng lực, phẩm chất của chấp hành
viên trong cơ quan thi hành án.
Với ý nghĩa nêu trên, cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng
chế kê biên tài sản để thi hành án nói riêng góp phần tích cực vào việc đẩy
mạnh hiệu quả của công tác THA, thực hiện chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về THADS trong thời kỳ mới.
1.2. Sơ lược về sự phát triển của chế định cưỡng chế kê biên tài sản trong
quá trình phát triển của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam.
Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế để thi hành án dân sự, sự
hình thành và phát triển của chế định này luôn gắn bó và có quan hệ mật thiết
với sự hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam.
Quá trình phát triển này được chia theo các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960
Năm 1945, Cách mạng tháng 8 thành công lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, chấm dứt chế độ cai trị của thực dân phong kiến. Song do điều
17
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
kiện lịch sử lúc đó, Nhà nước ta vừa hình thành chưa thể xây dựng, ban hành
ngay được một hệ thống pháp luật mới nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban
hành sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện
hành của chế độ cũ ở Bắc, Trung, Nam bộ với điều kiện “Không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa”. Vì những lẽ
đó, hoạt động THA ở nước ta vẫn do Thừa phát lại đảm nhiệm, hoạt động của
Thừa phát lại đã được hình thành ở nước ta từ năm 1910 trên cơ sở luật tố
tụng dân sự ban hành kèm theo Nghị định ngày 09/03/1910 của Toàn quyền
Đông Dương được duy trì cho đến năm 1950. Bên cạnh đó, theo sắc lệnh số
13/SL ngày 24/01/1946 có quy định: Ban tư pháp xã cũng có quyền thi hành
những mệnh lệnh của Tòa án cấp trên bao gồm cả bản án và quyết định của
Tòa án. Như vậy, trong những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức
hoạt động THADS đã hình thành và song song tồn tại hai lực lượng THA là
Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Đến năm 1950, theo Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/05/1950 “Về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng” công tác thi hành án dân
sự được giao cho Tòa án đảm nhiệm mà cụ thể là cho Thẩm phán TAND cấp
huyện.
Tiếp theo đó Thông tư 19/VHH/HS ngày 30/06/1955 của Bộ Tư pháp,
Chỉ thị 772/TATC ngày 10/07/1957 của TANDTC thì từ thời gian này trở đi
các Tòa án không được áp dụng pháp luật của chế độ cũ nữa. Lúc này, hoạt
động THADS được tiến hành theo Thông tư 4176 – HCTP ngày 28/11/1957
của Bộ Tư pháp, thông tư 4296/DS 09/12/1957 của Bộ Tư pháp. Tại Thông tư
4176 – HCTP ngày 28/11/1957 của Bộ Tư pháp đã đưa ra nguyên tắc trong
việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế THA, nhưng lúc đó lại chưa có một
văn bản nào quy định cụ thể về biện pháp cưỡng chế THA.
Phải đến năm 1960, khi Luật tổ chức TAND ra đời thì cưỡng chế THA
nói chung, cưỡng chế KBTS nói riêng mới thực sự có căn cứ pháp lý để thực
hiện.
18
- Xem thêm -