Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
MỤC LỤC
1. Báo cáo đề dẫn
PGS.TS Nguyễn Thị Ly Kha ............................................................................... 4
2. Đào tạo - Dạy học theo quan điểm tích hợp: Chúng ta đang ở đâu?
TS. Hoàng Thị Tuyết ........................................................................................ 13
3. Dạy học tích hợp ở Tiểu học: Ý nghĩa, tầm quan trọng và thách thức của
thực tiễn
Ths. Hoàng Trường Giang .............................................................................. 30
4. Dạy học tích hợp ở Tiểu học và trường pháo giáo dục Maria Montessori
TS. Lê Đình Thông ............................................................................................ 35
5. Vấn đề tích hợp trong chương trình giáo dục tiểu học
Ths. Lê Văn Trung ............................................................................................ 39
6. Một vài nhận xét về tính tích hợp trong chương trình đào tạo giáo viên
tiểu học hiện nay theo học chế tín chỉ
ThS. Nguyễn Lương Hải Như ........................................................................... 44
7. Dạy học tích hợp trong đào tạo giáo viên tiểu học và giảng dạy ở trường
tiểu học: Định hướng và giải pháp
TS. Nguyễn Thị Liên Tâm................................................................................. 52
8. Rèn kĩ năng kể cho sinh viên giáo dục tiểu học từ hướng dạy lồng ghép
phần văn học dân gian
TS. Nguyễn Thị Nga ......................................................................................... 58
9. Dạy học tích hợp văn học nước ngoài cho SV ngành giáo dục tiểu học
TS. Nguyễn Thị Thu Thủy................................................................................. 64
1
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
10. Chất lượng dạy học Văn - Nhìn từ bậc tiểu học
TS. Bùi Thanh Truyền ...................................................................................... 73
11. Dạy học tiểu học theo hướng tích hợp
TS. Vũ Thị Ân................................................................................................... 85
12. Tích hợp trong dạy học Ngữ pháp cho HS - Nhìn từ SGK hiện hành
PGS.TS Nguyễn Thị Ly Kha ............................................................................. 88
13. Sơ nét về SGK Việt Nam, Malaysia, Mỹ và việc dạy học
ThS. Trần Đức Thuận ...................................................................................... 98
14. Cải cách SGK và nâng cao chất lượng giáo viên : Quyết định thành bại
đổi mới giáo dục
ThS. Trần Hoàng ........................................................................................... 103
15. Tích hợp các môn khoa học xã hội - Nhìn từ sách Tiếng Việt 3 & Đạo đức
Phạm Hải Lê .................................................................................................. 105
16. Hơn một viện bảo tàng
ThS. Trần Đức Thuận ..................................................................................... 114
17. Tích hợp tri thức môn Đạo Đức trong dạy học các môn học khác ở Tiểu
học: Sự đòi hỏi, khả năng và điều kiện thực hiện
Nguyễn Thị Thu ............................................................................................. 120
18. Một số vấn đề về dạy học tích hợp trong chương trình Tiếng Việt Tiểu
học và việc tích hợp ở ba phân môn Tập đọc - Luyện Từ và Câu - Tập làm
văn
ThS. Phan Thị Quỳnh Như ............................................................................. 126
19. Đôi nét về vấn đề tích hợp trong nội dung môn Tiếng Việt Tiểu học và
gợi ý xây dựng hoạt động ngoại khóa cho môn Tiếng Việt theo hướng tích
hợp
ThS. Lê Ngọc Tường Khanh ........................................................................... 131
20. Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học giải Toán có lời văn ở Tiểu
học
ThS. Vũ Anh Hoa ........................................................................................... 136
2
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
21. Bàn tay nặn bột - Một phương pháp dạy học mang tính tích hợp cao
ThS. Đỗ Thị Nga ............................................................................................ 142
22. Dạy học tích hợp giáo dục môi trường ở Tiểu học
ThS. Nguyễn Minh Giang ............................................................................... 151
23. Tích hợp dạy kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp Hai trong vở bài tập Tự
nhiên và Xã hội và tài liệu "Essential Science 2"(ES2)
Phạm Phương Anh ......................................................................................... 158
24. Vài ý kiến về thực tế thực hiện dạy học theo hướng tích hợp ở Tiểu học
Đoàn Thị Ngân .............................................................................................. 164
3
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
BÁO CÁO ĐỀ DẪN
DẠY HỌC TÍCH HỢP Ở TIỂU HỌC: HIỆN TẠI & TƯƠNG LAI
PGS.TS. Nguyễn Thị Ly Kha*
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo dục phổ biến trên thế
giới trong nhiều thập kỉ qua. Quan điểm dạy học tích hợp được xem là định
hướng lí luận của chương trình tiểu học Việt Nam hiện hành và những năm sắp
tới. Để đào tạo nguồn lực giáo viên tiểu học đáp ứng yêu cầu đổi mới, các khoa
giáo dục tiểu học ở các trường đại học, cao đẳng trong nhiều năm nay đã và đang
quan tâm tìm hiểu, vận dụng quan điểm tích hợp để chuẩn bị cho giáo sinh có thể
đáp ứng với chương trình dạy học ở tiểu học theo quan điểm tích hợp.
Trong bối cảnh ấy, việc nhìn lại để đánh giá thực tiễn tìm hiểu và áp dụng lí
luận tích hợp vào quá trình dạy học ở đại học cũng như phổ thông, xác định
thành tựu và những điều còn bất cập, để có thể đưa ra những giải pháp nhằm thúc
đẩy hơn quá trình thực hiện các chương trình đào tạo theo hướng tích hợp vào
giai đoạn sau 2015 là một hoạt động cần thiết.
Với mong muốn thu hút sự đóng góp, chia sẻ tri thức của các thầy cô, nhà
quản lí chuyên môn đang công tác tại trường tiểu học, các giảng viên các trường
sư phạm và các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trên cả nước, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: Dạy học tích hợp
ở tiểu học: hiện tại và tương lai. Sau hơn một năm tích cực chuẩn bị c ng sự h
trợ, hợp tác tích cực của các cộng tác viên, an tổ chức Hội nghị đã tập hợp được
2 bài viết của các nhà khoa học, các nhà quản l , các thầy cô giáo công tác
trong ngành giáo dục tiểu học trong cả nước từ các trường đại học cao đẳng ở
phía ắc như CĐSP Nghệ An, Đại học Quảng ình,…; ở miền Trung như ĐHSP
Huế, CĐCĐ tỉnh ình Thuận,…; đến các trường ở Tp. HCM và các tỉnh phía
Nam, như ĐHSP Tp.HCM, Đại học Hoa Sen, CĐSP Kiên Giang,... an tổ chức
cũng nhận được 2 báo cáo từ Trường Đại học IUPUI, Indiana Hoa Kỳ gửi về.
Các báo cáo tập trung bàn thảo vấn đề: Những thành tựu về nghiên
cứu và tìm hiểu lí luận dạy học tích hợp trên thế giới và ở Việt Nam; Những
thành tựu về ứng dụng lí luận dạy học tích hợp vào thực tiễn xây dựng chương
trình sách giáo khoa, giáo trình, và hoạt động giảng dạy; Định hướng và giải
pháp cho việc gia tăng năng lực nghiên cứu và ứng dụng lí luận dạy học tích hợp
vào dạy học ở trường tiểu học và đào tạo giáo viên tiểu học trong tương lai.
Từ thực tế nghiên cứu, giảng dạy, TS. Hoàng Thị Tuyết, ĐHSP Tp.HCM
với bài viết Đào tạo - dạy học theo quan điểm tích hợp: chúng ta đang ở đâu?,
*
Trưởng Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM
4
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
đã trình bày một cách khái quát về lí thuyết tích hợp, tích hợp và học tập, chương
trình giáo dục tích hợp với các kiểu tiếp cận tích hợp như tích hợp đa môn, tích
hợp liên môn, tích hợp xuyên môn; giới thiệu và phân tích tính tích hợp trong
chương trình đào tạo GVTH ở một số nước trên thế giới và Việt Nam, trong
chương trình tiểu học Việt Nam sau 2000 và sau 2015. Đồng thời, tác giả nhận
định “Trong lúc chương trình đào tạo giáo viên tiểu học có vẻ như còn đứng
ngoài cửa ngõ của ngôi nhà tích hợp thì chương trình giáo dục phổ thông bậc tiểu
học đã đi vào quỹ đạo này từ sau năm 2000. Mặc d vẫn còn những hạn chế do
nhiều lí do khác nhau, chương trình tiểu học hiện hành và sau 2015 đã và sẽ tiếp
tục được phát triển theo hai định hướng tích hợp đa môn và tích hợp liên môn”,
“Yêu cầu thay đổi mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn định hướng tích hợp trong chương
trình GDPT mới sau 2015 càng tạo áp lực hơn nữa lên chương trình đào tạo giáo
viên tiểu học”.
Xem xét vấn đề dạy học tích hợp ở tiểu học, ThS. Hoàng Trường Giang, từ
việc phân tích nghĩa, tầm quan trọng và thách thức của thực tiễn, như SGK
chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của việc dạy học tích hợp, nội dung và phân
bố chương trình còn khá nặng, người dạy khó áp dụng đầy đủ và hiệu quả những
phương pháp dạy học tích hợp, giáo viên chưa được tạo điều kiện đầy đủ, chưa
có được tầm nhìn, kĩ năng, cần thiết cho dạy học tích hợp,… đi đến nêu các kiến
nghị thiết thực và khả thi với các cấp quản lí, các khoa đào tạo và bồi dưỡng
GVTH trong việc xây dựng các chương trình hoạt động để có thể đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn giáo dục tiểu học trong giai đoạn mới.
àn về dạy học tích hợp ở tiểu học, TS. Lê Đình Thông, ĐH Hoa Sen, cho
rằng mở rộng quan niệm tích hợp “chúng ta đã mon men đến gần quan điểm giáo
dục khai phóng”, giúp phát triển toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm
cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối; phát triển những những nhân
cách có đầu óc cởi mở, linh hoạt, tự do và nhiều sáng tạo”. Đồng thời tác giả
cũng giới thiệu “một điển hình rực rỡ cho tưởng giáo dục khai phóng được thực
hiện vào đầu thế kỷ 20: trường phái giáo dục Maria Montessori, với những ưu thế
nổi bật như tính tự giáo dục (auto-educazione), tính tích hợp mọi lúc, mọi nơi,
tích hợp toàn diện”.
Với bài viết Dạy học trong đào tạo giáo viên tiểu học và giảng dạy ở
trường tiểu học - định hướng và giải pháp, TS. Nguyễn Thị Liên Tâm, CĐCĐ
ình Thuận nhận định: “Ở các trường Sư phạm, việc dạy học theo quan điểm
tích hợp đã được chú trọng hơn”, “khoảng cách giữa việc giảng dạy theo hướng
tích hợp của giáo viên các trường tiểu học với việc giảng dạy phương pháp dạy
học các môn học của giáo viên sư phạm hãy còn khá xa”. Tác giả cũng minh họa
5
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
việc áp dụng PPDH tích hợp trong dạy học tiểu học qua một số tiết dạy; định
hướng và giải pháp cho công tác dạy học tích hợp trong tương lai. Theo tác giả
“đối với các trường có đào tạo giáo viên Tiểu học, cần phải yêu cầu giáo sinh chú
đến việc lồng ghép kiến thức theo hướng tích hợp”, v.v..
C ng hướng trăn trở về chương trình đào tạo giáo viên tiểu học theo định
hướng tích hợp, ThS. Nguyễn Lương Hải Như, Trường ĐHSP Tp.HCM, “nhận
xét, đánh giá về khả năng tích hợp trong chương trình đào tạo Cử nhân Giáo dục
Tiểu học theo chương trình tín chỉ”, đồng thời, thông qua việc so sánh hai
chương trình đào tạo của Khoa Giáo dục Tiểu học, Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh và Khoa Giáo dục, Đại học Victoria, Wellington, New Zealand”,
“đề xuất một số cách thức nhằm tăng khả năng tích hợp cho chương trình đào tạo
giáo viên tiểu học hiện nay theo học chế tín chỉ”. Tác giả cũng khẳng định “so
sánh mô hình đào tạo giáo dục đại học của Việt Nam với các nước trên thế giới
cần thiết để chúng ta có cái nhìn đúng đắn về thực tế giáo dục Việt Nam”, “tuy
nhiên, trong hoàn cảnh thực tế của chúng ta hiện nay, không phải ai cũng có cơ
sở vật chất đầy đủ để xây dựng một mô hình đại học kiểu mới. Do đó, việc thay
đổi từ những cái sẵn có, có lẽ sẽ là cách giải quyết hợp lí hơn. Cấu trúc lại
chương trình theo hướng tích hợp đa môn, liên môn, xuyên môn là một việc làm
hòan toàn có thể thực hiện được”.
Qua bài viết Rèn kĩ năng kể cho sinh viên giáo dục tiểu học từ hướng dạy
lồng ghép văn học dân gian, TS. Nguyễn Thị Nga, Đại học Quảng ình, khẳng
định: tích hợp trong dạy học các phân môn là một xu thế giáo dục khá phổ biến,
một nhu cầu tất yếu hiện nay ở các trường đại học. Mục đích của vấn đề này là
tăng cường thêm kiến thức, rèn các kỹ năng cơ bản nhằm giúp người học tích lũy
thêm kiến thức tăng cường khả năng nghiệp vụ. Hình thức tích hợp này nếu được
vận dụng linh hoạt sẽ góp phần giúp sinh viên thực hiện quá trình học tập một
cách đầy đủ, hệ thống và nâng cao năng lực cảm thụ văn học”. Đồng thời, tác giả
đã đưa ra những định hướng tích hợp cơ bản trong dạy học phần văn học dân
gian để góp phần rèn kỹ năng kể cho sinh viên giáo dục tiểu học, như hướng dẫn
sinh viên “phải đọc đi đọc lại câu chuyện, phải suy nghĩ về những nhân vật, c ng
đồng cảm với suy nghĩ, tâm tư số phận, lựa chọn ngôn ngữ, các yếu tố phi ngôn
ngữ như ánh mắt điệu bộ cử chỉ, khêu gợi, tạo cho sinh viên nhu cầu được bộc lộ
suy nghĩ của mình, được kể; tạo hoàn cảnh cơ hội cho sinh viên thực hành bằng
hệ thống câu h i, bài tập biết động viên khích lệ, tạo điều kiện cho mọi người
c ng tham gia, hợp tác, v.v..
àn về Chất lượng dạy học văn – nhìn từ bậc tiểu học, TS. Bùi Thanh
Truyền, Khoa GDTH-MN, ĐHSP Huế cho rằng “Gam màu ảm đạm trong bức
6
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
tranh chung về chất lượng dạy học văn ở nước ta hiện nay một phần xuất phát từ
chương trình, SGK và phương pháp dạy học ở tiểu học”, “dẫu quan điểm tích
cực, hiện đại nhưng khi đi vào thực tiễn, va chạm đã làm bật nẩy những vênh
lệch nhất định”, do những bất cập từ chương trình đào tạo thiếu tính tích hợp, từ
sự bất ổn từ SGK, c ng những hạn chế từ phương pháp giảng dạy của giáo viên
“thời lượng lên lớp hạn hẹp, chỉ mới chú trọng dạy tiếng, không nắm quan điểm
tích hợp dạy văn hóa, dạy văn qua môn Tiếng Việt”; tác giả đi đến những “lời kết
và trăn trở của người trong cuộc” c ng những kiến nghị đầy tâm huyết, có giá trị
thực thi về chương trình, sách giáo khoa c ng đội ngũ thầy cô giáo.
Tìm hiểu vấn đề tích hợp trong chương trình giáo dục phổ thông và giáo
dục tiểu học Việt Nam, ThS. Lê Văn Trung, ĐHSP.Tp.HCM, cho rằng “chương
trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam đã thể hiện tính tích hợp theo hướng gắn kết
các nội dung có liên của các phân trong một môn học”, “lồng ghép các kiến thức
khác vào nội dung của môn học tuỳ vào đặc trưng của từng môn”; “chương trình
giáo dục bậc tiểu học cũng thể hiện sự tích hợp giữa hai lĩnh vực khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội”; và “lược trích một số đề xuất hướng tích hợp cho
chương trình Giáo dục Tiểu học”, như “Lớp Một, Hai chỉ học môn: Toán, Ngữ
văn và Cuộc sống quanh ta. Trong đó Ngữ văn và Cuộc sống quanh ta là môn
học tích hợp”, “từ lớp a đến lớp Năm chỉ học 7 môn: Ngữ văn, Tìm hiểu xã hội/
đạo đức; Toán; Khoa học/thực hành; Giáo dục sức khoẻ; Nghệ thuật/ Âm nhạc và
tiếng Anh. Trong đó môn Ngữ văn, Khoa học, Tìm hiểu xã hội và Giáo dục sức
khoẻ là những môn học tích hợp”.
Hoạt động đào tạo giáo viên tiểu học, theo quan điểm tích hợp, được TS.
Nguyễn Thị Thu Thủy, ĐHSP Tp.HCM đề cập từ vấn đề “dạy học tích hợp liên
môn và xuyên môn trong dạy học văn học nước ngoài cho sinh viên ngành giáo
dục tiểu học”. Theo tác giả “sự tích hợp giữa các phân môn Văn học nước ngoài Lịch sử - Văn hóa - Lí luận văn học và Mỹ học cũng như tích hợp giữa bài giảng
ở trường đại học với chương trình ở trường tiểu học sẽ đem lại hiệu quả tốt cho
SV ngành Giáo dục tiểu học trong nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, đáp ứng xu thế
giáo dục và hội nhập văn hóa trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả khẳng định và
nhấn mạnh “với sự hòa nhập, kết hợp các môn học có liên quan với nhau, tích
hợp các phương diện kiến thức và kỹ năng” sẽ “phát huy đến mức tối đa kiến
thức và kỹ năng mà trong một môn học riêng rẽ không thể có được”, “Trong sự
chuyển đổi chương trình từ niên chế sang tín chỉ, quan điểm dạy học tích hợp sẽ
tạo nên một văn hóa dạy học mới và có nghĩa thực tiễn lớn lao”.
àn về dạy học tích hợp ở tiểu học, TS. Vũ Thị Ân, ĐHSPTp.HCM khẳng
định “dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục tích cực đã trở
7
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học ở nhà trường và trong việc xây
dựng chương trình trong nhiều năm nay”, “ở tiểu học, nhiều môn, nhiều nội dung
có thể dạy tích hợp”, “khoa học và đời sống ngày càng phát triển buộc có nhiều
nội dung phải được đưa vào dạy ở nhà trường là lẽ đương nhiên”. “Việc tích hợp
các môn học, tích hợp nhiều nội dung của một môn học một mặt giảm được áp
lực học, thi, giải quyết được vấn đề giảm đầu môn học, tránh được sự tr ng lặp
về nội dung; mặt khác nâng cao chất lượng dạy và học, phát huy được năng lực
của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức vào cuộc sống
hàng ngày, tránh kiểu lĩnh hội kiến thức một cách thụ động, thiếu sự năng động
sáng tạo ở học sinh. Theo hướng này, năng lực phân tích, tổng hợp của học sinh
được phát huy”. Tác giả cũng cho rằng quan điểm tích hợp đòi h i “người dạy
phải có kiến thức sâu rộng, kiến thức liên môn và xuyên môn, chuyên biệt và đa
dạng”, “các khoa đào tạo giáo viên tiểu học phải mạnh dạn hơn, quyết liệt hơn
trong việc đổi mới nội dung chương trình, các môn học, đổi mới phương pháp để
trang bị cho sinh viên hành trang dạy học tiểu học một cách chắc chắn”.
Tích hợp trong dạy học ở tiểu học, nhìn từ sách giáo khoa hiện hành,
PGS.TS. Nguyễn Thị Ly Kha, ĐHSP Tp.HCM bàn về tính tích hợp trong dạy
học Ngữ pháp cho HS tiểu học, về việc xây dựng một mô thức cho SGK Tiếng
Việt bậc tiểu học, từ góc nhìn về SGK Tiếng Việt các lớp 2, , , 5 hiện hành,
dưới bình diện quan hệ giữa nội dung kiến thức ngữ pháp cung cấp cho HS với
logic trình bày và mục đích yêu cầu HS cần đạt. Qua những quan sát, phân tích,
so sánh các nội dung hữu quan, tác giả cho rằng bộ sách Tiếng Việt tiểu học hiện
hành d đã được biên soạn theo quan điểm và mô thức hợp lí nhất trong điều
kiện hiện nay cũng sẽ được thay thế bằng những bộ sách mới. Ở bậc tiểu học,
tính hành dụng lại càng cần được coi trọng. Vì vậy, quan điểm giao tiếp, quan
điểm tích hợp và tính hành dụng là những nguyên tắc mà SGK Tiếng Việt sau
năm 2015 cần phải đảm bảo đảm.
Chỉ là Sơ nét về sách giáo khoa Việt Nam, Malaysia, Mỹ và việc dạy học,
nhưng ThS. Trần Đức Thuận, ĐHSP Tp.HCM đã cho người đọc một cái nhìn
tổng quan về tính tích hợp trong SGK Việt Nam, Malayxia, Mỹ. Tác giả cho biết
ở Mỹ “các môn học được cấu trúc với nhau, tạo nên những câu chuyện thống
nhất gắn liền với các nội dung kiến thức cần dạy. C ng một bài học, nhưng học
sinh sẽ được học dần trong nhiều tuần, huy động kiến thức của nhiều môn học để
giải quyết được những câu h i trong đấy”. Tác giả nhận định cần phải có một
tổng chủ biên để đảm bảo tính thống nhất, tính tích hợp,… “một bộ sách tốt khi
nó có thể phục vụ dạy học liên môn, góp phần phát triển toàn diện cho HS.”
8
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
ThS Trần Hoàng, ĐHSP. Tp. HCM khẳng định “nâng cao chất lượng giáo
viên và cải cách sách giáo khoa theo hướng tích hợp là điều kiện rất cần thiết và
bức bách”, giữ vai trò “quyết định thành bại đổi mới giáo dục”. Ở bậc tiểu học,
tích hợp là một quan điểm cơ bản trong việc xây dựng chương trình và sách giáo
khoa, tổ chức một nội dung dạy học. Theo tác giả, ở tiểu học, tích hợp trong bộ
môn Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội (các lớp 1, 2, ) và lồng
ghép các vấn đề như môi trường, biến đổi khí hậu, kỹ năng sống, dân số, sức
kh e sinh sản, vào các môn học và hoạt động giáo dục; xây dựng 2 môn học mới
ở lớp , 5 gồm môn Khoa học và công nghệ trên cơ sở môn khoa học và kĩ thuật
trong chương trình hiện hành; môn Tìm hiểu xã hội trên cơ sở môn lịch sử và địa
lí ở lớp , 5 trong chương trình hiện hành và thêm một số vấn đề xã hội. Đồng
thời tác giả cũng cho rằng người viết SGK phải được tập huấn để quán triệt
nguyên tắc đổi mới chương trình, cách dạy và học tích hợp, phải vừa là nhà
chuyên môn vừa là nhà sư phạm. Đội ngũ giáo viên hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu của hoạt động dạy học theo quan điểm tích hợp, việc đào tạo giáo viên ở
tiểu học của các trường Sư phạm cũng phải theo hướng tích hợp.
àn về hướng tích hợp các môn khoa học xã hội ở SGK bậc tiểu học, tác
giả Phạm Hải Lê, ĐHSP Tp.HCM, xem xét, đối chiếu các bài Tập đọc trong
SGK Tiếng Việt 3 với các bài đạo đức trong sách Đạo đức 3 hiện hành về các
phương diện: mục tiêu, nội dung, số lượng, cấu trúc các đơn vị kiến thức và hình
thức thể hiện, và đi đến đề xuất cần “tích hợp nội dung giáo dục đạo đức qua các
bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn của môn Tiếng Việt” và khẳng định đây là
công việc hoàn toàn có tính khả thi, sẽ góp phần “tránh tình trạng thiếu lôgic,
chồng chéo nhàm chán, tránh lãng phí”. Tác giả cũng cho rằng để có thể biên
soạn SGK theo hướng tích hợp đa môn, liên môn và xuyên môn cần có một tổng
chủ biên. Tổng chủ biên sẽ là vị “nhạc trưởng” hướng dẫn tập thể các tác giả biên
soạn được những cuốn sách tích hợp có giá trị, thiết thực cho công cuộc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa sắp tới.
Quan điểm tích hợp trong dạy học tiểu học còn được nhìn nhận từ bình diện
tổ chức thư viện, với bài báo Hơn một viện bảo tàng, ThS. Trần Đức Thuận giới
thiệu về ảo tàng Thiếu nhi tại thành phố Indianapolis, bang Indiana của Hoa
Kỳ. Qua việc mô tả và phân tích cách thức chuyển giao thông tin, cách thức hiện
thực hoá tư tưởng “hands-on”, cách thức kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường,
xã hội, tác giả gợi cho người đọc về “triết lí giáo dục, tư tưởng giáo dục đổi mới,
tích hợp mà nhiều bảo tàng thông thường khó đạt được”.
Nhìn nhận về vấn đề Tích hợp tri thức môn đạo đức trong dạy học các môn
học khác ở tiểu học: sự đòi hỏi, khả năng và điều kiện thực hiện, tác giả Nguyễn
9
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
Thị Thu, Đại học Sư phạm – Đại học Huế, nhấn mạnh sự đòi h i của tích hợp tri
thức môn Đạo đức trong các môn học khác ở tiểu học. Tác giả khẳng định: “các
giá trị đạo đức ở trong chương trình môn học sẽ không được học sinh cụ thể hóa
thành hành vi nếu không gắn với hoạt động học tập các môn học”. Đồng thời,
qua bài báo trên tác giả cũng nêu rõ khả năng, điều kiện tích hợp tri thức môn
Đạo đức vào các môn học khác ở tiểu học và cho rằng “GV phải vượt lên trên
cách nhìn quen thuộc về vai trò của từng môn học riêng rẽ, quan niệm đúng hơn
về vị trí, vai trò của từng môn cũng như quan hệ tương tác giữa các môn học” để
đảm bảo được tính tích hợp trong dạy học ở tiểu học.
ThS. Phan Thị Quỳnh Như, Khoa Tiểu học, trường Cao đẳng Sư phạm Kiên
Giang bàn về việc dạy học tích hợp trong ba phân môn Tập đọc - Luyện từ và
câu - Tập làm văn trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Theo tác giả tích hợp
là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo dục. Hiểu đúng và
làm đúng quá trình tích hợp, giáo viên có thể đem lại những hiệu quả cụ thể đối
với từng phân môn trong một thể thống nhất các môn học ở Tiểu học.
Với bài Đôi nét về vấn đề tích hợp trong nội dung môn Tiếng Việt ở tiểu
học và gợi ý xây dựng hoạt động ngoại khóa cho môn Tiếng Việt theo hướng tích
hợp, ThS. Lê Ngọc Tường Khanh, GV Khoa Giáo dục Tiểu học - ĐHSP TP
HCM khẳng định tích hợp và sự cần thiết của việc dạy học theo hướng tích hợp;
vấn đề tích hợp trong nội dung môn Tiếng Việt – chương trình Tiểu học hiện
hành, Gợi xây dựng hoạt động ngoại khóa cho môn Tiếng Việt theo hướng tích
hợp, gợi xây dựng một chu i các hoạt động ngoại khóa cho môn Tiếng Việt
theo hướng tích hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều môn học khác nhau và một
phần hướng đến năng lực chuyên biệt cho HS.
Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học,
Th.S. Vũ Anh Hoa, Trưởng Khoa GDTH, CĐSP Nghệ An cho rằng “thực tế
trong dạy học Toán, người ta thường chỉ chú trọng đến kiến thức và kỹ năng môn
Toán mà ít hoặc không để , ít người quan tâm, đến những kỹ năng về Tiếng
Việt”; nếu biết khai thác, kết hợp và lồng ghép một cách nhuần nhuyễn việc rèn
luyện một số kỹ năng Tiếng Việt vào trong quá trình dạy học giải toán có lời văn
thì sẽ góp phần không nh nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện. Khi dạy học
giải toán có lời văn ở Tiểu học, tích hợp một số kỹ năng dạy học Tiếng Việt, như
Rèn luyện kỹ năng tập đọc trong dạy học giải toán có lời văn; Rèn luyện kỹ năng
viết trong dạy học giải toán có lời văn.
ThS. Đ Thị Nga, GV Khoa GDTH, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh giới thiệu về
“ àn tay nặn bột – một phương pháp dạy học mang tính tích hợp cao”, do “ngoài
việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp dạy học TN còn chú
10
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
trọng đến việc hình thành và rèn luyện một số kĩ năng khoa học cơ bản cho HS,
như kĩ năng trình bày, kĩ năng thực hành, kĩ năng quan sát, phân tích, đánh
giá,...”, tích hợp trong việc rèn kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ viết và ngôn ngữ
nói, bằng hình vẽ hay biểu đồ, sơ đồ; tích hợp trong việc rèn kĩ năng làm thí
nghiệm, thực hành. Đồng thời tác giả cũng phân tích về môn Tự nhiên - Xã hội
và phương pháp dạy học “ àn tay nặn bột”, tác giả chỉ rõ quy trình dạy học môn
Tự nhiên - Xã hội bằng phương pháp TN , từ khâu Đặt vấn đề, Chuẩn bị
phương tiện dạy học, Chuẩn bị không gian tổ chức lớp học đến Xây dựng các
bước lên lớp (như HS làm việc toàn lớp, HS làm việc nhóm, HS chuẩn bị báo
cáo, HS báo cáo, HS ghi chép vào vở thực nghiệm. Tác giả cũng đưa ra những
đánh giá xác đáng về phương pháp TN c ng những kiến về SGK môn TNXH, về sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, các nhà nghiên cứu, các giảng viên
ở các trường đại học,về giải pháp khuyến khích tạo điều kiện cho GV linh hoạt
khi thực hiện chương trình; thay đổi quan điểm đánh giá GV, đánh giá chất lượng
dạy học.
àn về Dạy học tích hợp giáo dục môi trường ở tiểu học, ThS. Nguyễn
Minh Giang, ĐHSP. Tp.HCM cho rằng “khi dạy học về môi trường luôn đi theo
những tiêu chí chuẩn mực, chứ không dạy một cách chung chung và cảm tính”,
theo ba cách tiếp cận “giáo dục về môi trường, giáo dục trong môi trường và giáo
dục vì môi trường”, “tích hợp vào trong các môn học ở ba mức độ: mức độ toàn
phần, mức độ từng bộ phận và mức độ liên hệ”, “những thế hệ học sinh tiểu học
được giáo dục môi trường toàn diện như vậy sẽ có kiến thức và hành động bảo vệ
môi trường, vì sự phát triển bền vững”, “để thực hiện được mục tiêu đó, chính
những giáo viên tiểu học đóng vai trò chủ đạo trong việc triển khai nội dung và
hành động đến với từng học sinh”.
So sánh dạng bài tập điền khuyết ở V TTNXH 2 và tài liệu ES 2, tác giả
Phạm Phương Anh, ĐHSP Tp.HCM cho rằng V TTNXH 2 chưa được thiết kế
trên cơ sở chú trọng tích hợp việc dạy kỹ năng đọc, viết cho học sinh thông qua
việc làm bài tập môn TNXH; bài tập khá nặng về việc cung cấp, khắc sâu kiến
thức khoa học cho học sinh một cách đơn thuần trong khi việc phát triển kỹ năng
đọc, viết cho trẻ thông qua việc học tập khoa học lại ít được quan tâm. Tác giả
cho rằng trên cơ sở sách giáo khoa môn Tự nhiên và Xã hội 2 theo hướng tích
hợp như đã và đang có, việc tích hợp phát triển kỹ năng đọc viết thông qua hệ
thống bài tập Tự nhiên và Xã hội sẽ được các nhà giáo dục, các nhà sư phạm chú
hơn trong khi xây dựng chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015, “để việc
rèn luyện kỹ năng đọc, viết không phải chỉ là “cuộc độc hành” của môn Tiếng
Việt trong nhà trường Tiểu học”.
11
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
Hội thảo cũng nhận được kiến về dạy học tích hợp ở tiểu học qua bài viết
Vài ý kiến về thực tế thực hiện dạy học theo hướng tích hợp ở tiểu học của tác giả
Đoàn Thị Ngân, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Đặng Thị Rành, Thủ Đức,
Tp.HCM. Từ sự thấu hiểu thực tiễn, tác giả nhận định “ thức áp dụng dạy học
tích hợp vào trong các môn họccủa giáo viên còn hạn chế. Đa số giáo viên chỉ
cung cấp đầy đủ kiến thức, kĩ năng của bài học”, “không có sự liên kết, tích
hợp”, “chỉ bổ sung thêm một vài dòng trong giáo án để đối phó”, “thực tế, nhiều
giáo viên không thực hiện giáo dục tích hợp vào trong bài dạy”. Và đề xuất
“trước tiên phải làm thay đổi nhận thức của người thầy về tác dụng, nghĩa
của dạy học tích hợp. ên cạnh đó, cần khuyến khích giáo viên đọc sách – báo,
cập nhật tin tức, thời sự kịp thời để đưa vào bài dạy, giúp tiết học thêm sinh
động, học sinh thích thú lắng nghe”.
Qua 23 báo cáo tham luận có thể nói bức tranh dạy học tích hợp ở tiểu
học: hiện tại và tương lai đã được phác hoạ trên các phương diện: thực trạng,
kinh nghiệm, ưu khuyết điểm, giải pháp, định hướng phát triển. an Tổ chức Hội
thảo hy vọng rằng những tham luận được trình bày trên diễn đàn, cũng như
những bài viết được đăng trong kỷ yếu sẽ được quan tâm chú , trao đổi, thảo
luận và trao đổi tại hội trường. Trong khuôn khổ của Hội thảo này, chúng tôi hi
vọng các đại biểu có thể tìm được tiếng nói chung, để sau Hội thảo chúng ta có
những tác động tích cực đối với các cơ sở đào tạo, và đối với các cấp quản lí
đồng thời có những n lực từ chính bản thân mình để có những đóng góp hiệu
quả cho hoạt động đào tạo tiểu học trong giai đoạn mới. Hy vọng rằng với chiến
lược, mục tiêu đúng đắn, giải pháp thích hợp, l thuyết tích hợp sẽ góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo ở trường sư phạm và trường tiểu học trong giai đoạn mới.
Khoa GDTH, ĐHSP TPHCM
12
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
ĐÀO TẠO - DẠY HỌC THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP:
CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU?
TS. Hoàng Thị Tuyết*
1. LÝ THUYẾT TÍCH HỢP - CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC TÍCH HỢP
Lý thuyết tích hợp
L thuyết tích hợp là một triết l (trào lưu suy nghĩ) được Ken Wilber đề
xuất. L thuyết tích hợp tìm kiếm sự tổng hợp tốt nhất hiện thực “xưa- premodern, nay-modern, và mai sau- postmodern”. Nó được hình dung như là một
l thuyết về mọi sự vật và cung cấp một đường hướng kết hợp nhiều mô thức rời
rạc hiện tại thành một mạng hoạt động phức hợp, tương tác nội tại của nhiều cách
tiếp cận. L thuyết tích hợp đã được nhiều nhà thực hành l thuyết áp dụng trong
hơn 5 lĩnh vực chuyên môn và học thuật khác nhau (Esbjörn-Hargens, 2010).
Điều quan trọng hơn, tích hợp là một tiến trình tư duy và nhận thức mang
tính chất phát triển tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động khi họ
muốn hướng đến hiệu quả của chúng. Quan điểm tích hợp cho phép con người
nhận ra những điều then chốt và các mối liên hệ hữu cơ giữa các thành tố trong
hệ thống và trong tiến trình hoạt động thuộc một lĩnh vực nào đó. Việc khai thác
hợp l và có nghĩa các mối liên hệ này dẫn nhà hoạt động l luận cũng như
thực tiễn đến những phát kiến mới, tránh những tr ng lắp gây lãng phí thời gian,
tài chính và nhân lực. Đặc biệt, quan điểm này dẫn người ta đến việc phát triển
nhiều loại hình họat động, tạo môi trường áp dụng những điều mình lĩnh hội vào
thực tiễn, nhờ vậy tác động và thay đổi thực tiễn. Do vậy, tích hợp là vấn đề của
nhận thức và tư duy của con người, là triết l /nguyên l chi phối, định hướng và
quyết định thực tiễn hoạt động của con người.
L thuyết tích hợp được ứng dụng vào giáo dục trở thành một quan điểm
(một trào lưu tư tưởng) l luận dạy học phổ biến trên thế giới hiện nay. Xu hướng
tích hợp còn được gọi là xu hướng liên hội đang được thực hiện trên nhiều bình
diện, cấp độ trong quá trình phát triển các chương trình giáo dục. Chương trình
được xây dựng theo quan điểm tích hợp, trước hết dựa trên quan điểm giáo dục
nhằm phát triển năng lực người học (Rogier, 1996).
Hội thảo quốc tế đón chào thế kỷ 21 có tên “Kết nối hệ thống tri thức trong
một thế giới học tập” với sự tham gia của gần 00 nhà giáo dục thuộc 18 quốc
gia được tổ chức từ ngày 6 - 8/12/2000 tại Manila (Philippines). Một trong những
nội dung chính được bàn luận sôi nổi tại hội thảo này là những con đường và
*
Giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học, Đại học Sư phạm TP.HCM
13
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
cách thức kết nối hệ thống tri thức hướng vào người học trong thời đại thông tin.
Muốn đáp ứng được nhu cầu kết nối hệ thống tri thức trong một thế giới học tập,
đòi h i tư duy liên hội được thiết kế ngay trong nội dung, phương tiện nghiên
cứu và phương pháp giảng dạy. Như thế, khi đứng trước nhu cầu giải quyết mâu
thuẫn kiến thức của tình huống học tập, người học không chỉ giải quyết theo
hướng trực tuyến hay nội suy mà có thể còn giải quyết bằng cách ứng dụng một
cách linh hoạt khả năng liên hội kiến thức.
Tích hợp và học tập
Mục đích chung của việc học là hiểu sự liên kết của mọi hiện tượng, sự vật.
Tích hợp là cách tư duy trong đó các mối liên kết được tìm kiếm, do vậy, tích
hợp làm cho việc học chân chính xảy ra (Clark, 2002). Như thế, với định nghĩa
học tập là cách tìm kiếm các mối liên hệ và kết nối các kiến thức, Clark đã khẳng
định quy luật tích hợp tất yếu của tiến trình học tập chân chính. Cụ thể, sự thâm
nhập có tính chất tìm tòi khám phá của học sinh vào quá trình kiến tạo kiến thức,
học tập có
nghĩa (meaningful learning), học sâu sắc và ứng dụng (deep
learning) được xem là chủ yếu đối với việc dạy và học hiệu quả. Và cách tiếp cận
tìm tòi-khám phá này khuyến khích học sinh thông qua quá trình tìm kiếm tích
cực, sẽ kết hợp hơn là mở rộng các kiến thức rời rạc (Hamston & Murdoch,
1996). Nhiều nghiên cứu ứng dụng tâm l học nhận thức vào giáo dục đã khẳng
định: mối liên hệ giữa các khái niệm đã học được thiết lập nhằm bảo đảm cho
m i học sinh có thể huy động một cách hiệu quả những kiến thức và năng lực của
mình để giải quyết tình huống, và có thể đối mặt với một khó khăn bất ngờ, một
tình huống chưa từng gặp. Nhờ đó, học sinh có điều kiện phát triển những kỹ
năng xuyên môn, những khả năng có thể di chuyển.
Chương trình giáo dục tích hợp
Chương trình tích hợp chính xác là gì? Trong khái niệm đơn giản nhất của
nó, chương trình tích hợp liên quan đến việc tạo lập các kết nối, các mối liên hệ.
Các loại kết nối nào? Xuyên qua các môn học? Với đời sống thực tế? Các kết nối
này dựa trên kiến thức/nội dung hay dựa trên kỹ năng/ năng lực. Theo Drake and
Burns (2004), việc định nghĩa chương trình tích hợp đã là đề tài bàn bạc từ khi
thế kỷ 20 bắt đầu. Hơn một trăm năm qua, các nhà l thuyết đã đưa ra ba loại cơ
bản về hoạt động tích hợp. Các loại tích hợp này được xác lập giống nhau mặc d
tên gọi của chúng thường khác nhau. Tích hợp có vẻ như là vấn đề của phương
pháp và mức độ. Từ nhìn nhận này, Drake and urns (200 ), đề xuất các định
nghĩa của mình về các định hướng tích hợp mà theo họ, chúng tương thích với
các định nghĩa đã được các nhà giáo dục đề ra qua nhiều thập kỷ vừa rồi. a loại
này cung cấp điểm khởi đầu cho việc hiểu các cách tiếp cận tích hợp khác nhau:
14
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
Tích hợp đa môn (Multidisciplinary Integration)
Tích hợp liên môn: Interdisciplinary Integration
Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration)
(1) Tích hợp đa môn (The Multidisciplinary Integration)
Các cách tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các
môn liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung và PPDH nhưng
m i môn lại có một chương trình riêng. Tích hợp đa môn được thực hiện theo
cách tổ chức các Chuẩn từ các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài, dự án, tạo
điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp những kiến thức của các môn học có
liên quan.
Sơ đồ 1 dưới đây thê hiện mối quan hệ giữa các môn học với nhau và giữa
các môn học với chủ đề chung.
Sơ đồ 1. Tích hợp đa môn
Có nhiều phương án khác nhau để tạo nên một chương trình tích hợp đa
môn, và chúng khác nhau về mức độ n lực tích hợp. Những miêu tả dưới đây
phác họa các phương án khác nhau nhằm thực hiện quan điểm tích hợp đa môn
Tích hợp trong nội bộ môn học (Intradisciplinary Approach): Theo phương
án này, các môn, các phần vẫn được học riêng rẽ, nhưng trong quá trình giảng
15
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
dạy, tích hợp được thực hiện thông qua việc loại b những nội dung tr ng lắp,
khai thác sự h trợ giữa các phân môn, giữa các phần trong một phân môn/môn
học. Tích hợp đọc, viết và giao tiếp ngôn ngữ nói trong môn Ngôn ngữ là một ví
dụ. Giáo viên tích hợp lịch sử, địa l , kinh tế, và chính quyền trong nội bộ
chương trình môn học Nghiên cứu xã hội. Thông qua kiểu tích hợp nội bộ môn
học này, người học được trông đợi đạt được hiểu biết về các mối quan hệ giữa
những phân môn khác nhau và mối quan hệ giữa chúng với thế giới.
Tích hợp kiểu lồng ghép (Fusion). Theo cách tích hợp này, các kỹ năng, kiến
thức và thái độ được lồng ghép vào chương trình các môn học thường ngày. Tại
một số trường, học sinh học thái độ tôn trọng người khác qua m i môn học. Chủ
đề Hòa bình hoặc Tiết kiệm năng lượng được lồng ghép học tập qua các môn
học.
Tích hợp kiểu lồng ghép có thể liên quan đến các kĩ năng cơ bản. Tại Hoa
kỳ, nhiều trường nhấn mạnh các thói quen làm việc tích cực trong m i môn học.
Các nhà giáo dục có thể lồng ghép công nghệ vào các môn học trong chương
trình với kĩ năng vi tính được tích hợp vào m i môn học. Phát triển kĩ năng đọc
viết xuyên chương trình là một ví dụ khác của kiểu tích hợp lồng ghép. Số phát
hành Tháng 11/ 2002 của Tạp chí Educational Leadership làm nổi bật chủ đề
“Đọc và Viết trong các lĩnh vực nội dung và tập trung vào cách lồng ghép đọc
viết vào trong chương trình môn học”.
Học tập dịch vụ (Service Learning). Học tập dịch vụ liên quan đến các dự án
cộng đồng được thực hiện trong suốt thời gian học ở lớp. Học tập dịch vụ được
xem là một phương án tích hợp đa môn. Glenn (2001) nhận thấy rằng hơn 80%
các trường tích hợp học tập dịch vụ vào lớp học đã nâng cao mức điểm trung
bình của các học sinh tham gia. Ví dụ, khi giáo viên tích hợp học tập dịch vụ vào
trong chương trình ở trường trung học Springfield, Massachusetts, tỉ lệ b học từ
12 % xuống còn 1 %, số lượng học sinh đi học các trường cao đẳng nghề tăng
đến 22% và số học sinh đạt điểm trung bình .0 và gia tăng từ 12 đến 0%. Theo
Glenn, các chương trình như thế nuôi dưỡng cho học sinh thái độ gắn kết tham
gia với công đồng, mài sắc các kĩ năng sống (“people skills”) và chuẩn bị cho các
em vào đời để làm việc.
Các Góc học tập/ Các môn học song hành (Learning Centers/Parallel
Disciplines). Đây là một cách thức tích hợp phổ biến trong đó một đề tài hoặc
một chủ đề được đưa qua lăng kính c a vài lĩnh vực môn học khác nhau. Ở một
phòng học của một trường tiểu học, học sinh thường trải nghiệm phương án này
ở các góc học tập của lớp. Ví dụ, đối với chủ đề như là “mô thức- patterns”, ở
m i góc học tập có một hoạt động cho phép học sinh tìm hiểu/ thám hiểm các mô
16
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
thức từ quan điểm/góc nhìn của một môn học- toán, ngôn ngữ, khoa học hay
nghiên cứu xã hội. Khi học sinh di chuyển qua các góc học tập để hoàn thành
những hoạt động, họ lĩnh hội khái niệm “mô thức- patterns” dưới lăng kính của
nhiều môn học.
Ở những lớp cao hơn, học sinh thường học một đề tài hay chủ đề trong
những bài học khác nhau. Hướng học này thể hiện dưới hình thức các môn học
song hành; giáo viên sắp xếp nội dung học tập của lớp họ để ghép với nội dung
học của lớp học khác. Ví dụ, học sinh thường trải qua giờ học Văn chương Mỹ
và Lịch sử Mỹ như hai môn học song hành. Các em học một tiết riêng về lịch sử
và đọc văn chương thuộc giai đoạn đó. Ví dụ, học sinh đọc tác phẩm The Red
Badge of Courage bằng tiếng Anh trong lúc học bài Cuộc Nội chiến trong môn
Lịch sử. Học sinh thường được tạo cơ hội để tự tạo nên những kết nối giữa các
môn học như thế.
Các bài học dựa vào chủ đề (Theme-Based Units)
Một số nhà giáo dục vượt xa hơn mức độ sắp xếp chu i nội dung kiểu các
môn học song hành bằng cách hợp tác hoạch định một đơn vị bài học đa môn. Họ
gọi tên cách hoạt động tập trung hơn này là “Đơn vị bài học dựa vào chủ đề”.
Thường có hơn ba lĩnh vực môn học liên quan đến việc học / nghiên cứu một đơn
vị bài học theo chủ đề và bài học này thường được kết thúc bằng một hoạt động
đạt đến mức tích hợp cao nhất. Đơn vị bài học (units) kéo dài trong dăm ba tuần,
và toàn trường có thể tham gia vào. Một đơn vị bài học theo chủ đề được toàn
trường thực hiện có thể độc lập với kế hoạch học tập thường xuyên. Những
chương trình học tập theo chủ đề khác có thể được tiến hành ở cùng một
khối lớp.
(2) Tích hợp liên môn (Interdisciplinary Integration)
Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập
xoay quanh các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm, các khái
niệm và kĩ năng liên ngành/môn. Họ kết nối các nội dung học tập chung nằm
trong các môn học để nhấn mạnh các khái niệm và kỹ năng liên môn. Các môn
học có thể nhận diện được, nhưng họ cho rằng ít quan trọng hơn so với cách tiếp
cận tích hợp đa môn.
Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án trong đó nhiều môn học
liên quan được kết lại thành một môn học mới với một hệ thống những chủ đề
nhất định xuyên suốt qua nhiều cấp lớp. Thí dụ Địa l , Lịch sử, Sinh học, Xã hội,
Công dân giáo dục, Hoá, L , được tích hợp thành môn “Nghiên cứu xã hội và
17
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
môi trường” ở chương trình giáo dục bậc tiểu học tại Anh, Úc, Singapore,
Thailand.
Sơ đồ 2: Tích hợp liên môn (The Interdisciplinary Approach)
(3) Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration)
Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học
tập xoay quanh các vấn đề và quan tâm của người học (Xem Sơ đồ ). Học sinh
phát triển các kĩ năng sống khi họ áp dụng các kĩ năng môn học và liên môn vào
ngữ cảnh thực tế của cuộc sống. Hai con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn: học
tập theo dự án (project-based learning) và thương lượng chương trình học
(negotiating the curriculum).
Học tập theo dự án
Trong học tập theo dự án, học sinh được cho cơ hội giải quyết một vấn đề
của địa phương. Một số trường gọi đây là học tập dựa vào vấn đề hoặc học tập
dựa vào nơi sinh sống. Theo Chard (1998), việc hoạch định chương trình học
theo dự án được tiến hành qua ba bước:
1. Giáo viên và học sinh chọn một đề tài nghiên cứu theo mối quan
tâm của học sinh, chuẩn chương trình và nguốn tài nguyên của địa
phương.
2. Giáo viên nhận diện ra những điều học sinh đã biết và giúp họ đưa
ra những câu h i để tìm kiếm, khám phá. Giáo viên cũng cung cấp nguồn
cho học sinh và cho họ cơ hội làm việc trong lĩnh vực chuyên môn.
18
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
3. Học sinh chia sẻ, trao đổi công việc với người khác thông qua một
hoạt động có tính tích hợp cao nhất. Học sinh trưng bày kết quả tìm thấy
được, tổng quan và đánh giá dự án đã thực hiện
Thương lượng chương trình học
Theo cách học tích hợp này, những vấn đề/câu h i của học sinh đặt ra sẽ hình
thành nên cơ sở của chương trình học. Mark Springer, giáo viên của trường
Radnor, Pennsylvania, thương lượng một chương trình học với học sinh ( rown,
2002). Springer đã dẫn đến một chương trình được cả nước biết đến, đó là Đường
phân thủy- Watershed, kéo dài trong 11 năm. Chương trình hiện tại của ông ấy là
Những ý tưởng mới đang được dò tìm- Soundings. Trong Soundings, HS lớp 8
phát triển chương trình học của riêng mình, Các chủ đề mà học sinh đã phát triển
bao gồm “ ạo lực trong nền Văn hóa của chúng ta”, “Các vấn đế y tế ảnh hưởng
đến cuộc sống của chúng ta”; “Những môi trường ngoài hành tinh còn tồn tại”.
Sơ đồ 3: Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration)
2. TÍCH HỢP TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI HỌC
Chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trên thế giới theo hướng tích
hợp nhằm phát triển cho giáo sinh nền tảng nhận thức/triết lý cá nhân về
chuyên môn sư phạm và năng lực nghề nghiệp
Các chương trình đào tạo giáo viên tiểu học ở Anh Úc tinh gọn do số lượng
học phần/môn học nh . Chẳng hạn, sau đây là số lượng môn học trong chương
trình khung đào tạo giáo viên tiểu học của một số trừơng đại học ở Anh và Úc.
Northumbia- Anh: 15 học phần/
Greenwich- Anh: 2 học phần/
Western Sydney- Úc: 0/5 năm
Queensland- Úc: 1/
19
năm
năm
năm
Hội thảo Dạy học tích hợp ở Tiểu học – Hiện tại và Tương lai
Latrobe- Úc: 5/
năm
Như vậy, toàn khoá đào tạo giáo viên tiểu học ở Anh và Úc nhìn chung bao
gồm từ 15 đến 5 học phần. Số lượng học phần này bao gồm cả các học phần
thực tập sư phạm hằng năm.
So với chương trình đào tạo của Anh và Úc, số lượng học phần của chương
trình đào tạo giáo viên của các trường ĐHSP chúng ta có khuynh hướng gấp đôi
hoặc hơn. Ví dụ chương trình đào tạo giáo viên tiểu học bao gồm 58 học phần.
Với số lượng học phần lớn, thời gian lến lớp nhiều nên m i học kỳ, sinh viên
Việt Nam phải bao quát từ 8 đến 10 học phần thuộc nhiều lĩnh vực môn học/
ngành học khác nhau và tiếp cận chúng trong tình thế tách rời nhau. Do vậy tải
chương trình nặng nề, kiến thức thiếu tính cập nhật và thực tiễn, người học thiếu
thời gian và môi trường học tập có nghĩa để có thể “phát triển lối học sâu sắc”,
phát triển tự học, tự nghiên cứu”, còn người quản l chương trình thì nặng nề với
việc tổ chức thi cử nhiều môn học, do vậy việc kiểm soát kết quả đầu ra của các
môn học thường mơ hồ, khó khăn.
Chương trình đào tạo giáo viên của Việt Nam nặng về đào tạo kiến thức môn
học và kiến thức đại cương, trong lúc chương trình đào tạo của Anh và Úc nặng
về đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Tuy tỉ lệ các môn học thuộc kiến thức nghiệp vụ
vượt trội nhưng chương trình đào tạo giáo viên của Anh và Úc tuyệt đối không
nặng về rèn kỹ thuật nghiệp vụ giảng dạy do chúng tập trung đào tạo nghiệp vụ
chuyên môn theo diện rộng- một quan điểm khởi nguồn từ đại học Harvard, nơi
được xem là cái nôi của quan điểm đào tạo đại học theo tín chỉ.
Đào tạo năng lực nghề theo diện rộng của chương trình được thể hiện qua
quan điểm nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển trong m i giáo sinh một
triết l nghề nghiệp (professional philosophy), một bản sắc nghề nghiệp cá nhân
(pedagogical identity) bao gồm nhận thức, niềm tin, quan điểm về dạy và học, về
người học c ng với tập hợp các năng lực chung như giải quyết vấn đề, sáng tạo,
hợp tác, thu thập-xử l thông tin để áp dụng triết l dạy học vào thực tiễn lớp
học. Nói khác đi, chương trình tập trung vào việc giúp cho giáo sinh trở thành
những nhà chuyên môn sư phạm thông qua tiến trình kết hợp chặt chẽ và sâu sắc
giữa lĩnh hội l thuyết và trải nghiệm thực tế, ứng dụng l thuyết dạy học và giáo
dục chung vào những lĩnh vực giảng dạy cụ thể khác nhau, kết nối hệ thống tri
thức liên ngành vào thế giới học tập. Do vậy mặc d chương trình thiên về đào
tạo nghiệp vụ sư phạm nhưng là lối đào tạo nghiệp vụ theo diện rộng, tạo điều
kiện cho người học hình thành và phát triển nhận thức và những năng lực tổng
hợp và hiểu biết tổng quát làm nền tảng cho sự phát triển nghiệp vụ chuyên môn
về lâu dài.
20
- Xem thêm -