Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Artemia nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản nguyễn văn hòa và cá...

Tài liệu Artemia nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản nguyễn văn hòa và các tác giả khác

.PDF
134
1191
139

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THUY s ả n ‘' H T ii 1 w 1 L b :'-B1B à. T' ế, : 11 p» r*1' •- ■ '••••'.— 1 1 1 1 M ¡¡1 1 H B SSH ng m 1 ■ ■ m m 1 1H •! 8 ÍẼn BIB5ĨIi T m TcĨ ị v r* /■ẹPệ r NHÂ XUÃT BÁN NÕNG NGHIỆP ^tỊM ÍỊ iì TTOImàT Chủ biên: TS. NGUYỄN VĂN HÒA Artemia - Nghiên cứu & ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP Tp. Hồ Chí Minh - 2007 Nhóm biên tập Khoa Thủy sản, Đại học cần Thơ TS. Nguyễn Văn Hòa (Chủ biên) ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân ThS. Nguyễn Thị Ngọc Anh ThS. Phạm Thị Tuyết Ngân ThS. Huỳnh Thanh Tới KS. Trần Hữu Lễ Cộng tác viên ThS. Nguyễn Phú Son (Viện NC&PT ĐBSCL, ĐHCT) TS. Võ Thị Gương (Khoa Nông nghiệp, ĐIICT) TS. Châu Minh Khôi (Khoa Nông nghiệp, ĐHCT) ThS. Tất Anh Thư (Khoa Nông nghiệp, ĐHCT) MỤC LỤC Lời cảm t ạ ............................................................................................ 7 Lời giới thiệu........................................................................................ 9 Lời mở đầu.............................. 11 1. CHƯƠNG I: Tổng quan................................................................ 13 1.1. Artemia là gì?...................................................................... 13 1.2. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản....................13 1.3. Sản lượng, nhu cầu trứng bào xác Artemia và khả năng đáp ứng trên thế giới.............................................................14 1.4. Sự cần thiết của nghề nuôi Artemia trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta và những đóng góp của nó vào sự cải thiện kinh tế xã hội của vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)................ .7. .................................................... „ . . . 7. 7. 17 1.5. Hiện trạng nghề sản xuất muối ở ĐBSCL........................... 18 Lố. Khó khăn của nghề sản xuất muối truyền thống...................20 1.7. Lịch sử nghiên cứu và hướng phát triến nghề nuôi Artemia ờ Việt Nam.............................................................................. 21 2. CHƯƠNG II: Sinh học của Artemici..............................................25 2.1. VỊ trí phân loại và đặc điểm phân b ố ...................................25 2.2. Đặc điểm môi trường sống...................................................26 2.3. Chu kỳ sống của Artemia.....................................................29 2.4. Đặc điểm dinh dưỡng.......................................................... 32 2.5. Đặc điểm sinh sản............................................................... 33 2.6. Sự thích nghi của Artemia trong quá trình di nhập..............34 3. CHƯƠNG III: Kỳ thuật nuôi Artemia........................................... 40 3.1. Điều kiện tự nhiên................................................................ 40 3.1.1. Ruộng muối Vĩnh Châu.................................................. 40 3.1.2. Đặc điểm tự nhiên mộng muối Bạc Liêu.......................41 3.2. Kết cấu ruộng muối............................................................. 43 3.2.1. Hệ thống đê, b ờ :............................................................. 43 3.2.2. Hệ thống kênh - mương, cống........................................ 44 3 3.2.3. Các khu vực bốc hơi....................................................... 45 3.3. Các mô hình nuôi Artemia tổng quát.....................................46 3.3.1. Mô hình nuôi nước tĩnh......................................................46 3.3.2. Hệ thống ao nuôi Artemỉa nước chảy...................'...........48 3.3.3. Các mô hình nuôi kết hợp.................................................50 3.4. Qui trình nuôi Artemỉci thu trứng bào xác..............................52 3.4.1. Chọn địa điểm.................................................................... 52 3.4.2. Thời vụ................................................................................53 3.4.3. Xây dựng và tu tủa aonuôi................................................53 3.4.4. Cải tạo ao............................................................................58 3.4.5. Thả giống............................................................................59 3.4.6. Chăm sóc quản l ý .............................................................. 63 3.4.7. Địch hại của Artemici và cách phòng ngừa......................74 3.4.8. Một số nhân tố môi trường cần quan tâm trong quá trình quản lý ao nuôi Artem ia......................... 75 3.4.9. Một sổ bệnh thường gặp ở Artemia và cách xử lý.......... 77 3.4.10. Thu hoạch và sơ chế sản phẩm...................................... 78 3.4.11. Phương pháp chế biến, bảo quản................................... 80 3.4.12. Đánh giá chất lượng trứng thành phẩm (sau khi sấy)....87 3.5. Nuôi Artemia sinh khối........................................................... 88 3.5.1. Sơ lược về tầm quan trọng và giá trị sử dụng của sinh khối Artemia trong nuôi trồng thủy sản............ 88 3.5.2. Kỹ thuật nuôi..................................................................... 89 3.5.2.1. Nuôi sinh khối trong ao đất........................................ 89 3.5.2.2. Kỹ thuật nuôi sinh khối trên bể tuần hoàn.................93 3.5.3. Các phương pháp thu và vận chuyển sinh khối............... 96 3.5.4. Sơ chế và bảo quản sinh khối........................................... 96 4. CHƯƠNG IV: Kinh tế xã hội của nghề nuôi Artemỉa - Thuận lợi và khó khăn của việc sản xuất và kinh doanh Artemỉa....................... 99 4.1. Bối cảnh sản xuất của khu vực ruộng muối Vĩnh Châu, Sóc Trăng, Việt N am .............................................................. 99 4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất Artemỉci....... 103 4 4.3. Những thuận lợi và khó khăn của việc sản xuất và kinh doanh Artemia....................................................... 105 4.3.1. Cơ hội............................................................................105 4.3.2. Thách thức.................................................................... 106 4.3.3. Lợi thế............................................................................106 4.3.4. Bất lợ i............................................................................107 4.4. Định hướng và giải pháp phát triển....................................107 4.4.1. Xác định những chiến lược lựa chọn............................107 4.4.2. Giải pháp thực hiện các chiến lược..............................111 5. CHƯƠNG V: Sử dụng Artemỉa trong nuôi trồng thủy sản..........115 5.1. Sử dụng trứng bào xác.......................................................115 5.1.1. Sản phẩm trứng Artemia................................................115 5.1.2. Chất lượng trứng bào xác.............................................116 5.2. Kỹ thuật sử dụng trứng bào xác Artemia trong nuôi trồng thủy sản...............................................................................113 5.2.1. Cải thiện tỉ lệ n ở ...........................................................119 5.2.2. Cải thiện chất lượng trứng............................................ 121 5.3. Sử dụng sinh khối Artemia..................................................123 6. CIIUƠNG VI: Ket luận ...............................................................127 Tài liệu tham khảo.............................................................................129 5 LỜI CẢM TẠ Đê hoàn thành được cuốn sách này, tập thể tcỉc giả xin chân thành cám ơn sự tài trợ, ủng hộ và đóng góp của các Tổ chức, Dự cm và Cả nhãn trong và ngoài nước đã có những đóng góp thiết thực, hiệu quả đên sự thành công công trình nghiên cítu về Artemia tại trường Đại học Cần Thơ từ trước đên nay cũng như việc tiếp tục các công trình nghiên cứu có liên quan từ nay vế sau. Việc đóng góp này không những chi liên quan đến đối tượng nghiên cứu lù Artemia mà còn hỗ trợ trong việc trang bị các máy móc, thiết bị có liên quan cũng như việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, đã góp phần đáng kể trong hoạt động giảng dạy và nghiên cíeu của Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. Theo thời gian chúng tôi xỉn liệt kê các Tổ chức và Dự án đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng như sau: Komitee Wetenschap en Techniek voor Vietnam (KWT) Hà Lan (1983-1989), FAO (1986), EC (1990-1995), và liên tục các dự án VLIR-EỈ (19951998), VLIR-B1, Rl-1 (1998-2007) thuộc dự án VLIR-IUC (viaamse Interuniversitaire Raad = Flemish Interuniversity Council) của Vương Quốc Bỉ. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ thiết thực của Bộ Giáo dục và Đào tạo đế thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát triến Artemia-Tôm (1991) và sau này trở thành Viện Nghiên cứu và Phát triến ArtemiaTôm (1996) tại Đại học cần Thơ cũng như hỗ trợ kinh phí dế thực hiện triển khai Dự án nuôi Artemia thu trứng bào xác ra thực tiễn sản xuất trên địa bàn huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Đổi với cá nhân, chúng tôi xỉn chân thành cảm ơn những dóng góp to lớn của các chuyên gia nước ngoài và dặc biệt là 0. Jaap T. Brands (KWT, Hà Lan) cùng các chuyên gia Hà Lan đã hỗ trợ Dự án lúc ban đầu: De Graaf, Rothuis, Van der Zanden; GS.TS. Patrick .Sorgeỉoos (DI1 Ghent, Vương Quốc Bỉ), Thomas Bosteels, Peter Baert (Díỉ Ghent, Vương Quốc Bỉ), Kỹ sư Nguyễn Kim Quang (Nguyên Hiệu phó Trường Đại học cần Thơ, nguyên Trưởng Khoa Thủy sản và Chủ trì Dự án Nghiên cứu và Phát triển Artemia- Tôm, Trường Đại học cần Thơ) và Tiến sĩ Vũ Đồ Quỳnh, nguyên Giám đổc Viện Nghiên cứu vù Phát triển Artemia-Tôm, Đại học cần Thơ đã cỏ công lớn trong việc khai sinh ra lĩnh vực nghiên cứu Artemia tại Việt Nam cũng như ứng dụng ra sản xuất mang lại hiệu quả thiết thực, to lớn. Ke đến là tất cả 7 Thầy Cô và các thế hệ sinh viên trong Khoa Thủy sản, Đại học cần Thơ đã có những đóng góp trên tất cả céic lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và quan trọng hơn hết là đã chuyến giao được thành quả nghiên cứu khoa học đổi tượỉíg Artemỉa ra thực tiễn đời sổng. Cuối cùng đế có được bản in hoàn chỉnh chúng tôi cũng xin cám ơn Kỹ sư Dương Thị Mỹ Hận đã bỏ nhiều thời gian và công sức đế hiệu đính cho quyên sách này. 8 LỜI GIỚI THIỆU ghề nuôi hải sản ở Việt Nam đang phát triển mạnh trong thời gian gần đây, đặc biệt là nghề nuôi tôm Sú (Penaeus mondon) và các loài cá biển như cá Chẽm (Lates calcarifer), cả Mủ (Epinepheỉus coioiảes), cả Bốp (Rachycentron canadum)... Sản lượng thu hoạch hằng năm ước tính khoảng 250.000 - 300.000 tấn. Dự kiên đẽn năm 2010 sản lượng nuôi trông hải sản là 650.000 tân. Đế đạt được chỉ tiêu này, việc phát triển nghề nuôi sinh vật làm thức ăn cho ấu trùng đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất giống hải sản ở nước ta. Artemia hiện nay là nguồn thức ăn tươi sổng chủ yếu, được sử dụng rộng rãi trong nghề nuôi hải sản. Do đó, vấn dể nghiên cítu về Artemia trên thế giới đã được bắt dầu từ lâu, có rất nhiều công trình công bố về lĩnh vực này. Ớ nước ta, dù nghề nuôi Artemia chỉ mới bắt đâu trong những năm 80 của thế kỷ trước, nhưng đã có nhiều công trình nghiên círu đến đổi tượng này. Tuy nhiên, chưa có ai tổng hợp chúng lại một cách hoàn chỉnh. Do đó, đặt vẩn đề hệ thống lại các còng trình nghiên cứu Artemia của các tác giả trong nước VCỈ nước ngoai lù một việc làm cần thiết và rất cỏ ỷ nghĩa. Cuốn sách “Artemia - Nghiên cứu & ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản” của TS. Nguyễn Văn Hòa và cộng sự đã giới thiệu dầy đủ về tình hình nghiên círu Artemia trên thế giới, đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi. Vấn để kinh tế xã hội của nghề nuôi Artemia và việc sử dụng chúng trong nuôi trổng thủy sản ở nước ta cũng được tác giả phàn tích một cách sâu sắc và hợp lý. Tác giả của cuốn sách là người nhiêu năm nghiên cứu về lĩnh vực này, cho nên độ tin cậy của sổ liệu và thông tin trong cuốn sách là rất cao. Sách có thế sử dụng trong việc sản xuât Artemia hoặc làm tài liệu tham khảo, giảng dạy ở các trường đại học. Nội dung cập nhật khả nhiều thông tin mới, bổ cục cuốn sách hợp lý, câu chữ rõ ràng và dễ hiếu. Tóm lại, đâv là một cuốn sách có giá trị về cả khoa học VCI thực tiên. Việc xuất bản cuốn sách sẽ góp phần phát triến nghề nuôi Artemia và là tài liệu tin cậy dùng trong nghiên cứu và giảng dạy như đã trình bày ở trên. Nha Trang, ngày 20.10. 2007 TS. Trương Sĩ Kỳ Viện Hải Dương Học Nha Trang 9 L Ờ I M Ở ĐÀU Hoạt động nghiên cím và ủng clụng Artemia ở Việt Nam hắt đầu từ những năm 80 và đạt dược nhiều thành quả trên các lĩnh vực nghiên cím sinh học, các mô hình nuôi (trong phòng thí nghiệm và ngoài đông) và sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Quyên sách: “Artemìa Nghiên cửu & ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản ” được Khoa Thủy sản tống hợp lại từ các kết quả nghiên cứu và ứng dụng tại Việt nam, đặc hiệt là của Trường Đại học cần Thơ. Nội dung quyến sách đề cập đến các thông tin về nguồn cung cấp và nhu cầu Artemia trong ngành nuôi trồng thủy sản trong nước cũng như trên thế giới. Các thông tin về đổi tượng nuôi - Artemia (sự hiện diện ngoài tự nhiên, các đặc điếm về dinh dưỡng, sinh sản, khả năng di nhập và thuần hóa Artemia nhằm đáp ứng cho hoạt dộng nuôi trồng thủy sản). Dựa trên các kết quả nghiên cứu của Khoa Thủy sản, Trường Đại học cần Thơ quyến sách đề cập khá chi tiết về các qui trình nuôi, mô hình nuôi Artemỉa bao gồm việc lựa chọn địa điếm nuôi, kỹ thuật xây dựng công trình, cách quản lý ao nuôi, kỹ thuật thu trứng bào xác, sinh khối cùng kỹ thuật sơ chế trên ruộng muối. Quyến sách cũng đề cập đến qui trình sản xuất sinh khối trên bể nuôi nhân tạo trong các trại giong thủy sản. Ngoài ra, các thông tin về sử dụng Artemỉa trong nuôi trồng thủy sán cũng được đề cập, giúp cho việc chế biến và sử dụng sản phẩm Artemỉa được hiệu quả hơn. Dựa vào các thông tin tống hợp được, quyển sách nhằm tới nhu cầu tham khảo của cản bộ trong công tác giảng dạy và nghiên cứu cũng như phục vụ cho sinh viên ngành nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra dãy cũng là một tài liệu tlĩiêt thực cho các cản bộ kỹ thuật, cản bộ khuyến ngư và người nuôi đế có thê ứng dụng các thành quả nghiên cứu ra sản xuất. Các tác giả 11 Chương I TỔNG QUAN 1.1. Artemia là gì? Artemỉa là tên Latin của một loài giáp xác nhỏ (Hình 1) chuyên sống ở những vùng nước mặn có biên độ muối rộng (từ vài %0 đến 250 %0 như ở ruộng muối). Trong tự nhiên người ta thấy có sự hiện diện của quần thể Artemỉa ở những đầm, hồ nước mặn. Artemỉa được biết đến vào những năm đầu thập niên 30 khi chúng được xác định là một loại thức ăn tươi sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương nuôi các giống loài thủy sản như tôm cá, nhuyễn thể (Hình 2). Hình 1: Artemia trưởng thành (10-12 mm) Hình 2: Nhu cầu sử dụng Artemla trong sản xuâ't giông tôm cá Ở Việt Nam Artemìa được du nhập từ đầu thập niên 80 dưới dạng trứng bào xác để làm thức ăn cho tôm càng xanh. Sau đó nguồn trứng này được sử dụng làm giống để nuôi thử nghiệm trong phòng và thả nuôi trên ruộng muối Vĩnh Châu, Bạc Liêu, Cam Ranh, Phan Thiết...và hiện nay nó đã trở thành một đối tượng nuôi phổ biến kết hợp với nghề làm muối của diêm dân vùng ven biển Sóc Trăng - Bạc Liêu. 1.2. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng Artemỉa là nguồn thức ăn tươi sống lý tưởng cho các loài ấu trùng cá và giáp xác (Seal, 13 1933 ; Gưos, 1937 ; Rollefsen, 1939 ; Sorgeloos, 1980a ; Lim và ctv., 2001). Theo Léger và ctv., 1986 chính nhờ khả năng tạo nên trứng nghỉ (hay còn gọi là trúng bào xác = cysts) mà Artemia trở thành sản phẩm thích họp, là nguồn thức ăn rất tốt trong ương nuôi ẩu trùng tôm cá. Trứng nghỉ tồn tại quanh năm với khối lượng lớn ven bờ các vùng đầm, hồ nước mặn hoặc các vùng ruộng muối ở năm châu lục (Persoone và Sorgeloos, 1980). Sau khi thu hoạch và chế biến trứng nghỉ có thể được sử dụng bất cứ lúc nào theo yêu cầu bằng cách ấp nở chúng trong nước biển, sau 24 giờ, ấu trùng Artemia mới nở có thể dùng ngay làm thức ăn cho đa số ấu trùng các loài tôm cá. Ngoài ra Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành, được gọi là sinh khối, có giá trị dinh dưỡng cao hơn Artemỉa mới nở từ trứng (Sorgeloos, 1980 ; Naessens ctv., 1997 ; Wouters ctv., 1999) và được sử dụng làm thức ăn phố biến trong các trại giống, trại ương hoặc nuôi vỗ tôm cá bố mẹ. Artemia trưởng thành có giá trị dinh dưỡng rất cao (lóp vỏ giáp mỏng hơn lpm), chiếm 60% lượng đạm và rất giàu amino acid tính trên trọng lượng khô. Thêm vào đó, Artemỉa còn chứa một lượng đáng kể về vitamin, kích dục tố, sắc tố, (Sorgeloos và ctv., 1987). Người ta khám phá rằng sử dụng sinh khối Artemỉa trưởng thành có thể gây phát dục cho tôm bố mẹ mà không cần cắt mắt (Sorgeloos, 1987 ; Tackaert và Sorgeloos, 1991). Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh việc sử dụng Artemia sinh khối để nuôi vỗ tôm cá bố mẹ đã kích thích sự thành thục của buồng trứng, gia tăng số lần đẻ và cải thiện chất lượng ấu trùng (Browdy và ctv., 1989; Naessens và ctv., 1997; Wouter và ctv., 1999a theo trích dẫn của Wouter và ctv., 2001). Sinh khối Artemỉa còn được sử dụng để làm thành phần hoặc chất kích thích trong thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm cá (Léger và ctv., 1986). Tuy nhiên, khá phổ biến là việc sử dụng hoàn toàn sinh khối đông lạnh Artemia để thay thế cho ấu trùng Artemỉa mới nở trong sản xuất giống tôm he Marsupenaens japonicus (Guimares và De Hass, 1985 theo Léger và ctv., 1986), các tác giả này đã nêu lên rằng để sản xuẩt một triệu con tôm he giống chỉ cần khoảng 1,8 kg bột sinh khối Artemia. 1.3. Sản lượng, nhu cầu trứng bào xác Artemia và khả năng đáp ứng trên thê giới Vào đầu những năm 50 việc thương mại hóa trứng bào xác Artemia chỉ bao gôm lượng trứng thu hoạch ở khu vực ruộng muối thuộc vùng San Francisco (SFB), tiểu bang California, Mỹ và khu vực hồ nước mặn Great Salt Lake (GSL), tiểu bang Utah, Mỹ. Tuy nhiên đến 14 những năm 80 lượng trứng bào xác Artemia tham gia thị trường gia tăng nhờ sự khai thác mở rộng ra các thủy vực tự nhiên (Achentina, Úc, Canada, Columbia, Pháp và Trung Quốc), hoặc các vùng ruộng muối (Brazil, Thái Lan, Việt Nam). Trải qua một thời gian dài, hơn 90% lượng trúng bào xác thu hoạch trên thế giới có nguồn gốc từ GSL và phần còn lại (10%) góp phần từ Trang Quốc, Siberi, khu vực ruộng muối vùng San Francisco (Mỹ), vùng Vĩnh Châu-Bạc Liêu (Việt Nam), Colombia và vùng Đông - Bắc Brazil, từ Canada (Hồ Chaplin), Úc (Vịnh Shark)... Năm 1997, khoảng 6.000 trại giống có nhu cầu tiêu thụ 1.500 tấn trứng bào xác Artemỉa hàng năm. Trong đó khoảng 80-85% tổng lượng trứng bào xác Artemia được sử dụng trong các trại sản xuất tôm giống, phần còn lại được sử dụng cho các trại sản xuất giống cá biển ở Châu Âu, khu vực Đông Á và cung ứng cho thị trường cá kiểng. Dần liệu trong bảng 1 cho thấy sự biến động của lượng trứng nguyên liệu thu hoạch ở GSL trong thời gian từ 1988-1999. Vào năm 1999, hồ GSL sản xuất được khoảng 1.200 tấn thành phẩm (trọng lượng khô, quy theo tỉ lệ 3 khối lượng trứng nguyên liệu = 1 khối lượng trứng khô) trong khi ở hai mùa thu hoạch gần đây lượng trứng thu hoạch giảm đáng kể do ảnh hưởng của thời tiết thất thường (tác động của El Ninõ và La Ninã). Bảng 1: Lượng trứng bào xác Artemỉa thu hoạch (tấn trứng nguyên liệu) ở Great Salt Lake (GSL) (theo Lavens và Sorgeloos, 2000). Mùa vụ 1988/1989 1989/1990 1990/1991 1991/1992 1992/1993 1993/1994 1994/1995 1995/1996 1996/1997 1997/1998 1998/1999 Khối lượng thu hoạch (Tấn) 2170 5020 4860 5870 4900 4030 2680 6640 6600 2020 <2000 15 Sự thiếu hụt trứng bào xác Artemia trên thị trường thế giới cùng với khả năng không thể dự báo tình hình thu hoạch hàng năm ảnh hưởng đến sự ổn định trong khâu cung cấp thức ăn cho các trại giống thủy sản. Tình hình này dẫn đến việc tìm kiếm các khu vực khác nhằm có thể khai thác (Vanhaecke và ctv., 1987; Triantaphyllidis và ctv., 1998) thêm dối tượng này. Được biết các khu vực này có tiềm năng sản xuất Artemia tưong đương với GSL. Tuy nhiên, vẫn còn rất khó khăn đế có thể ước lượng lượng trứng sản xuất được trong tương lai do các thông tin được ghi nhận vê các khu vực tiêm năng này vô cùng hạn chê. Điều này nói lên khả năng sản xuất trúng bào xác không ổn định ở các địa điểm khai thác, do đỏ càng nhiều địa điểm có khả năng khai thác sẽ giúp hạn chế tối đa rủi ro thiếu hụt trứng bào xác Artemia bởi nhũng thay đổi về môi trường. Thêm vào đó, khả năng sản xuất một lượng nhỏ trứng bào xác (1-20 tấn) với tỉ lệ nở cao sẽ được cung ứng từ các vùng sản xuất muối truyền thống ở khắp thế giới (Lavens và Sorgeloos, 1998). Những vùng sản xuất trúng bào xác với quy mô nhỏ như thế này, mặc dù rất thành công về mặt kỹ thuật ở nhiều quốc gia Đông Nam Á và Mỹ Latinh (Sorgeloos, 1987), vẫn chưa được khẳng định sẽ góp phần một cách đáng kể vào nguồn cung cấp trứng bào xác trên thế giới (Lavens và Sorgeloos, 2000) vì nỏ chỉ chiếm khoảng 2% tổng lượng trứng sản xuất ra hàng năm trên thế giới. Việc sản xuất trứng bào xác Artemia ở những địa bàn mới rất khó dự đoán, chẳng hạn như ở khu vực ruộng muối Brazil. Sau những thành công ban đầu, sản lượng thu hoạch trứng bào xác bắt đầu bị tụt giảm từ năm 1982 cho tới nay vẫn chưa được cải thiện. Nguyên nhân chính được cho là do hàm lượng dinh dưỡng trong môi trường ao nuôi giảm thấp kéo theo sự tụt giảm của sức sản xuất sơ cấp. Tuy nhiên, cũng có giả thiết cho rằng Artemia Brazil bị mất dần cơ chế đẻ trứng do quần thể Artemia đã thích nghi với điều kiện môi trường ổn định quanh năm ở đây (Camara và Tackaert, 1992). Trong khi đó ở những nước khác như Thái Lan, Philippines, Việt Nam ...mặc dù có những thành công nhất định nhưng việc ổn định qui trình sản xuất trên một quy mô lớn vẫn còn nhiều bất cập (người dân không được hướng dẫn qui trình nuôi một cách đầy đủ, thiếu kinh nghiệm hoặc với những đặc điểm địa hình khác nhau thì cũng ảnh hưởng đáng kể đến năng suất ao nuôi), chưa kê việc cung ứng các dịch vụ cho nghê nuôi còn mang tính tự phát hoặc phong trào, bên cạnh đó việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả các yếu tố trên chưa tạo được sự an tâm hoặc thuyết phục người dân đầu tư vào đối tượng mới này. 16 1.4. Sự cần thiết của nghề nuôi Ártemia trong việc phát triển nuôi trông thủy sản ở nưóc ta và những đóng gồp của nó vào sự cải thiện kinh tế xã hội của vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Theo kế hoạch của Bộ Thủy sản, đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trông thủy sản nước ta sẽ phân đâu đạt trên 2.000.000 tấn với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2,5 tỉ USD. Nhắm tới chỉ tiêu này diện tích nuôi thủy sản sẽ phải mở rộng tương ứng với tôm sú sẽ tăng lên 260.000 ha, cá biển 40.000 ha, cá lồng bè 40.000 ha và tôm càng xanh đạt 32.000 ha. Cùng với việc gia tăng diện tích nuôi, nhu cầu con giống đáp ứng cho chỉ tiêu này cũng phải đạt tới mức 35 tỷ con tôm sú giống, trên 500 triệu con giống giáp xác, khoảng 400 triệu con giống cá biển nước lợ (cá song, cá hồng, cá cam, cá vược, cá măng...), 3,5 tỷ con giống tôm càng xanh và 12 tỷ con giống cá khác (H. Phương, 2004). Đe sản xuất 1 triệu giống PL15 tôm càng xanh thì cần khoảng 15kg trứng bào xác Artemia, tôm sú cần 4-5kg (sổ liệu Khoa Thủy sản, ĐHCT). Trong khi đó để sản xuất giống các loài cá biển thì nhu cầu trứng dao động trong khoảng 200-500g để sản xuất 1.000 con cá giống fhttp://www.bohai-,4/ygffl/ư.com/application.html). Do vậy nhu cầu về thức ăn để sản xuất con giống ở nước ta là rất lớn và đặc biệt là trúng bào xác Artemia có thể lên đến hàng trăm tấn mỗi năm, tỷ lệ thuận với sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản. Chủ động sản xuất trứng Artemia trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu các trại giống là một vấn đề quan trọng bởi vì: (1) Tiết kiệm một lượng lớn ngoại tệ cho đất nước (hiện tại giá nhập khẩu trứng bào xác Artemỉa dao động 30-150 USD/kg tùy theo chất lượng trứng), (2) Chủ động sản xuất vì không phụ thuộc vào trứng nhập khẩu từ nước ngoài (cung cầu khó dự đoán), (3) Chất lượng trứng sản xuất tại Vĩnh Châu-Bạc Liêu có chất lượng dinh dưỡng tốt hơn, kích thước Artemia-nauplii nhỏ hơn so với các loại trứng nhập khẩu khác. Qua kết quả nghiên cứu và ứng dụng nhiều năm của Khoa Thủy sản Đại học cần Thơ trên địa bàn Vĩnh Châu, Bạc Liêu cho thấy hoàn toàn có khả năng tự sản xuất để đáp nhu cầu trong nước kể cả cho xuất khẩu (vào năm 2000, lượng trúng khô thu được trên toàn vùng ven biển này là gần 15 tấn). Mặt khác, hiệu quả kinh tế của nghề sản xuất Artemia rất đáng quan tâm khi mang lại lợi nhuận cao gấp 4-5 lần so với nghề sản. xuất muối truyền thống. Sau hơn mười năm triển khai ra sản xuất nghề nuôi Artemia đã được nhân rộng ra hơn một ngàn hecta, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm hộ sản xuất muối khu vực ven biển Sóc Trăng - Bạc Liêu. Hàng năm khu vực này có thể sản xuất từ 30-50 tấn trứng bào 17 xác nguyên liệu (Hình 3). Trong tình hình sản xuất và tiêu thụ muối khó khăn thì việc chuyển đổi đất sản xuất muối sang nuôi Artemia thu trứng không những chỉ duy trì được công ăn việc làm cho người làm muối mà còn tăng thu nhập một cách đáng kể. Ngoài ra, các mô hình sản xuât kêt hợp Artemia- muối còn giúp duy trì nghề muối truyền thống nhưng lại tăng thu nhập nhờ sản phẩm trúng bào xác Artemia. Thêm vào đó, sự hiện diện của Artemici trong qui trình làm muôi được cho là giúp cho quá trình tạo muối ngắn hon, hạt muối trắng hon do chúng đã lọc sạch tảo, vi khuẩn trong nước mặn trước khi nước này được chuyển lên sân kết tinh. Chuyển đổi ruộng muối sang nuôi Artemìa không phá vỡ kết cấu công trình sẵn cỏ (như chuyển sang nuôi cá, nuôi tôm và đặc biệt là nuôi tôm công nghiệp... vốn cần có mực nước sâu hon hoặc phải tôn cao bò) mà còn giúp điêu tiêt lượng muôi sản xuât (không sản xuât qúa mức và cân đối cung cầu) giúp cho lợi nhuận từ sản xuất muối cũng tăng lên (không có hiện tượng “trúng mùa - mất giá” thường xảy ra trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ỏ nước ta. Hình 3: Diện tích nuôi (ha), sản lượng (tấn trứng tươi) và năng suâ't (Kg/ha/vụ) trứng bào xác Artemia khu vực Vĩnh Châu - Bạc Liêu từ 1986 - 2004 (Dần liệu: Khoa Thủy sản, Đại học c ầ n Thơ) 1.5. Hiện trạng nghề sản xuất muối ở Đồng bằng sông Cửu Long Các tỉnh Duyên Hải vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Bốn Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu) có nghề sản xuất muối truyền thống khoảng hon thế kỷ nay, hoạt động sản xuất muối tập trung chủ yếu trong mùa khô (từ tháng 11-5) và sản phẩm chính là muối thô hay còn gọi là muối nguyên liệu (muối trắng hoặc muối đen tùy theo phưong pháp sản xuất của diêm dân tìmg vùng). Qui trình sản xuất 18 muối truyền thống chủ yếu theo phương thức bốc hơi nước biển để tăng độ mặn theo cách tự nhiên. Bắt đầu mùa khô, tiến hành tháo cạn nước để phơi ao (ruộng) và tiến hành sửa chữa, cải tạo công trình (san phang đáy ao, gia cố bờ ao...). Sau khi chuẩn bị xong, nước biển tự nhiên được dẫn vào các đùn chứa theo các con nước triều qua cống. Nước từ đùn chứa sẽ được đưa vào các ao, khu vực sân phơi cho bốc hơi (bằng ánh nắng mặt trời) để tăng độ mặn. Khu vực bốc hơi thường được phân thành các khu sơ cấp, trung cấp, cao cấp theo độ mặn tăng dần từ 50-60 %0 đến 120-150 %0 và cuối cùng là 220-250 %0 trước khi dẫn vào sân phơi hay còn gọi là sân kết tinh để kết tinh muối. Quá trình chuẩn bị nước mặn tùy thuộc điều kiện thời tiết và kỹ thuật làm đất, thông thường kéo dài khoảng 30-45 ngày trước khi kết tinh. Nước mặn (nước ót) có độ mặn từ 250-280 %0 sau khi đưa vào sân sẽ kết tinh muối trong thời gian từ 10-25 ngày tùy theo thời tiết (Hình 4). Hình 4: So' đồ săn xuất muối truyền thống ỏ' Sóc Trăng - Bạc Liêu Trung bình mỗi ha có thể sản xuất 40-50 tấn muối nguyên liệu, khi thời tiết thuận lợi có thể đạt 65-70 tấn (Huỳnh Phước Lợi, 2005) trong suốt mùa khô (tháng 12-4). Sản phẩm làm ra thường dưới dạng muối thô, chất lượng không ổn định và lẫn nhiều tạp chất. Gần đây đế nâng cao chất lượng muối nguyên liệu các Họp tác xã (HTX) làm muối địa phương đã đầu tư xây dựng sân kết tinh muối bằng xi măng (40m X 4m), ket quả muối sản xuất được trắng hơn, xốp hơn, năng suất tăng gần gấp đôi so với muối làm từ sân nền đất truyền thống (Dương Dũng Long và Nhật Hồ, 2004). Hiện tại mỗi năm Trà Vinh sản xuất khoang 10 450 tấn, Bạc Liêu 100.000 tấn, Ben Tre 45.000 tấn. Muối sản xuất được tiêu thụ chủ yếu tại chỗ, để gia tăng giá trị bắt đầu từ 19 năm 2005 việc xuất khẩu muối được quan tâm nhiều hơn và sản phẩm xuất bán cũng đa dạng hơn: muối i-ốt, muối xay chất lượng cao, muối tinh, muối tinh sấy i-ốt, muối tinh sấy chất lượng cao, muối tinh chế và muối hạt nguyên liệu (Huy Tấn, 2005). 1.6. Khỏ khăn của nghề sản xuất muối truyền thống Do kết cấu của nền đất tự nhiên và nguồn chất hữu cơ sẵn có trong nước biển tự nhiên nên muối sản xuất ở khu vực ĐBSCL thường có chất lượng không cao (hay còn gọi là muối đen do nhiễm tạp chất hoặc bùn đáy), do vậy muôi sản xuât ở khu vực này chủ yêu chỉ được sử dụng cho muối cá, làm mắm, làm thức ăn gia súc...(Dương Dũng Long và Nhật Hồ, 2004) nên giá tiêu thụ thường thâp (Bảng 2), trong khi giá sàn từ 200 đ/kg trở lên (Ngọc Hùng, 2005): Bảng 2: Giá muối* nguyên liệu ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong thòi gian 2004-2005 Giá bán (đ/kg) tại các vùng sản xuất muối Sóc Trăng Trà Vinh Bến Tre Bạc Liêu TT Muối trắng Muối đen Muối trắng Muối đen 2004 350-500 200-280 250-300 2005 320-330 từ 140180 đến 220-250 200-270 Muối trắng Muối đen Muối trắng Muối đen từ 125- 180-200 120-130 130 đến 150-180 *Nguồn: - Hữu Phúc, 2004. Giả muối đang tăng. Bảo cần Thơ ngày 2/10/2004 - Hữu Phúc, 2005. Bạc Liêu: Muối đầu vụ vẫn giá thấp. Báo cần Thơ ngày 23/2/2005 - Dương Dũng Long, Nhật Hồ, 2004. về đâu hạt muối đồng bằng. Báo cần Thơ ngày 16/4/2004 - Nguyên Bả, 2004. Trà Vinh: Mỗi năm mất trên 50 ha diện tích đất làm muối. Báo Cần Thơ ngày 31/5/2004 - Cao Dương, 2004. Đất muối Ben tre chuyển mình. Báo cần Thơ ngày 14/12/2004 - Ngọc Hùng, 2005. Chung quanh việc tồn đọng gần 100,000 tấn muối nguyên liệu ở Bạc Liêu: Nghịch lý cung cầu. Báo cần Thơ ngày 14/6/2005 20 Đe sản xuất muối trắng thì cần đầu tư nhiều hơn về kỹ thuật và chi phí, lao động hoặc sử dụng sân kết tinh xi măng như đã nêu trên, tuy nhiên giá cả tiêu thụ giữa hai loại muối chênh lệch không đáng kể nên người dân vẫn sản xuất muối đen là chính (>65 %) (Ngọc Hùng, 2005). Cũng theo tác giả này do sản lượng cao nhưng khả năng tiêu thụ hạn chế đã làm cho giá muối liên tục giảm từ 550-650 đ/kg vào năm 2001 xuống còn thời giá như ngày hôm nay (Bảng 2). Tình hình này đã làm cuộc sống của người làm muối bấp bênh nên các địa phương như Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu đã điều chỉnh quy hoạch sử dụng một phần đất muối sang nuôi trồng thủy sản (Cao Dương, 2004; Dương Dũng Long và Nhật Hồ, 2004; Nguyễn Bá, 2004) và chủ yếu là nuôi tôm sú. Tuy nhiên để nuôi tôm sú và đặc biệt là nuôi tôm sú công nghiệp đòi hỏi chi phí đầu tư cao, phải có kỹ thuật và điều kiện môi trường thuận lợi, trong khi điều kiện thời tiết các năm gần đây không thuận lợi, tình hình dịch bệnh bùng phát đã làm cho người dân ngày thêm điêu đứng. 1.7. Lịch sử nghiên cứu và hướng phát triển nghề nuôi Artemia ờ Việt Nam Sự du nhập của Artemia vào Việt Nam: Khỏi đẩu việc thả nuôi ở Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Vĩnh Châu. Artemia là loại thức ăn tươi sống không thể thiếu được trong khâu sản xuất giống thủy sản nên mặc dù không hiện diện tự nhiên ở Việt Nam, Artemỉa đã được nhiều đơn vị chuyên môn chú ý nghiên cứu và ứng dụng như: Viện Nghiên cứu Biển Nha Trang, Viện Nghiên cứu Hải sản, Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III, (Quỳnh và Lâm, 1987; Vũ Dũng và Đào Văn Trí, 1990). Năm 1984, thông qua các chương trình họp tác quốc tế, Khoa Thủy sản Trường Đại học cần Thơ đã nhập nội và nghiên cứu đối tượng Artemia San Francisco Bay (SFB, Mỹ) từ giữa những năm 80 để phục vụ cho nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và Dự án Tôm Càng xanh lúc bấy giờ nói riêng. Đen năm 1986 Trung tâm Nghiên cứu Artemia được thành lập ở Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ dưới sự hỗ trợ của tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO). Lúc này Trung tâm đã thực hiện nhiều nghiên cứu về đặc điểm sinh học cũng như qui trình nuôi Artemia thu trứng bào xác và thu sinh khôi trên ruộng muối tại Bạc Liêu và Vĩnh Châu. Đến năm 1989, qui trình nuôi Artemỉa thu trứng bào xác dần dần ổn định và từng bước được chuyển giao cho người dân làm muối ở khu vực các HTX làm muối Vĩnh Phước, Lai Hòa (Huyện Vĩnh Châu, tỉnh Plậu Giang cũ nay là tỉnh Sóc Trăng), và ở Nông Trường Đông Hải (Bạc Liêu). Chính nhờ hiệu quả 21 của qui trình về lĩnh vực khoa học kỹ thuật (thành công trong sản xuất ra trứng bào xác) mà qui trình còn góp phần thiết thực trong nâng cao thu nhập cho người làm muối nên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát trìên Artemia-Tôm (1991) tại Trường Đại học cần Thơ. Artemia sau đó được triển khai sản xuất đại trà và Vĩnh Châu, Bạc Liêu trở thành hai vùng trọng điêm cung câp trứng bào xác có chất lượng cao cho thị trường trong và ngoài nước (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 1994; Nguyễn Thị Ngọc Anh và cív., 1997; Nguyễn Văn Hòa, 2002), đồng thời góp phân cải thiện đáng kê cuộc sống của người làm muối. Từ năm 1996 đến nay hoạt động nghiên cứu Artemia được sự tài trợ của tổ chức VLIR (Bỉ) để tiếp tục hoàn thiện qui trình nuôi, tăng năng suất, đồng thời cải thiện hoạt động khuyến ngư để nâng cao hơn nữa sự hiểu biết về qui trình nuôi cũng như hiệu quả kinh tế cho người sản xuất Artemia trên ruộng muối Sóc Trăng - Bạc Liêu. Đen nay qui trình nuôi Artemia trên ruộng muối còn được chuyển giao cho các địa bàn khác (Kiên Giang, Duyên Hải thành phố PIỒ Chí Minh, Vũng Tàu, Cam Ranh) và đều đạt kết quả rất khả quan. Hướng phát triển của nghề nuôi Artemia Sản phấm thu hoạch'. Việc nghiên cứu và phát triển nghề nuôi Artemia ở Việt nam cho đến nay chủ yếu nhằm để gia tăng hiệu quả cho việc thu hoạch trứng bào xác (cyst) Artemia. Trong khi đó, những nghiên cứu về sinh khối Artemia (con non và con trưởng thành) mới chỉ được quan tâm trong vài năm trở lại đây nhằm đa dạng hóa hơn các loại sản phẩm từ Artemia, mặc dù sinh khối Artemia đã được nhiều nước sử dụng làm thức ăn để ương nuôi tôm, cá, cua và các loài thủy sản khác không chỉ bởi vì giá trị dinh dưỡng tối ưu của chúng (60% đạm theo trọng lượng khô) mà còn bởi vì những lợi ích về năng lượng (thí dụ như khi cho ăn sinh khối thay thế ấu trùng nauplii mới nở, tôm cá cần rượt đuôi và ăn ít con mồi hơn trên một đơn vị thời gian để đáp ímg nhu cầu thức ăn của chúng), do đó chúng có thể sinh trưởng tốt hơn hoặc có một tốc độ phát triển nhanh hơn và hoặc là điều kiện sinh lý học được cải thiện như đã được chứng minh trong việc ương nuôi ấu trùng của tôm hùm, tôm biển, cá Mahi-mahi, cá bơn và cá chem. Đối với ấu trùng cá chẽm {Lcites calcarifer) việc sử dụng sinh khối Artemia làm thức ăn trong trại giông và trại ương đã tiết kiệm được lượng trúng Artemia lên tới 60% và do vậy giảm tổng chi phí về thức ăn cho ấu trùng. Trong giai đoạn đầu của ương nuôi ấu trùng tôm hùm, Homarus spp., cho ăn sinh khối thay thế ấu trùng nauplii đã chứng minh làm giảm sự ăn thịt lẫn nhau một cách đáng ke. 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146