Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy- bài sự đi...

Tài liệu Áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy- bài sự điện sgk hoá học lớp 1

.PDF
31
212
58

Mô tả:

Áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy- Bài sự điện SGK hoá học lớp 1
2 CuSO 4 + 2 H2O ®p 2Cu + O2 + H2SO4 2 NaCl Na + Cl 2 PHẦN MỞ ĐẦU NaCl Catot (cùc ©m) ®pnc Anot (cùc d­¬ng) I. Lý do chọn đề tài Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước ta, đổi mới nền giáo dục là một trong những trọng tâm của sự phát triển. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi các nhà trường phải tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII ghi rõ: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ". Đối với giáo dục ở bậc trung học phổ thông, chúng ta đã có sự đổi mới to lớn về chương trình đào tạo đó chính là sự ra đời của bộ sách giáo khoa mới với nội dung và hình thức thể hiện mới. Chính vì thế mà yêu cầu đổi mới PPDH cũng là một vấn đề cấp thiết của ngành giáo dục. Định hướng dạy học tích cực là một định hướng quan trọng đã được nước ta lựa chọn cho việc đổi mới PPDH và đã được vận dụng trong việc đổi mới nhiều PPDH cụ thể khác nhau. Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc rất nhiều vào PPDH được giáo viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tuỳ thuộc vào PPDH cụ thể trong dạy học thì kết quả sẽ khác nhau về mức độ lĩnh hội các tri thức sự phát triển của trí tuệ cùng các kĩ năng tư duy, phương pháp nhận thức, giáo dục đạo đức và sự chuyển biến thái độ hành vi. Như vậy các PPDH phải phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh có sự tổ chức và hướng dẫn đúng mức của giáo viên trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề của học sinh theo cá nhân hoặc học hợp tác theo nhóm sẽ góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, học lẫn nhau từ đó tạo được niềm vui và hứng thú trong học tập của học sinh. Học hợp tác theo nhóm là một PPDH tích cực đã được nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả ở những nước phát triển... Phương pháp này ở Việt Nam đã được chú trọng nghiên cứu áp dụng trong đổi mới PPDH hiện nay. Tuy nhiên việc nghiên cứu mới được thực hiện ở việc áp dụng các cấu trúc chung của hoạt động học hợp tác. Với đặc tính của môn hóa học là một môn khoa học kết hợp giữa lý thuyết và thực nghiệm học sinh có thể tự tìm tòi khám phá kiến thức hoặc làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ dưới sự điều chỉnh và hướng dẫn của giáo viên thì việc áp dụng PPDH theo nhóm nhỏ bằng hoạt động học hợp tác sẽ đem lại hiệu quả cao trong các tiết học. Vì vậy chứng tôi chọn đề tài: “Áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy: Bài sự điện “SGK hoá học lớp 12 – Ban KHTN””. II. Mục đích đề tài Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu áp dụng phương pháp HHT theo nhóm nhỏ vào việc tổ chức hoạt động dạy học hợp tác cho học sinh THPT thông qua giảng dạy bài “ Sự điện phân SGK hoá học lớp 12 – ban KHTN ” nhằm góp phần đổi mới PPDH hóa học theo hướng dạy học tích cực. Kế hoạch nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong năm hoc 2009 – 2010. - Trao đổi, phối hợp với các đồng nghiệp về phương pháp và tiến hành bài dạy theo phương pháp DHHT theo nhóm nhỏ (cách tổ chức, cách tiến hành bài giảng và cách kiểm tra đánh giá), đồng thời dự giờ, trao đổi với các GV sau mỗi giờ dạy để rút kinh nghiệm. - Tiến hành chấm bài kiểm tra, xử lí, phân tích kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận việc áp dụng phương pháp DHHT theo nhóm nhỏ. III. Nhiệm vụ đề tài 1. Nghiên cứu các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài + Phương hướng đổi mới PPDH hóa học. + Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ. 2. Nghiên cứu chương trình hóa học THPT chú trọng chương trình vô cơ lớp 12 THPT – Ban KHTN. 3. Nghiên cứu một số cấu trúc học hợp tác theo nhóm nhỏ và khả năng vận dụng các cấu trúc này trong việc tổ chức hoạt động học tập thông qua bài “ Sự điện phân SGK hoá học lớp 12 – ban KHTN ”. 4. Xây dựng giáo án bài dạy có tổ chức hoạt động học hợp tác theo nhóm nhỏ. 5. Đánh giá sự phù hợp của các đề xuất và tính hiệu quả của phương pháp HHT. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hóa học Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã xác định: phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Định hướng này đã được pháp chế hóa trong luật Giáo dục điều 24.2, trong quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS. Đổi mới phương pháp học tập nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay… Chính vì thế trong thời gian gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích GV sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm hoạt động hoá người học. 2. Nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học hóa học Sự chuyển đổi nền kinh tế của đất nước đòi hỏi sự đổi mới giáo dục Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đã có những sự chuyển biến mạnh mẽ cả về chất và lượng. Xu hướng phát triển xã hội, kinh tế đất nước đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội phát triển: xã hội tri thức. Xã hội tri thức là một xã hội trong đó khoa học công nghệ đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp. Xã hội tri thức được đặc trưng bới các đặc điểm sau: - Tri thức là yếu tố then chốt của lực lượng kiến tạo xã hội hiện đại, lực lượng sản xuất và tăng trưởng kinh tế. - Thông tin và tri thức tăng lên nhanh chóng và kéo theo sự lạc hậu nhanh của tri thức và công nghệ cũ. - Sự trao đổi thông tin và tri thức được toàn cầu hóa nhờ sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. - Cơ cấu xã hội thay đổi theo hướng đa dạng và linh hoạt - Tổ chức và tính chất lao động nghề nghiệp được thay đổi người lao động luôn phải thích nghi với những tri thức mới, công nghệ mới. - Con người là yếu tố trung tâm trong xã hội tri thức, là chủ thể kiến tạo xã hội. - Tri thức là một cơ sở để xác định vị trí xã hội, khả năng hành động, ảnh hưởng mới đối với con người, cá thể. - Giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc đào tạo con người, do đó đóng vai trò then chốt trong sự phát triển xã hội. Như vậy xã hội tri thức là xã hội toàn cầu hóa, trình độ giáo dục trở thành yếu tố tranh đua quốc tế, mang lại lợi ích cho đất nước. Xã hội tri thức đã đặt ra cho giáo dục những yêu cầu cơ bản cần đạt được, cụ thể là: - Giáo dục cần giải quyết mâu thuẫn: tri thức ngày càng tăng nhanh mà thời gian đào tạo thì có hạn nên luôn có sự đòi hỏi đổi mới nội dung và đổi mới PPDH chú trọng bồi dưỡng PP tự học. - Giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường lao động và nghề nghiệp cũng như cuộc sống, có khả năng hòa nhập và cạnh tranh quốc tế. - Các phẩm chất của người lao động mà giáo dục đào tạo cần đặc biệt chú ý là: năng lực hành động; tính tự lực và trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, khả năng học tập suốt đời. Như vậy sự phát triển của xã hội tri thức đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới giáo dục để phù hợp với xu thế chung của sự phát triển mọi mặt của đất nước, bắt kịp với xu hướng phát triển mang tính toàn cầu hóa của thế giới. Từ các yêu cầu trên mà giáo dục nước ta xác định cần có sự đổi mới toàn diện về mục tiêu, nội dung, PPDH, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học. CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG 1. Thực trạng của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới phương pháp dạy học Nền giáo dục Việt Nam trong quá trình đổi mới của đất nước cũng đã có những bước chuyển mình đáng kể. Song thực trạng giáo dục trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, với sự phát triển ngày càng hiện đại của giáo dục thế giới. Các phương pháp dạy học truyền thống tuy đã khẳng định được những thành công nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Phổ biến vẫn là thuyết trình thiên về truyền thụ kiến thức một chiều áp đặt. Thực trạng giáo dục hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề như: + Học sinh học tập thụ động do còn thiếu động lực học tập, tâm lý ỷ lại nhà trường, gia đình... + Giáo viên còn dạy theo phương pháp thông báo, ít sử dụng các PPDH tích cực... + Tiêu cực trong xã hội ảnh hưởng đến nhận thức và tâm lý thực dụng của HS… + Nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng, linh hoạt, sở thích của người học cả về hệ thống, nội dung, PPDH, hình thức tổ chức dạy học... Như vậy thực trạng giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu cơ bản cho việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Yêu cầu quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH trong nhà trường phổ thông. 2. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học Với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và xu thế hội nhập hiện nay thì đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu theo các hướng sau: - Là sự cải tiến, hoàn thiện các PPDH đang sử dụng để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của dạy học. - Là việc bổ sung, phối hợp nhiều PPDH để khắc phục mặt hạn chế của các PPDH đang sử dụng nhằm đạt được mục tiêu dạy học đề ra. - Là sự thay đổi PPDH đang sử dụng bằng các PPDH mới tối ưu, kết hợp với việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện; từ đó hình thành nên các “kiểu” dạy - học mới với mong muốn đem lại hiệu quả cao hơn. Định hướng đổi mới giáo dục đã được pháp chế hóa trong luật giáo dục (điều 24.2) đã đề cập ở trên. Phương hướng đổi mới PPDH cô đọng ở hai nội dung như sau: + Đổi mới giáo dục hướng đến việc phát huy tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo trong nhận thức học tập của HS. Phát huy tính tích cực học tập của HS là nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học. + Trong dạy học HS được coi là chủ thể hoạt động, GV là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ HS trong quá trình tìm tòi thu nhận kiến thức. Nguyên tắc này đã được nghiên cứu, phát triển mạnh mẽ trên thế giới và được xác định là một trong những phương hướng đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam. 2.1 Cơ sở phương pháp luận cho việc đổi mới PPDH Các quan điểm, tiếp cận làm cơ sở lí luận cho việc đổi mới PPDH gồm: 2.1.1 Dạy học lấy học sinh làm trung tâm Bản chất của dạy học lấy HS làm trung tâm là: - Đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học. - Chú trọng đến phẩm chất, năng lực, nguyện vọng, hứng thú của mỗi người. - Phát huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân để định hướng cho sự phát triển. Tuy nhiên đổi mới theo hướng lấy học sinh làm trung tâm không có nghĩa là vai trò của người thầy trở nên mờ nhạt. Trong một tài liệu giới thiệu khá đầy đủ về phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tác giả R. Batliner đã khẳng định ngay ở trang đầu: "giáo viên là yếu tố chủ chốt quyết định việc dạy và học có chất lượng". 2.1.2. Đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa người học Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa người học dựa trên quan điểm dạy học định hướng hành động. Đây là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và chân tay kết hợp với nhau chặt chẽ trong hoạt động học tập của HS. Trong hoạt động học tập HS luôn có sự phối hợp chặt chẽ và cân đối giữa tư duy và hành động, giữa lý thuyết và thực hành đồng thời vận dụng tốt kiến thức vào cuộc sống. Vai trò của GV trong quan điểm đổi mới PPDH này cũng có những điểm khác biệt so với các PPDH truyền thống. Cụ thể vai trò và hoạt động của GV trong giờ học là: người thiết kế, ủy thác, điều khiển và thể chế hóa. - Người thiết kế: lập kế hoạch giờ học, thiết kế hoạt động học tập theo mục đích, nội dung xác định và chuẩn bị phương tiện, dự kiến các hình thức tổ chức dạy học... - Người ủy thác: biến ý tưởng, dự định, kế hoạch dạy học của mình thành các nhiệm vụ học tập được HS chấp nhận và tự nguyện thực hiện một cách tự giác, tích cực. - Người điều khiển: điều khiển các hoạt động học tập của HS, động viên trợ giúp, đánh giá các hoạt động học tập của HS. - Thể chế hóa: biến kiến thức riêng lẻ mang màu sắc cá nhân phụ thuộc hoàn cảnh và thời gian của từng HS thành các tri thức khoa học của xã hội. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP Để xây dựng phong cách học tập tự giác cho HS cần biến nhu cầu xã hội thành nhu cầu nội tại của bản thân HS và phải tập luyện cho HS thông qua các hoạt động học tập. Nhằm góp phần vào việc đổi mới PPDH với phạm vi là một giáo viên dạy trung học phổ thông tôi xin mạnh dạng việc áp dụng phương pháp dạy HHT thông qua giảng dạy bài “ Sự điện phân SGK hoá học 12 – ban KHTN ” 3.1. Khái niệm dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ Học tập mang tính hợp tác là một chiến lược giảng dạy trong đó người dạy sẽ tổ chức cho người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như thảo luận, đóng vai, giải quyết vấn đề… Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện các hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành viên trong nhóm hoàn thành các hoạt động được giao. Dạy học theo hoạt động hợp tác là một hình thức tổ chức dạy học, trong đó dưới sự tổ chức và điều khiển của GV, HS được chia thành từng nhóm nhỏ liên kết lại với nhau trong một hoạt động chung, với phương thức tác động qua lại của các thành viên, bằng trí tuệ tập thể mà hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Học hợp tác (HHT) là hình thức tổ chức hoạt động học tập có sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành viên trong nhóm để cùng làm việc hướng đến mục đích chung là nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. HHT trong nhóm là HS trong một nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ do giáo viên giao cho để đạt được mục đích học tập của giờ học. Phương pháp HHT cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng phương pháp nhận thức mới. Khi trao đổi, mỗi người nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, xác định được những điều cần học hỏi thêm. Giờ học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thu thụ động từ GV. Quan điểm học tập này yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của học sinh vào quá trình học tập, đồng thời yêu cầu học sinh phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học tập chung. Học sinh học bằng cách làm chứ không học chỉ bằng cách nghe giáo viên giảng . Quan điểm học tập này tạo nên môi trường hợp tác giữa thầy - trò, trò - trò, học sinh sẽ là trung tâm của quá trình dạy học và giáo viên không độc chiếm diễn đàn. Đồng thời quan điểm học tập này thể hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tương hỗ bình đẳng kiểu học hợp tác đang được áp dụng có hiệu quả ở tất cả các bậc học và xuất hiện trong trong các môn học ở nhiều nước trên thế giới. 3.2. Cấu trúc của quá trình dạy học hợp tác theo nhóm Một hoạt động học tập theo nhóm trong giờ học thường được tiến hành theo ba bước như sau: + Làm việc chung cả lớp (tương tác theo nhóm) - GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, tổ chức các nhóm làm việc, phân bố thời gian hoạt động. - Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm: Để việc thảo luận hiệu quả GV cần xác định mục đích, chỉ dẫn nhiệm vụ cần thực hiện, ấn định thời gian, HS phải hiểu yêu cầu mục đích việc sắp làm, nắm các bước thực hiện và biết trước thời gian cần thực hiện là bao lâu. + Làm việc theo nhóm (tương tác HS - HS trong nhóm): - Các nhóm trao đổi trong nhóm để hiểu thấu nhiệm vụ phải làm. - Phân công nhiệm vụ học tập cho từng cá nhân trong nhóm. - Từng cá nhân làm việc độc lập. - Từng cá nhân thông báo kết quả làm việc, trao đổi thống nhất trong nhóm về kết quả nhiệm vụ được giao. - Cử đại diện (hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc của nhóm. + Thảo luận tổng kết trước toàn lớp (tương tác HS-HS) cả lớp: - Đại diện các nhóm lần lượt báo cáo kết quả làm việc nhóm. - Thảo luận đánh giá chung cả lớp. - GV tổng kết đánh giá, đặt vấn đề nghiên cứu tiếp. Nếu kết quả thảo luận của các nhóm chưa thống nhất giáo viên nêu vấn đề thảo luận chung cả lớp rồi mới đưa ra kiến thức hoàn thiện cuối cùng cho HS, đồng thời đánh giá kết quả làm việc của các nhóm. Sơ đồ tóm tắt cấu trúc hoạt động tương tác giữa GV và HS trong quá trình dạy học hợp tác theo nhóm được mô tả như sau: Cấu trúc hoạt đông hợp tác theo nhóm nhỏ 3.3. Những yêu cầu cần đảm bảo để phát huy tính tích cực hợp tác làm việc trong nhóm Phân công nhóm học tập + Nhóm học tập có các đặc điểm: - Là một đơn vị, một bộ phận của tập thể lớp học. - Hoạt động của nhóm được thống nhất với nhau bởi cùng thực hiện một nhiệm vụ học tập chung, đây vừa là nguyên nhân và cũng là điều kiện của nhóm học tập. - Các thành viên trong nhóm không chỉ liên kết với nhau về mặt trách nhiệm mà còn có mối liên hệ về tình cảm, đạo đức lối sống. Như vậy, nhóm học tập là phương tiện để giáo viên chuyển các tác động dạy học đến cá nhân học sinh. Sự phân công nhóm học tập Cách chia nhóm hợp lý được tiến hành theo một tiêu chuẩn nào đó như bài học hoặc theo ý tưởng của giáo viên và cũng có thể hoàn toàn ngẫu nhiên, như vậy sự phân nhóm cần đảm bảo sự linh hoạt theo ý tưởng, mục tiêu của giáo viên. Ví dụ: Các nhóm từ 2-5 người là rất phổ biến, nhóm lớn hơn 4 người thì đòi hỏi phải có người đứng đầu nhóm, các nhóm nhiều hơn 7 người trở nên càng chậm chạp và hiện tượng "ăn theo" càng trở nên phổ biến trừ khi GV có sự phân công nhiệm vụ thật cụ thể cho các em. Phân công trách nhiệm trong nhóm Phân công trách nhiệm trong nhóm cần rõ ràng, mỗi thành viên trong nhóm đều phải làm việc tích cực không được ỷ lại vào các thành viên hiểu biết và năng động hơn, các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Sự phân công trách nhiệm cần được thay đổi để mỗi HS có thể phát huy vai trò cá nhân và thực tập tất cả các nhiệm vụ của từng thành viên. 3. 4. Những ưu điểm của phương pháp hợp tác theo nhóm . Dạy học hợp tác theo nhóm được đánh giá là PPDH tích cực có nhiều ưu điểm đó là: a. Mang lại hiệu quả học tập cao Dạy học hợp tác theo nhóm là hình thức dạy học vô cùng hiệu quả với nhiều mục đích, nội dung khác nhau và với nhiều đối tượng HS khác nhau, với nhiều tính cách khác nhau. Học hợp tác có hiệu quả cao vì: Học hợp tác theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được nội dung bài học sang cho người học một cách tự nhiên và tạo ra động cơ thúc đẩy học sinh học tập vì hoạt động trong nhóm có yếu tố thi đua. Khi học theo nhóm học sinh sẽ thảo luận xoay quanh từng đề bài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó. b. Phát triển kỹ năng hợp tác, kỹ năng xã hội cho học sinh Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm giúp hình thành, phát triển kỹ năng hợp tác làm việc và năng lực xã hội cho học sinh: - Kỹ năng biết cộng tác làm việc là kỹ năng tối quan trọng đối với tất cả các thiên hướng phát triển của từng cá nhân. - Khi thực hiện các nhiệm vụ trong nhóm sẽ giúp cho HS có khả năng giao tiếp, khả năng nhận thức để thực hiện các nhiệm vụ học tập, giải thích cho bạn bè làm phát triển kĩ năng xã hội, kĩ năng hợp tác làm việc… - Hoạt động tập thể nhóm sẽ làm cho từng học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động, học tập phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật ý thức cộng đồng... - Học hợp tác theo nhóm tạo môi trường cho HS nhút nhát có điều kiện tham gia xây dựng bài học, cải thiện quan hệ giữa các HS với nhau, tạo cho lớp học bầu không khí tin cậy và gắn bó hơn. Hơn nữa hầu hết các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau theo đó các lỗi hiểu sai đều được giải đáp mà thường lại là trong không khí rất thoải mái. c. Học hợp tác luôn tạo không khí học tập sôi nổi bình đẳng và gắn bó Trong PPDHHT nổi lên mối quan hệ giao tiếp giữa HS với HS. Trong hoạt động nhóm có sự trao đổi thảo luận để tự sửa lỗi, HS dạy lẫn nhau trong không khí thoải mải và bình đẳng. Thông qua thảo luận, tranh luận mà ý kiến của mỗi cá nhân được điều chỉnh qua đó mà người học tự nâng mình lên cả về kiến thức và ý thức học tập. Từ đó sẽ giúp HS có cơ hội thuận lợi làm quen với nhau khơi dậy sự gắn bó trong tập thể làm việc. d. Học hợp tác giúp cho giáo viên có cơ hội tận dụng ý kiến và kinh nghiệm của HS Như vậy học hợp tác theo nhóm là một chiến lược dạy học mạnh mẽ và linh hoạt có ưu điểm nổi bật là làm cho phương pháp này trở thành nét đặc trưng cơ bản của dạy học hiện đại 3.5. Những hạn chế của học hợp tác theo nhóm Dạy học hợp tác theo nhóm được nhiều nước áp dụng và thể hiện nhiều yếu tố của PPDH tích cực. Song dạy học hợp tác theo nhóm còn có những hạn chế như: + Các nhóm có thể đi chệch hướng thảo luận do một cá nhân nào đó nếu cố tình đưa ra những ý kiến điều khiển cả nhóm (sự chi phối nhóm, tách nhóm…) + Một số thành viên trong nhóm có thể ỷ lại, không làm việc, để mặc các thành viên khác dẫn dắt cả nhóm hoặc thậm chí cả lớp nếu GV không theo dõi sát sao và yêu cầu mọi thành viên trong nhóm phải có việc và có trách nhiệm hoàn thành công việc (hiện tượng ăn theo). + Hoạt động nhóm cũng sẽ không có tác dụng khi giáo viên áp dụng cứng nhắc quá thường xuyên hoặc thời gian hoạt động nhóm quá dài. Mỗi tiết học chỉ nên tổ chức 1 3 hoạt động nhóm mỗi hoạt động cần từ 5 - 10 phút. Tối đa một tiết học chỉ nên dành 15 phút để tổ chức hoạt động nhóm (thảo luận nhóm). 3.6. Quy trình thiết kế và tổ chức giờ dạy học hóa học theo phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ Từ cấu trúc chung của quá trình dạy học hợp tác theo nhóm chúng tôi thiết kế quy trình tổ chức giờ học hóa học THPT và thể hiện ở sơ đồ sau Quy trình tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm: Sơ đồ quy trình tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm 3.7. Một số chú ý khi tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm 1. Cần sử dụng thường xuyên phiếu học tập và bảng đánh giá kết quả làm việc của từng nhóm, từng HS 2. Phân nhóm một cách hợp lý 3. Quản lý hoạt động nhóm hiệu quả 3.8. Áp dụng dạy học hợp tác theo nhóm thông qua giảng dạy bài: Sự điện phân SGK hoá học 12 – ban KHTN. Để tổ chức hoạt động theo cấu trúc trên đạt được hiệu quả cần chọn nội dung kiến thức phù hợp đó là: các nội dung học tập là các phần kiến thức có thể tách biệt nhau một cách tương đối, không phụ thuộc vào nhau (các kiến thức không thể suy luận bằng các thao tác tư duy diễn dịch hay quy nạp...). Từ quy trình trên chúng tôi tiến hành xây dựng cấu trúc hoạt động học hợp tác cho nội dung bài: Sự điện phân Nội dung 1: GV và HS cùng trao đổi thảo luận để nắm vững khái niệm sự điện phân, các quá trình hoá học xảy ra ở các điện cực. Nội dung 2: Tổ chức cho HS làm việc theo nhóm nhằm tìm hiểu sự điện phân các chất điện li 1. GV nêu yêu cầu, nội dung cần nghiên cứu - Nắm được các quá trình xảy ra trong các quá trình điện phân: NaCl nóng chảy, dung dịch CuSO4 với điện cực than chì (anốt trơ) và điện cực tan (anot tan) - Viết được PTHH xảy ra trên các điện cực trong các quá trình điện phân và viết các phương trình điện phân. 2.Tổ chức các nhóm Mỗi nhóm từ 6 - 8 (HS (nhóm lớn) hoặc 2 - 3 HS sẽ nghiên cứu một phiếu học tập và trở thành nhóm chuyên gia. Các nhóm chuyên gia làm việc để đưa ra câu trả lời cho phiếu học tập của mình. Phiếu học tập số 1: Điện phân muối nóng chảy Câu 1: Quá trình nào xảy ra khi chưa có dòng điện chạy qua muối NaCl nóng chảy. Câu 2: Khi có dòng điện một chiều chạy qua muối NaCl nóng chảy trên các điện cực xảy ra những PTHH nào? Đáp án: Khi NaCl nóng chảy có các quá trình điện li NaCl → Na+ + ClKhi có dòng điện các ion về các điện cực Ở cực dương (anot) xảy ra sự oxi hóa ion Cl2Cl- → Cl2 + 2e Ở cực âm (catot) xảy ra sự khử ion Na+ 2Na+ (l)+ 2e → 2Na(l) Sơ đồ điện phân Catot (-) ← NaCl → Anot (+) 2Na+ + 2e → 2Na 2Cl- → Cl2 + 2e dpnc → 2Na + Cl2 Phương trình của sự điện phân là: 2NaCl  Phiếu học tập số 2: Điện phân dung dịch CuSO4 với điện cực than chì. HS tiến hành thí nghiệm và cho biết: Câu 1: Vì sao khi điện phân dung dịch với điện cực trơ thì lại thu được đồng ở catot và oxi thoát ra ở anot giải thích? Câu 2: Khi điện phân dung dịch CuSO4 với điện cực trơ thì pH của dung dịch có thay đổi không? Vì sao? Đáp án Trong dung dịch CuSO4 có các quá trình điện li CuSO4 → Cu2+ + SO422− Khi có dòng điện đi vào dung dịch, ion SO 4 khi di chuyển về anot, ion Cu2+ di chuyển về catot. - Ở anot (cực dương) có thể xảy ra sự oxi hóa SO42- hoặc phân tử H2O vì H2O dễ bị oxi hóa hơn và sản phẩm thu được là khí oxi: 2H2O loãng → O2(k) + 4H+ (dd) + 4e - Ở catot (cực âm) có thể xảy ra sự khử ion Cu 2+ hoặc H2O nhưng Cu2+ dễ bị khử hóa thành kim loại Cu bám trên catot Cu2+ + 2e → Cu Sơ đồ điện phân: Catot (-) ← CuSO4 ← Anot (+) Cu2+, H2O H2O Cu2+ + 2e → Cu H2O, SO422H2O → O2 + 4H+ + 4e dp Phương trình điện phân: 2CuSO4 + 2H2O → 2Cu + O2 + 2H2SO4 Vì vậy khi điện phân dung dịch CuSO4 ở catot thu được đồng còn ở anot thu được khí oxi. Sau khi điện phân pH của dung dịch có thay đổi. Phiếu học tập số 3: Sự điện phân dung dịch CuSO4 với anot bằng đồng Câu 1: Vì sao khi điện phân dung dịch CuSO4 với anot bằng đồng thì nồng độ của dung dịch CuSO4 không thay đổi. Câu 2: Quan niệm về anot và catot trong pin điện hoá và trong bình điện phân có gì giống và khác nhau Đáp án: Câu 1: Nồng độ dung dịch CuSO4 không thay đổi vì - Ở anot nguyên tử Cu oxi hóa thành Cu2+ đi vào dung dịch. Cu (r) → Cu2+ (dd) + 2e - Ở anot ion Cu2+ bị khử thành nguyên tử Cu bám trên bề mặt catot. Cu2+(dd) + 2e → Cu (l) Phương trình điện phân: Cu (r) + Cu2+(dd) → Cu2+ (dd) + Cu (l) Câu 2: So sánh Pin điện hoá Bình điện phân Catot (sự khử) Cực dương Cực âm Anot (Sự oxi hoá) Cực âm Cực dương * Thời gian cho các nhóm chuyên gia tìm hiểu lại những kiến thức liên quan và hoàn thành nội dung phiếu học tập (5 phút). - Thảo luận các nhóm hợp tác: các nhóm chuyên gia trình bày những phần nội dung kiến thức của mình để đảm bảo cả nhóm đều nắm được nội dung ở cả 3 phiếu học tập. Các thành viên trong nhóm chú ý lắng nghe thảo luận đưa ra những vấn đề chưa rõ để các nhóm chuyên gia trả lời, vì nội dung GV đưa ra sẽ được vận dụng trong bài kiểm tra cá nhân. Thảo luận nhóm hợp tác là 5 phút. - GV quan sát giúp đỡ các nhóm thảo luận (nếu cần) và nhắc nhở về thời gian. - Báo cáo kết quả hoạt động nhóm: Tổ chức thảo luận chung cả lớp giữa các nhóm với nhau (10 phút) GV sẽ gọi bất kỳ thành viên nào đó của bất kỳ các nhóm trả lời các nội dung trong phiếu học tập lần lượt cho đến hết, ở từng vấn đề có thể hỏi thêm các kiến thức liên quan, động viên HS nhóm khác tích cực hỏi những nội dung chưa nắm rõ, hiểu kỹ để đảm bảo kiến thức chuẩn bị cho bài kiểm tra cá nhân ngay sau đó. Trong khi các nhóm thảo luận GV thống nhất ý kiến, viết bảng hoặc trình chiếu những kiến thức cơ bản cần nhớ (tóm tắt theo phiếu học tập). 4. Tổ chức cho HS làm bài kiểm tra cá nhân (15 phút) để đánh giá kết quả, có thể làm vào giấy hoặc vở bài tập chuyên dùng cho hoạt động nhóm. Đề kiểm tra 15 phút Câu 1: Bản chất của sự điện phân? Cho biết sự khác nhau giữa các quá trình xảy ra trong bình điện phân và trong pin điện hoá? Câu 2: Khi điện phân KCl nóng chảy và điện phân dung dịch KCl thì sau sản phẩm thu được là khác nhau? Câu 3: Vì sao khi điện phân dung dịch H2SO4 và điện phân dung dịch KNO3 sản phẩm thu được là giống nhau? Đáp án Câu 1: Bản chất sự điện phân là quá trình oxi hoá khử xảy ra trên bề mặt điện cực khi có dòng điện một chiều đi qua chất điện li nóng chảy hoặc dung dịch chất điện li. Điện phân KCl nóng chảy KClnc → K+ catot K+ K+ + e → K + Cl- (1,5 điểm) anotCl2Cl- → Cl2 + 2.1e Điện phân dung dịch KCl KCl (dd)→ K+ (dd) + catot: K+, H2O 2H2O + 2e → H2 + 2OH- Cl+ (dd) (1,5 điểm) anot: Cl-, H2O 2Cl- → Cl2 +2.1e Như vậy ở catot xảy ra sự khử những chất khác nhau do đó phương trình điện phân khác nhau. Câu 3: KNO3 → K+ + NO3- H2SO4 → 2H+ + SO42- Catot: K+, H2O Anot: NO3-, H2O Catot: H+, H2O Anot: SO42-, H2O Ở catot các ion H+ hoặc phân tử H2O bị khử tạo khí H2. 2H2O + 2e → H2 + 2OH2H+ + 2e → H2 Ở anot H2O bị oxi hóa giải phóng O2. 2H2O → O2 + 4H+ + 4e Vì vậy sản phẩm điện phân thu được là giống nhau. 5. GV thu bài kiểm tra hoặc vở bài tập để kiểm tra chấm điểm TBC của cả lớp sau đó tính điểm cố gắng của cả nhóm. Thông báo kết quả vào giờ học sau. GIÁO ÁN BÀI: SỰ ĐIỆN PHÂN. I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1. Kiến thức: - Biết sự điện phân là gì? - Biết những ứng dụng của sự điện phân trong công nghiệp. Trọng tâm: - Hiểu sự chuyển dịch của các ion trong quá trình điện phân: NaCl nóng chảy, dung dịch CuSO4 với điện cực trơ và điện cực tan. - Hiểu những phản ứng hóa học xảy ra trên các điện cực trong quá trình điện phân và viết được phương trình điện phân. 2. kĩ năng: - Thực hiện được một sốthí nghiệm điện phân đơn giản: đpdd CuSO4 với anot trơ và anot tan. - Biết xác định tên các điện cực trong bình điện phân. - Viết được phương trình hóa học của phản ứng xảy ra trên các điện cực và viết được phương trình điện phân. - Giải được các bài toán liên quan đến sự điện phân. II. CHUẨN BỊ: * Thí nghiệm trực quan: Hóa chất: dung dịch CuSO4 0,5M
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan