BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU THỊ THU HIỀN
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐĂK LĂK – 2016
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU THỊ THU HIỀN
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN THỊ DIỆU OANH
ĐĂK LĂK – 2016
2
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là một công cụ
sắc bén có vai trò quyết định đến hiệu quả của hoạt động quản lý thuế giá
trị gia tăng cũng như quyết định sự tồn tại, phát triển của sắc thuế này.
Hoạt động xử lý vi phạm hành chính không đạt hiệu quả cũng có nghĩa là
các quy định về thuế giá trị gia tăng chưa phù hợp, cần phải điều chỉnh,…
Việc xây dựng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thuế giá trị gia tăng phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
Luật xử lý vi phạm hành chính, đồng thời phải khai thác, phát huy những
thế mạnh mang tính đặc thù riêng của thuế giá trị gia tăng mà một trong
số đó là các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về thuế chỉ
bao gồm các hình thức xử phạt và một số biện pháp khắc phục hậu quả,
không quy định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Đăk Lăk là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, thuận
lợi cho việc giao lưu hàng hoá, những năm qua tỉnh được đánh giá có sức
mua lớn nhất khu vực. Hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại và
chợ trên địa bàn tỉnh cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu mua sắm cho các du
khách đến tham quan và đầu tư tại Đắk Lắk. Tuy nhiên, cùng với việc
phát triển về kinh tế, thời gian vừa qua tình hình vi phạm pháp luật về
thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh có diễn biến ngày càng phức tạp,
hành vi vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng bị phát hiện ngày càng
nhiều nhưng việc xử lý chưa đạt hiệu quả.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả xin chọn đề
tài “Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh
Đăk Lăk” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình với hy vọng những
đóng góp của đề tài sẽ phần nào giải quyết được khó khăn, tồn tại trong
công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, nâng cao hiệu
quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, hướng tới một
hệ thống thuế hiệu quả và công bằng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn
Qua tìm hiểu những công trình đã được nghiên cứu có thể thấy
một số công trình đã nghiên cứu có liên quan về thuế giá trị gia tăng như:
Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học
(2013), Trương Thị Hồng Nhung, Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật.
Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật về thuế
giá trị gia tăng và hướng hoàn thiện; Những vấn đề pháp lý về việc áp
1
dụng thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam (2002), luận án tiến sỹ Luật học,
Nguyễn Thị Thương Huyền, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật;
Pháp luật về thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – những vấn đề
lý luận và thực tiễn (2012), Luận án tiến sỹ Luật, Vũ Văn Cương, Đại học
Luật Hà Nội; Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và
hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sỹ luật học, Trần Thị Minh Hiền, người
hướng dẫn khoa học: TS Phạm Thị Thu Giang; Pháp luật về thuế giá trị
gia tăng và các biện pháp bảo đảm thực hiện (2002), luận văn thạc sỹ, Lê
Thị Bích Liên, Hà nội; Một số ý kiến trao đổi về dự thảo Luật thuế giá trị
gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (2008), TS Phạm Thị Thu
Giang, Tạp chí Luật học số 4/2008,…
Có thể thấy các công trình kể trên tác giả đã hướng tới nghiên
cứu pháp luật về thuế giá trị gia tăng hoặc những vấn đề liên quan đến
pháp luật về thuế nói chung, một số đề tài cũng đã bước đầu nghiên cứu
về xử phạt hành chính trong lĩnh thuế giá trị gia tăng nhưng mới dừng lại
ở nghiên cứu một góc độ, một khía cạnh (chủ yếu là hành vi vi phạm)
chưa có một nghiên cứu nào hoàn chỉnh và chuyên sâu về việc xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế nhất là trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến việc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng đạt hiệu quả và phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và
hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế
tỉnh Đăk Lăk.
- Đề xuất và luận chứng những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
2
Đối tượng của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt
động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh
Đăk Lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến nay (tháng 6 năm 2016).
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị
gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, các văn bản pháp luật và chủ trương,
chính sách đảm bảo cho hoạt động xử lý vi phạm hành chính của Cục
thuế tỉnh Đăk Lăk được nghiêm minh, chính xác và kịp thời trong giai
đoạn hiện nay, cụ thể:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước đối với
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng hiện nay;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk;
+ Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả
của việc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế
tỉnh Đăk Lăk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
nhà nước và pháp luật, về tuyên truyền, giáo dục và thực hiện pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân
tích, tổng hợp, hệ thống hoá, thống kê,….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Tổng kết lý luận về công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế
giá trị gia tăng đi từ tổng quan vấn đề nghiên cứu, đến hệ thống khái
niệm, các nội dung quản lý hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế
giá trị gia tăng, tạo cơ sở vững chắc cho việc đề xuất các biện pháp quản
lý hoạt động trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện chính sách
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng; là tài liệu
tham khảo cho công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật về xử lý vi phạm
3
hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương I. Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng.
Chương II. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng tại cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Quan niệm chung về xử lý vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính được coi là một loại vi phạm pháp luật diễn
ra phổ biến hằng ngày trong đời sống xã hội của một quốc gia, từ khía
cạnh nhỏ nhất, phạm vi ảnh hưởng ít nhất của đời sống như vượt đèn đỏ,
hút thuốc nơi công cộng, bỏ rác không đúng nơi quy định đến những khía
cạnh lớn hơn, phạm vi ảnh hưởng rộng hơn, bao quát hơn như gây ô
nhiễm môi trường biển, ô nhiễm nguồn nước, trốn thuế,… Vi phạm hành
chính có thể hiểu là việc không tuân theo hoặc làm trái lại những điều
quy định trong hoạt động chỉ đạo, quản lý việc chấp hành luật pháp,
chính sách của nhà nước. Hành vi vi phạm hành chính xâm phạm trực
tiếp đến trật tự quản lý hành chính của một quốc gia, là cơ sở của việc xử
phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực
hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính.
Mặc dù khái niệm vi phạm hành chính được thể hiện khác nhau
nhưng về bản chất không thay đổi và đều có chung các đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật, vi
phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước, phá vỡ trật tự hành
chính đang được duy trì và bảo vệ.
4
- Thứ hai, chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ
chức. Tuy nhiên, không phải mọi cá nhân đều là chủ thể của vi phạm
hành chính mà chỉ có những cá nhân có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm
hành chính.
- Thứ ba, vi phạm hành chính phải là một hành vi khách quan đã
được thực hiện (hành động hoặc không hành động).
- Thứ tư, vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi (cố ý hoặc vô
ý).
Đối với tổ chức thì yếu tố lỗi được thể hiện thông qua việc nhận
thức và điều khiển hành vi của cá nhân người đại diện của tổ chức đó.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính
Thuật ngữ xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm
hành chính, biện pháp xử lý hành chính và các biện pháp thay thế xử lý vi
phạm hành chính, tuy nhiên các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành
chính chỉ được xem xét và áp dụng đối với người chưa thành niên có
hành vi vi phạm hành chính.
- Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử
phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Biện pháp xử lý vi phạm hành chính là biện pháp được áp dụng
đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà
không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Biện pháp thay thế biện pháp xử lý vi phạm hành chính là biện
pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt
vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở
và biện pháp quản lý tại gia đình.
Trên cơ sở xem xét các khái niệm trên đây có thể hiểu Xử lý vi
phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xem xét, áp dụng các hình
thức xử lý được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính đối với cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi có lỗi, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử lý về vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, xử lý vi phạm hành chính là một loại hoạt động
cưỡng chế của nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Xử lý vi phạm
5
hành chính chỉ được thực hiện bởi cơ quan hoặc cán bộ do nhà nước trao
quyền
- Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính chỉ được thực hiện khi có
hành vi vi phạm hành chính.
- Thứ ba, hoạt động xử lý vi phạm hành chính phải được thực
hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
1.2. Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng.
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng là
hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm
đến các lợi ích mà Luật thuế giá trị gia tăng bảo vệ nhưng chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính.
Trong luận văn này, để thống nhất với các quy định của pháp luật
hiện tại và phù hợp với đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thuế giá trị gia tăng nói riêng và trong lĩnh vực thuế nói chung, người viết
sẽ sử dụng thuật ngữ xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng cũng như thực trạng
của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk.
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng được hiểu là
việc người có thẩm quyền xem xét, áp dụng các hình thức xử lý theo quy
định của pháp luật đối cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi có lỗi, vi phạm
quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng, hoá đơn chứng từ mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý về vi
phạm hành chính.
* Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
- Thứ nhất, xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là
một loại hoạt động cưỡng chế của cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ
quản lý hành chính nhà nước về thuế giá trị gia tăng.
- Thứ hai, Cơ sở ra quyết định xử lý vi phạm chính là hành vi vi
phạm pháp luật thuế về thuế giá trị gia tăng.
Thứ ba, đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính là các tổ chức, cá
nhân có đăng ký kinh doanh và tham gia vào hoạt động sản xuất, lưu
thông, tiêu dùng làm phát sinh giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng.
6
- Thứ tư, hoạt động xử lý vi phạm hành chính phải được thực
hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Thứ năm, xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng được
áp dụng khi có hành vi vi phạm kể cả trong trường hợp hành vi vi phạm
về thuế giá trị gia tăng chưa phát sinh thiệt hại.
- Thứ sáu, chỉ được xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng khi hành vi vi phạm đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thứ bảy, Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ ít được áp dụng khi
xử lý vi phạm hành chính bởi một phần xuất phát từ nguyên tắc “tiền
đăng, hậu kiểm” trong quản lý thuế giá trị gia tăng, đặc trưng chủ thể của
thuế giá trị gia tăng, hạn chế trong công tác quản lý …
- Thứ tám, trong xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
hành vi vi phạm có thể được chuyển đổi từ dạng này sang dạng khác dựa
vào hậu quả của hành vi.
- Thứ chín, xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng gắn
liền với xử lý vi phạm hành chính về thuế thu nhập doanh nghiệp vì thuế
giá trị gia tăng được tính dựa trên doanh thu tăng thêm.
1.2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng
* Nguyên tắc pháp chế:
* Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời, xử lý
công minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật
* Nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo trong xử lý vi phạm
hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.3. Các hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
* Hành vi vi phạm thủ tục thuế
* Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng
số tiền thuế được hoàn
* Hành vi trốn thuế, gian lận thuế
* Hành vi chậm nộp tiền thuế
1.2.4. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.4.1. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng của cơ quan thuế
- Công chức thuế đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh cáo;
Phạt tiền đến 1.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm về thủ tục thuế
giá trị gia tăng.
- Đội trưởng Đội thuế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ có
quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 5.000.000 đồng đối với các hành vi
vi phạm về thủ tục thuế.
7
- Chi cục trưởng Chi cục thuế trong phạm vi địa bàn quản lý của
mình có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 5.000.000 đồng đối với các
hành vi vi phạm. Buộc nộp đủ số tiền thuế nợ, số tiền thuế thiếu, tiền
chậm nộp tiền thuế, số tiền thuế trốn, gian lận vào ngân sách nhà nước;
- Cục trưởng Cục Thuế trong phạm vi đại bàn quản lý của mình
có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 140.000.000 đồng đối với hành vi
vi phạm. Buộc nộp đủ số tiền thuế nợ, số tiền thuế thiếu, tiền chậm nộp
tiền thuế, số tiền thuế trốn, gian lận vào ngân sách nhà nước;
- Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt
tiền đến 200.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm. Buộc nộp đủ số tiền
thuế nợ, số tiền thuế thiếu, tiền chậm nộp tiền thuế, số tiền thuế trốn, gian
lận vào ngân sách nhà nước;
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về thủ tục thuế của cơ
quan thuế nêu trên đây được áp dụng đối với một hành vi vi phạm của tổ
chức. Trường hợp áp dụng hình thức phạt tiền đối với một hành vi vi
phạm của cá nhân về thủ tục thuế thì thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân
bằng ½ thẩm quyền xử phạt đối với tổ chức.
1.2.4.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp
- Chủ tịch UBND cấp xã có quyền xử phạt đến 5.000.000 đồng
đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền xử phạt đến 50.000.000
đồng đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền xử phạt đên 100.000.000
đồng đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế.
1.2.5. Thủ tục xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.5.1. Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng theo
thủ tục không lập biên bản
Thủ tục xử lý hành vi phạm hành chính không lập biên bản là loại
thủ tục đơn giản được áp dụng đối với các trường hợp vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng có tính chất, mức độ vi phạm ít phức tạp và
theo quy định của pháp luật chỉ cần sử dụng hình thức xử phạt là cảnh
cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối
với tổ chức. Trong trường hợp này người có thẩm quyền xử lý phải ra
quyết định xử lý tại chỗ.
1.2.5.2. Xử lý hành chính vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng theo thủ tục có lập biên bản
* Lập biên bản vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
* Giải trình của tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về thuế
8
* Xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính về thuế giá
trị gia tăng
* Ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.5.3. Thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế giá
trị gia tăng
Đối với Quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng không lập biên bản thì cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại chỗ
cho người có thẩm quyền xử phạt.
Đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng có lập biên bản thì cá nhân, tổ chức bị xử lý phải chấp hành quyết
định xử lý trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử lý vi
phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng.
1.2.6. Vai trò của xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
- Thứ nhất, hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng góp phần đảm bảo giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý
nhà nước về thuế giá trị gia tăng, đảm bảo công bằng trong hoạt động
kinh tế, từ đó minh bạch hoá môi trường đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế
quốc dân phát triển bền vững.
- Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng góp
phần đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước.
- Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
góp phần hoàn thiện về hệ thống pháp luật về thuế giá trị gia tăng.
- Thứ tư, xử phạt vi phạm hành chính về thuế còn góp phần giáo
dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ngành thuế cũng như các đối
tượng có nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xử lý vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của thể chế xử lý vi phạm hành chính
về thuế giá trị gia tăng
Các quy định pháp luật phải thống nhất, đồng bộ trong phạm vi
điều chỉnh và phải thống nhất, đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp
luật của quốc gia. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về thuế cũng vậy,
muốn thực hiện tốt phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, đơn
giản, dễ hiểu và tạo ra một khung pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh đảm bảo sự
thống nhất trong quản lý của toàn ngành, làm cơ sở cho việc phân loại,
phân luồng, góp phần cải cách hành chính về thuế giá trị gia tăng, ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao ý thức tự giác chấp hành
pháp luật, tuân thủ pháp luật về thuế giá trị gia tăng của các chủ thể nộp
thuế và cán bộ, công chức ngành thuế.
9
1.3.2. Năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức ngành
thuế
Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức ngành thuế cũng như
công tác tổ chức, tuyển dụng cán bộ có ảnh hưởng quan trọng và quyết
định đến hiệu quả của việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế
giá trị gia tăng. Chỉ khi cán bộ, công chức ngành thuế thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình, nắm vững các quy định của pháp luật về
thuế và xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, giữ tâm trong
sáng, vô tư trong khi làm nhiệm vụ mới đảm bảo việc xử phạt được khách
quan, công bằng từ đó tạo được lòng tin cho người nộp thuế vào cơ quan
thuế, vào chính sách pháp luật về thuế của Đảng và nhà nước ta.
1.3.3. Hoạt động phối hợp liên ngành
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động xử lý vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng, Cục thuế tỉnh cần có sự phối hợp kịp thời của lực
lượng khác như quản lý thị trường, công an, các tổ chức, đoàn thể và cá
nhân, … điều này đòi hỏi Cục thuế tỉnh phải là lực lượng chủ động, tích
cực đề xuất các phương án, biện pháp để thực hiện công tác phối hợp.
1.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế cũng có mặt
trái là nó tạo cơ hội cho người nộp thuế dễ dàng thông đồng, câu kết và
lợi dụng chính pháp luật để trốn thuế, gian lận thuế, vì vậy cần chủ động
xây dựng một môi trường hội nhập mới, một môi trường trong sạch cho
các chủ thể quản lý thuế và người nộp thuế bởi chỉ trong một môi trường
trong sạch, các chủ thể tham gia trong môi trường đó mới tự giác thực
hiện pháp luật đồng thời tạo dư luận để toàn xã hội phòng chống các hành
vi vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng.
1.3.5. Điều kiện vật chất phục vụ hoạt động xử lý vi phạm về
thuế giá trị gia tăng
Cơ sở vật chất, kỹ thuật bao gồm cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ
thuật, nghiệp vụ …của cơ quan thuế phục vụ cho công tác quản lý thuế.
Cơ sở vật chất kỹ thuật ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo thực hiện
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng. Chỉ
khi hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại mới theo
dõi một cách có hiệu quả tình hình vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng cũng như kịp thời phát hiện hành vi để có biện pháp xử lý phù hợp.
Tiểu kết chương I
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là một quy trình
bao gồm việc phát hiện, xử lý đối với các nhóm hành vi vi phạm về thủ
10
tục thuế, hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số
tiền thuế được hoàn, hành vi trốn truế, gian lận thuế. Đây là những hành
vi gây thất thu cho nguồn ngân sách nhà nước, nó được biểu hiện ở nhiều
thủ đoạn khác nhau và được phát sinh từ bản chất mâu thuẫn đặc trưng
của thuế quan, mâu thuẫn lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế.
Trong chương này, người viết đã hệ thống các hành vi vi phạm
hành chính theo cách thức chung và thống nhất trên cơ sở quy định của
Luật quản lý thuế; phân tích các đặc điểm của hành vi vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng; quan niệm xử lý hành chính trong lĩnh vực
này cũng như nhấn mạnh về nguyên tắc, phân định thẩm quyền cũng như
trình tự, thủ tục xử lý hành chính về thuế giá trị gia tăng.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK
LĂK
2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xử lý vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk
2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị của tỉnh Đăk Lăk
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có diện tích
13.125,37 km2, dân số toàn tỉnh tính đến năm 2012 đạt 1.796.666 người,
mật độ dân số đạt hơn 137 người/km². Trong đó, dân số sống tại thành thị
đạt 432.458 người, dân số sống tại nông thôn đạt 1.364.208 người. Dân
số nam đạt 906.619 người, dân số nữ đạt 890.047 người. Cộng đồng dân
cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc. Trong đó, người Kinh chiếm trên 70%; các
dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30%
dân số toàn tỉnh.
Đăk Lăk được coi là một trong những tỉnh năng động trong các
hoạt động đầu tư. Trong 06 tháng đầu năm 2016, toàn tỉnh có 344 doanh
nghiệp dân doanh đăng ký, nâng tổng số doanh nghiệp của toàn tỉnh lên
6263 doanh nghiệp (tăng 12,05% so với cùng kỳ năm 2015), với tổng số
vốn đăng ký 1.438 tỷ đồng (tăng 52,09% so với cùng kỳ năm 2015), bình
quân 3,2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Trong đó có: 26 doanh nghiệp tư nhân,
vốn đăng ký 28,5 tỷ đồng; 210 công ty TNHH một thành viên, vốn đăng
ký 441,6 tỷ đồng; 82 công ty TNHH hai thành viên trở lên, vốn đăng ký
407,4 tỷ đồng; 26 công ty cổ phần, vốn đăng ký 560,5 tỷ đồng. Cấp giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động cho 65 chi nhánh và văn phòng đại diện
của doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của suy
11
thoái kinh tế nên số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng
cao, toàn tỉnh có 761 doanh nghiệp giải thể, bỏ địa chỉ kinh doanh và
ngừng hoạt động.
2.1.2. Cục thuế tỉnh Đăk Lăk
Kể từ ngày 01/10/1990 khi hợp nhất 3 tổ chức thu (theo Quyết
định số 314 TC/QĐ, ngày 21/8/1990 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) là Chi
cục Thuế Công thương nghiệp, Chi cục Thuế quốc doanh, Chi cục Thuế
nông nghiệp, ngành Thuế đi vào hoạt động trong một thể thống nhất.
Hiện nay, Cục thuế tỉnh có 158 cán bộ, công chức làm việc trong 14
phòng, ban; quản lý thuế trực tiếp của 584 doanh nghiệp.
Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát và kịp thời của
Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối
hợp, giúp đỡ của các ban, ngành, đoàn thể, sự đồng thuận của các doanh
nhân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh và của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk
Lắk, Cục Thuế không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức, tích cực khắc
phục khó khăn, nỗ lực, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước giao.
NĂM
TỔNG THU NGÂN SÁCH CỦA CỤC THUẾ DAK LAK
1.600,0
1.400,0
1.200,0
1.000,0
800,0
600,0
400,0
200,0
0,0
Thu khác
Thu từ thuế GTGT
2013
2014
2015
6 th đầu
2016
THU NGÂN SÁCH (TỶ ĐỒNG)
Hình 2.1: Hoạt động thu ngân sách của Cục thuế tỉnh Đăk Lăk
(nguồn: do tác giả tự tổng hợp)
Hoạt động quản lý thuế trong những năm gần của Cục thuế tỉnh
Đăk Lăk được triển khai trong bối cảnh nền kinh tế của tỉnh nhà trên đà
hồi phục, đạt tốc độ tăng trưởng so với kế hoạch đề ra, năm sau cao hơn
năm trước, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Chỉ tính riêng
trong 06 tháng đầu năm 2016, ngành thuế tỉnh đã ban hành 70 quyết định
xử lý sau thanh tra, truy thu và phạt vi phạm hành chính lĩnh vực thuế 18
tỷ 200 triệu đồng, giảm khấu trừ thuế giá trị gia tăng 2 tỷ 240 triệu đồng;
12
thực hiện kiểm tra 370 đơn vị qua đó, truy thu và phạt vi phạm hành
chính gần 21 tỷ 597 triệu đồng, bình quân đạt 69 triệu đồng/cuộc kiểm
tra thuế.
2.1.3 Tình hình vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk
Từ năm 2013 đến 30/06/2016, Cục thuế tỉnh Đăk Lăk đã phát
hiện và lập 2.487 biên bản vi phạm hành chính về thuế trong đó có 1037
trường hợp vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng chiếm 41,69%.
Trong số các vụ vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng thì chủ
yếu người nộp thuế có hành vi vi phạm khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn (488 vụ, chiếm 47,2% tổng số
vụ vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng). Hành vi này được coi là
hành vi gây thất thu thuế nhiều nhất cho ngân sách nhà nước trong số các
hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng hiện nay.
Trong thời gian vừa qua, do công tác quản lý thuế còn nhiều yếu
kém, cơ sở vật chất thiếu,… đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tìm
mọi các để gian lận thuế nhằm trốn thuế hoặc chiếm đoạt tiền thuế của
nhà nước. Các hành vi được thực hiện dưới nhiều cách thức khác nhau
như:
- Bỏ ngoài sổ sách kế toán
- Tạo giao dịch bán hàng, mua hàng giả mạo
- Ghi giá bán thấp hơn thực tế
Bên cạnh hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế được nộp
hoặc tăng số tiền thuế được hoàn thì các vi phạm hành chính về thủ tục
cũng còn ở mức cao, đặc biệt là hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế so với
thời hạn quy định (258 vụ, chiếm 24,8% tổng số các vụ vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng); hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông
tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế (283 vụ, chiếm tỷ lệ
27,3%),. Hành vi này chủ yếu biểu hiện ở hành vi nộp hồ sơ quá thời hạn
quy định; cung cấp không đầy đủ, không chính xác các thông tin, tài liệu,
chứng từ, hoá đơn; cung cấp thông tin, tài liệu,… quá thời hạn quy
định,…
2.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk
2.2.1. Xử lý vi phạm hành chính về thủ tục thuế giá trị gia tăng
Từ năm 2013 đến nay Cục thuế tỉnh Đăk Lăk tiếp nhận 24.372 hồ
sơ đăng ký thuế, khai thuế giá trị gia tăng của người nộp thuế, tiến hành
xử lý 549 trường hợp người nộp thuế vi phạm thủ tục hành chính về thuế
giá trị gia tăng (chiếm tỷ lệ 2,25%) trong đó có 283 trường hợp người nộp
13
thuế có hành vi vi phạm các quy định về cung cấp thông tin liên quan đến
xác định nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng nhưng không thuộc trường hợp xác
định là khai thiếu thuế, trốn thuế, gian lận về thuế; 258 trường hợp người
nộp thuế có hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng so với thời
hạn quy định; chỉ có 08 trường hợp người nộp thuế có hành vi chậm nộp
hồ sơ đăng ký thuế giá trị gia tăng. Không có trường hợp nào bị xử lý về
hành vi chậm thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế so
với thời hạn quy định, khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế
và vi phạm quy định về chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra, cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế giá trị gia tăng. Tổng số tiền xử
phạt thuế giá trị gia tăng thu được là 1.699 triệu đồng, số tiền truy thu,
truy hoàn vào ngân sách nhà nước là 34.150 triệu đồng, tiền chậm nộp
tiền thuế là 5.116 triệu đồng.
Hình 2.2: Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thủ tục thuế GTGT
(nguồn: tác giả tự tổng hợp)
Hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng trong
thời gian qua cũng cho thấy những bất cập trong các quy định pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng. Từ năm 2013 đến
nay, Cục thuế tỉnh đã ban hành 549 quyết định xử lý vi phạm hành chính
về thuế giá trị gia tăng nhưng chỉ có 500 quyết định xử phạt đã được thi
hành xong hoặc thi hành một phần, chiếm tỷ lệ 91,15%; 05 quyết định bị
khởi kiện ra toà và bị toà án tuyên huỷ quyết định do không phù hợp với
các quy định của pháp luật; 44 quyết định Cục thuế chủ động thu hồi và
huỷ bỏ do không có căn cứ vững chắc.
2.2.2. Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi khai sai dẫn đến
thiếu số tiền thuế giá trị gia tăng phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được
hoàn
14
Hình 2.3: Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thuế GTGT đối với
hành vi khai sai làm thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc
làm tăng số tiền thuế được hoàn (nguồn: do tác giả tự tổng hợp)
Sở dĩ số vụ việc bị xử lý vi phạm hành chính tăng không phải do
hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng có chiều hướng gia
tăng mà chủ yếu do những năm gấn đây Cục thuế tỉnh tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. Năm 2013 số đơn vị bị
kiểm tra là 295 đơn vị, thanh tra 79 đơn vị; năm 2014 kiểm tra 345 đơn
vị, thanh tra 78 đơn vị; năm 2015 kiểm tra 403 đơn vị, thanh tra 129 đơn
vị. Tỷ lệ các quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
được thi hành năm sau cao hơn năm trước trong khi quyết định xử lý vi
phạm bị khiếu nại, khởi kiện và bị huỷ bỏ, thay thế có xu hướng giảm
dần. Tổng số tiền xử phạt thuế giá trị gia tăng thu vào ngân sách nhà nước
từ truy thu và xử phạt là 89 tỷ 625 triệu đồng tiền chậm nộp tiền thuế là
14 tỷ 014 triệu đồng.
2.2.3. Xử lý vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế, gian lận
thuế
Từ ngày 01tháng 07 năm 2007 (ngày Nghị định số 98/2007/NĐCP của Chính Phủ có hiệu lực) đến nay, Cục thuế tỉnh Đăk Lăk chưa thực
hiện xử phạt về hành vi trốn thuế của người nộp thuế vì một số lý do sau:
- Thứ nhất, áp dụng nguyên tắc có lợi cho người nộp thuế:
15
- Thứ hai, hoạt động quản lý thuế trong những năm gần đây đạt
được những thành tựu nhất định.
- Thứ ba, trong nhiều trường hợp thường gặp khó khăn khi xác
định hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
2.2.4. Xử lý về hành vi chậm nộp thuế giá trị gia tăng
Buộc người nộp thuế phải nộp khoản tiền chậm nộp là biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính hay biện pháp xử lý hành chính theo quan
điểm của tác giả đều không phù hợp, bởi lẽ:
- Thứ nhất, nếu coi đây là một hình thức xử phạt chính thì việc áp
dụng hình thức này đồng thời với hình thức xử phạt bằng tiền theo quy
định đối với từng hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị hiện nay sẽ
vi phạm nguyên tắc đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính.
- Thứ hai, Việc buộc người nộp thuế ngoài việc bị xử phạt ra còn
phải nộp một khoản tiền chậm nộp tính theo tỷ lệ của số tiền thuế giá trị
gia tăng chậm nộp hiện nay cũng không được coi là một biện pháp xử lý
hành chính hay biện pháp thay thế biện pháp xử lý vi phạm hành chính.
* Nguyên nhân của tình trạng vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng trong thời gian qua:
Thứ nhất, pháp luật về thuế giá trị gia tăng quy định diện được
hoàn thuế rộng trong khi ý thức pháp luật của người nộp thuế chưa tương
xứng, số tiền hoàn thuế thường lớn dẫn đến nảy sinh lòng tham của người
nộp thuế.
Thứ hai, hoạt động quản lý thuế chưa tương xứng với yêu cầu của
công tác quản lý cũng như sự chuyển dạng ngày càng tinh vi của hành vi
vi phạm; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ
quan thuế nên không phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận
thuế.
Thứ ba, phương thức thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt giúp đối
tượng vi phạm dễ dàng hợp thức hoá hồ sơ vi phạm.
Thứ tư, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ,
công chức ngành thuế chưa được quan tâm đúng mức dẫn tới sự tha hoá,
biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ
quản lý thuế.
Thứ năm, ý thức pháp luật của người nộp thuế và người dân về
thuế giá trị gia tăng còn hạn chế, kỷ cương về thuế giá trị gia tăng còn
lỏng lẻo.
Thứ sáu, đặc trưng của ngành thuế là áp dụng cơ chế “tiền đăng,
hậu kiểm”.
16
2.2.5. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế
Cục thuế tỉnh đã tiến hành 1034 lượt kiểm tra, 286 lượt thanh tra
tại doanh nghiệp, ban hành 283 quyết định xử phạt vi phạm hành chính
về thuế giá trị gia tăng sau thanh tra, kiểm tra, truy thu và xử phạt 75 tỷ
282 triệu đồng tiền thuế giá trị gia tăng, thu 13 tỷ 804 triệu đồng tiền
chậm nộp thuế giá trị gia tăng vào ngân sách nhà nước, giảm khấu trừ
thuế giá trị gia tăng đầu vào từ năm 2013 đến 06 tháng đầu năm 2016 là
17,587 tỷ đồng, trong đó giảm khấu trừ sau kiểm tra là 7,8 tỷ đồng, giảm
khấu trừ sau thanh tra là 9,787 tỷ đồng.
2.2.6. Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với quyết định xử lý vi phạm
hành chính về thuế giá trị gia tăng
Cục thuế tỉnh Đăk Lăk đã nhận được 85 đơn khiếu nại (17 đơn
khiếu nại nhận trong 06 tháng đầu năm 2016), 01 đơn tố cáo liên quan
đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng. Đã giải
quyết 82 đơn (chiếm 96,4%), trong đó có 81 đơn khiếu nại, 01 đơn tố
cáo, 03 đơn còn lại do người nộp thuế khởi kiện vụ án ra toà hành chính
và không yêu cầu Cục thuế giải quyết khiếu nại.
2.3. Đánh giá chung về công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế
giá trị gia tăng tại cục thuế tỉnh Đăk Lăk
2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân
* Thành tựu
- Hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại
Cục thuế tỉnh Đăk Lăk trong những năm gần đây đã nhận được sự chỉ đạo
kịp thời của Tổng cục thuế, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk cũng như các
cơ quan ban ngành trong tỉnh.
- Xử lý các hành vi vi phạm của người nộp thuế về thủ tục hồ sơ
kê khai thuộc phạm vi quản lý góp phần hạn chế các hành vi vi phạm
hành chính về thủ tục thuế.
- Trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng đã từng bước được hoàn thiện theo quy định của pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính về thuế được quy định tại các văn bản pháp luật.
- Công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng đã
góp phần không nhỏ trong việc thay đổi nhận thức của cán bộ ngành thuế,
nâng cao trách nhiệm của cán bộ ngành thuế khi thực hiện công tác kiểm
tra, thanh tra và xử lý vi phạm hành chính về thuế.
* Nguyên nhân
- Thứ nhất, Cục thuế tỉnh luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp
thời của Bộ Tài chính, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và Tổng cục thuế, cùng sự
17
phối hợp của cơ quan kiểm toán nhà nước, một số cơ quan ban ngành
trong tỉnh.
- Thứ hai, nhận thức của người nộp thuế về thuế giá trị gia tăng
và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia
tăng được nâng lên, qua đó việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhà nước
có nhiều thuận lợi.
- Thứ ba, việc áp dụng công nghệ thông tin chuyên sâu vào công
tác quản lý thuế, cùng với việc thay đổi chính sách pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng.
- Thứ tư, các cơ quan thông tấn báo chí, nhà xuất bản đã đưa
thông tin kịp thời, tuyên truyền chính xác chủ trương, chính sách, sự kiện
chính trị, tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.
- Thứ năm, công tác phối hợp giữa Cục thuế, Sở kế hoạch và Đầu
tư tỉnh Đăk Lăk, Cơ quan quản lý thị trường, Công an tỉnh và các tổ chức
tín dụng trên địa bàn tỉnh,… ngày càng nhịp nhàng, tạo sự đồng thuận.
- Thứ sáu, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra
và xử phạt vi phạm hành chính về thuế đã được ưu tiên đầu tư trang bị.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
Bên cạnh những mặt đã đạt được, công tác xử lý vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk còn nhiều bất cập:
- Thứ nhất, việc lập biên bản vi phạm hành chính còn nhiều bất
cập, chưa đúng với quy định của pháp luật, quy định của pháp luật còn
chồng chéo.
- Thứ hai, việc ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về
thuế nhưng không căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Thứ ba, khi ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính, cơ
quan thuế đã xác định sai đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính.
- Thứ tư, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng mới chỉ quy định các biện pháp cưỡng chế, xử lý đối với các tổ chức
tín dụng và tổ chức, cá nhân có khác có liên quan có trách nhiệm trong
việc phối hợp cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính
nhưng chưa quy định trách nhiệm phối hợp trong việc kiểm tra, thanh tra,
phát hiện hành vi vi phạm hành chính.
* Nguyên nhân
- Thứ nhất, thể chế pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về thuế
giá trị gia tăng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ.
- Thứ hai, trình độ quản lý thuế của một số cán bộ còn yếu về
nghiệp vụ và kỹ năng quản lý, chưa chủ động tham mưu, đề xuất các biện
18
- Xem thêm -