Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Xây dựng và sử dụng các dự án học tập trong dạy học môn toán lớp 4...

Tài liệu Xây dựng và sử dụng các dự án học tập trong dạy học môn toán lớp 4

.PDF
118
1
74

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập toàn cầu, phát triển kinh tế của đất nước, giáo dục Việt Nam đang đứng trước bài toán phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu giáo dục đến nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Nghị quyết 29 – NQ/ TW Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo đã khẳng định: “Phải chuyển đổi căn bản toàn bộ nền giáo dục từ chủ yếu nhằm trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; chuyển nền giáo dục nặng về chữ nghĩa, ứng thí sang một nền giáo dục thực học, thực nghiệp”. Trọng tâm của việc đổi mới giáo dục nhằm hướng đích mục tiêu giáo dục phổ thông: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo” (Điều 27, mục 2, chương II, Luật Giáo dục 2005). Để thực hiện mục tiêu này, thì: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng năng lực tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn” (Điều 28, mục 2, chương II, Luật Giáo dục 2005). Như vậy, song song với việc đổi mới về mục tiêu, nội dung thì hiện nay giáo dục nước ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hoạt động người học. Trong thế kỉ XXI, Hội đồng Quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI được UNESCO thành lập đã xác định : “Học để biết – Học để làm – Học để tự khẳng định mình – Học để chung sống” là 4 trụ cột của giáo dục. Như vậy, giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng trong sự thành công của mỗi cá nhân, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp cho toàn xã hội. Mục tiêu giáo dục của thế giới cho thấy rõ giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn phải hình thành cho người học những kĩ năng, thái độ để họ có thể sống và làm việc trong xã hội luôn thay đổi. 2 Giáo dục tiểu học thuộc giai đoạn Giáo dục cơ bản. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” (Luật Giáo dục 2005, Điều 27, mục 2, chương II). Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi giáo dục tiểu học hướng trọng tâm là hình thành và phát triển các phẩm chất, kỹ năng, năng lực học sinh, chuẩn bị tiềm năng, tâm thế để học sinh tự tin học các bậc học tiếp theo hay bước vào cuộc sống. Trong lộ trình đổi mới PPDH tại các trường tiểu học hiện nay, một số PPDH mới đang được đề cập, quan tâm đến nhằm giúp người học hoạt động tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình học tập, trong đó có dạy học theo dự án. Dạy học theo dự án là một trong những PPDH tích cực. Trong phương pháp này HS được tiếp thu tri thức thông qua việc cộng tác, học tập độc lập, tư duy, giải quyết những dự án thuộc một chủ đề học tập dưới vai trò hướng dẫn, tư vấn, thúc đẩy và cộng tác của GV. Từ đó HS khắc sâu và ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Phương pháp không chỉ giúp học sinh liên hệ được kiến thức học trên lớp với tình huống thực tế ngoài lớp học, khuyến khích học sinh áp dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề. Bên cạnh đó phương pháp này còn giúp HS phát triển kĩ năng tự học, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng ứng dụng thông tin trong học tập. Đồng thời đem lại những giờ học nhẹ nhàng, vui vẻ, lý thú mà vẫn đạt hiệu quả cao. Lớp 4 là lớp học gần cuối cấp tiểu học, các kiến thức môn Toán trong chương trình có tính chất tổng hợp cao. Kiến thức môn Toán giúp HS lớp 4 hoàn thiện kĩ năng tính toán, áp dụng lí thuyết vào đời sống hàng ngày. Việc khai thác các nội dung có tính chất thực tiễn trong môn Toán có điều kiện thực hiện nhiều hơn so với các lớp dưới do kiến thức đã được cung cấp đảm bảo tính chuyên sâu, phổ quát hơn. Hơn nữa, học sinh lớp 4 đã có những trưởng thành hơn trong tâm lí, nhận thức, khả năng thực hiện nhiệm vụ học tập, phát huy tiềm năng về trí tuệ, tính chủ động. Do đó, việc vận dụng tư tưởng của PPDH theo dự án vào dạy học môn Toán lớp 4 có tính khả thi cao. 3 Qua khảo sát thực trạng vận dụng dạy học theo dự án tại một số trường trên địa bàn thị xã Phú Thọ, chúng tôi thấy: Qua các đợt tập huấn về đổi mới PPDH hay qua các kênh thông tin thì hầu hết giáo viên tiểu học có hiểu biết về dạy học theo dự án. Tuy nhiên, thực tiễn số GV áp dụng PPDH này trong dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán ở tiểu học còn chưa nhiều. Vì vậy hiệu quả của PPDH này nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh chưa được khai thác tối đa. Là sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học và sẽ là người giáo viên Tiểu học trong tương lai, việc tiếp cận và bước đầu vận dụng PPDH theo dự án vào môn toán Tiểu học nói chung, tập dượt việc thiết kế kế hoạch dạy học theo dự án theo quy trình trong môn toán lớp 4 nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về vấn đề đổi mới PPDH, phát triển các kĩ năng nghề nghiệp cho bản thân. Vì những lý do trên chúng tôi chọn “Xây dựng và sử dụng các dự án học tập trong dạy học môn Toán lớp 4” làm đề tài nghiên cứu. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài - Làm rõ cơ sở lí luận của PPDH theo dự án. - Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng một số dự án học tập trong môn Toán lớp 4. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài - Góp phần làm phong phú hóa việc đổi mới phương pháp dạy học trong môn Toán ở tiểu học thông qua các dự án học tập môn Toán lớp 4. - Các dự án học tập được xây dựng sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành GDTH và giáo viên TH quan tâm đến vấn đề sử dụng PPDH theo dự án trong dạy học môn toán cho HS lớp 4. 3. Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng một số dự án học tập trong môn Toán lớp 4 và hướng dẫn sử dụng các dự án trong dạy học góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của HS và nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán lớp 4. 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học theo dự án. - Nghiên cứu nội dung chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán ở tiểu học, cách thức xây dựng các dự án học tập trong môn Toán ở tiểu học. - Xây dựng một số dự án học tập với môn Toán lớp 4. - Hướng dẫn cách sử dụng các dự án học tập. - Thực nghiệm sư phạm nhằm bước đầu đánh giá mức độ hiệu quả của các dự án học tập đã xây dựng. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu việc vận dụng dạy học theo dự án trong một số nội dung môn Toán lớp 4. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc tổ chức dạy học theo dự án cho một số chủ đề ở môn Toán lớp 4. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc tổ chức dạy học theo dự án của một số trường tiểu học trên địa bàn thị xã Phú Thọ. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài liệu, các đề tài nghiên cứu, các giáo trình tham khảo liên quan tới đề tài: Định hướng đổi mới PPDH ở trường tiểu học nói riêng; các PPDH theo xu hướng DH không truyền thống; cơ sở lý luận của phương pháp dạy học theo dự án. Nghiên cứu chương trình, SGK môn Toán lớp 4 về mục tiêu, nội dung. 6.2. Phương pháp điều tra, quan sát Dự giờ, điều tra, phỏng vấn, trao đổi với các GV giỏi, có kinh nghiệm dạy học môn Toán ở trường tiểu học về vấn đề dạy học theo dự án ở tiểu học, lấy ý kiến đóng góp qua phiếu thăm dò. 5 6.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Xin ý kiến giảng viên hướng dẫn, các giảng viên giảng dạy môn Toán ở trường Đại học Hùng Vương và một số GV dạy giỏi môn Toán ở trường Tiểu học về vấn đề nghiên cứu và sản phẩm khoa học của đề tài. 6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Tổ chức thực nghiệm sư phạm các kế hoạch bài học đã thiết kế trong nội dung môn Toán lớp 4 nhằm kiểm nghiệm tính khả khi của dự án học tập này. 6 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Định hướng đổi mới dạy học tiểu học hiện nay 1.1.1. Định hướng đổi mới dạy học ở tiểu học Từ đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những hạn chế của các phương pháp dạy học truyền thống (dạy học lấy GV làm trung tâm) và tập trung tìm tòi cải tiến, đổi mới PPDH nhằm khắc phục các hạn chế đó. Nghiên cứu cải tiến, đổi mới PPDH diễn ra theo hai hướng chính: (1) hướng vào đổi mới nội dung dạy học, (2) hướng vào đổi mới phương pháp dạy học, trong đó yếu tố GV có thể chủ động điều chỉnh là phương pháp dạy học. Vấn đề đổi mới dạy học ở tiểu học không chỉ dược cụ thể hóa trong chương trình Tiểu học mới (9/11/2001) mà còn được đề cập trong nhiều tài liệu khác như: tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GVTH (chu kỳ 1997 - 2000), tài liệu bồi dưỡng GVTH (dự án phát triển GVTH - Bộ GD&ĐT),… Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đổi mới chương trình và PPDH được thể hiện trong nhiều văn kiện, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Sự cần thiết đổi mới giáo dục đã được khẳng định trong Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Chỉ thị 14/2001/CT-TTG ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội. Định hướng chung của đổi mới giáo dục đào tạo là chú trọng việc hình thành các năng lực của HS. Trọng tâm của chính sách đổi mới giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là đổi mới cách thực hiện các PPDH. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) đã đề ra nhiệm vụ đổi mới PPDH ở tất cả các cấp học, bậc học và khẳng định cần thiết phải đổi mới PPDH. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996) cũng nhận định PPDH chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng PPDH đã được quy định rõ trong Luật Giáo dục (2005): “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học…” [Điều 24.2, Luật Giáo dục]. 7 Ở tiểu học, vấn đề đổi mới PPDH được miêu tả bằng thuật ngữ “phương pháp dạy và học tích cực”, thuật ngữ này tương tự như “dạy học lấy người học làm trung tâm”, nó nhấn mạnh đến sự tham gia tích cực của HS trong giờ học. Điều này đã được đề cập rõ trong Chương trình tiểu học mới như sau: “Phương pháp giáo dục tiểu học là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh”. Như vậy, định hướng đổi mới PPDH đã được khẳng định rõ trong các văn bản, nghị quyết và các luật của nhà nước. Việc đổi mới PPDH ở tiểu học về cơ bản là nhằm giúp hướng tới việc học tập chủ động và dần loại bỏ thói quen học tập thụ động. 1.1.2. Dạy học theo quan điểm lấy người học làm trung tâm Dạy học lấy người học làm trung tâm cũng được miêu tả bằng các thuật ngữ dạy học tích cực hay dạy học hiệu quả (đây là các cách diễn đạt khác nhau của cùng một ý). Các thuật ngữ này đều có ý nghĩa nhấn mạnh vai trò chủ thể hoạt động của HS, thể hiện ở tính chủ động, tự giác, tích cực, sáng tạo của các em trong quá trình học tập. Quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm có nhiều khái niệm quan trọng. Những khái niệm đặc thù liên quan đến cách nhìn nhận về kiến thức, về vai trò của GV, HS và phong cách học tập của HS làm cho giáo dục lấy HS làm trung tâm hoàn toàn khác biệt với giáo dục truyền thống. Dạy học lấy HS làm trung tâm nhấn mạnh các vấn đề: (1) hứng thú của HS: động cơ thúc đẩy HS học tập, háo hức tiếp thu tri thức mới, (2) vốn kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của HS: tạo cơ sở để HS lĩnh hội tri thức mới và (3) sự toàn diện trong nhận thức của các em, nghĩa là HS có được cái nhìn toàn diện về mọi khía cạnh của một vấn đề. Dạy học lấy HS làm trung tâm không chỉ là một phương pháp giáo dục mà còn là một triết lý giáo dục hay định hướng để đạt giáo dục hiệu quả. Dạy học lấy HS làm trung tâm có những khác biệt cơ bản so với dạy học truyền thống cả về mục đích, nội dung, phương pháp dạy học, người dạy, người học… Đặc trưng của nó là nhấn mạnh vai trò chủ động, tích cực của người học, chú ý đến sự hứng thú và vốn kinh nghiệm của HS, đến việc HS học thế nào hơn 8 là việc GV dạy thế nào. Dạy học lấy HS làm trung tâm đòi hỏi người GV phải tư duy theo cách nghĩ mới và tự trang bị những kỹ năng mới. Đặc biệt, GV cần hiểu đúng quan niệm dạy học lấy người học làm trung tâm và không ngừng đổi mới. Dạy học tích cực tăng cường vận dụng các PPDH tích cực nâng cao hiệu quả dạy học để đáp ứng yêu cầu của đổi mới dạy học hiện nay. Thực hiện việc dạy học tích cực không có nghĩa là từ bỏ các PPDH truyền thống. Việc sử dụng các PPDH nói chung còn phụ thuộc vào đặc điểm bài học và đối tượng HS. Với những tiền đề, định lí được thừa nhận một cách mặc định hay các khái niệm cơ bản, ban đầu cần cung cấp cho người học thì bắt buộc phải sử dụng các PPDH truyền thống. Để dạy và học đạt hiệu quả cao thì cần sử dụng và phối hợp các PPDH (cả truyền thống và tích cực) một cách hợp lí, linh hoạt. 1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực 1.1.3.1. Khái niệm Phương pháp dạy học: Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa là con đường để đạt được mục đích. Theo đó, PPDH là con đường để đạt được mục đích dạy học. Hiểu theo nghĩa rộng, PPDH là những hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS, thông qua đó và bằng cách đó GV và HS lĩnh hội hiện thực tự nhiên, xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể (Meyer, H.1987). Theo nghĩa hẹp, PPDH (cụ thể) là những hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục đích dạy học. PPDH cụ thể quy định những mô hình hành động của GV và HS, được thể hiện trong hình thức và tiến trình phương pháp (trình tự xác định gồm các bước, các hoạt động dạy học, quy định thời gian và lôgic hành động). Tóm lại, PPDH là cách thức hành động của GV và HS nhằm đạt được mục đích dạy học. 1.1.3.2. Đặc trưng của PPDHTC a) Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của HS Trong phương pháp tích cực, đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ 9 chức và chỉ đạo, thông qua đó tự học khám phá những điều mà mình chưa rõ chứ không thụ động tiếp thu những điều đã được GV xếp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức, phương pháp tìm ra kiến thức kỹ năng đó, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì GV không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn HS hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp cho HS biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. b) Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học và còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện tại đang biến đổi nhanh, với sự bùng nổ thông tin, khoa học kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và lên bậc học cao hơn càng phải chú trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học được phương pháp kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ được nâng lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của GV. c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của HS không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ 10 đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi HS. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mỗi tri thức, kỹ năng thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi HS và của cả lớp chứ không phải chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy giáo. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường, được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ, từ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thật sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Tránh được hiện tượng ỷ lại, phát huy năng lực của mỗi cá nhân, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. d) Kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS Việc đánh giá học không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của trò mà còn tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây, GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong phương pháp tích cực, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá lẫn nhau (cần cho sự thành đạt trong cuộc sống). PPDH tích cực nhấn mạnh đến vai trò tích cực, chủ động của HS. PPDH theo dự án là một trong các PPDH tích cực đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn dạy và học hiện nay. 1.2. Phương pháp dạy học theo dự án 1.2.1. Khái niệm dạy học theo dự án 1.2.1.1. Khái niệm “dự án” và “dự án học tập” Dự án Thuật ngữ “Dự án” trong tiếng Việt nghĩa là “một quá trình gồm các công tác, nhiệm vụ có liên quan với nhau, được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện ràng buộc về thời gian, nguồn lực và ngân sách”. 11 Dự án học tập Ban đầu khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội như: Trong sản xuất, doanh nghiệp, trong nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội... Sau đó, khái niệm dự án đã chuyển từ lĩnh vực kinh tế, xã hội sang lĩnh vực giáo dục và đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một hình thức dạy học của mỗi GV. Và vì vậy, khi vận dụng khái niệm “dự án” vào môi trường giáo dục thì cần phải có sự bổ sung vào định nghĩa để mang tính đặc thù. Trong học tập, chiếm lĩnh tri thức môn học là mục tiêu hàng đầu nên tất cả các công tác, nhiệm vụ phải liên hệ mật thiết với nội dung môn học và các mục tiêu đề ra là các mục tiêu về chiếm lĩnh tri thức môn học cùng các kĩ năng, kĩ xảo khác. Chính vì vậy, theo tôi, DAHT là một dự án trong đó người học phải thực hiện các nhiệm vụ học tập phức hợp để chiếm lĩnh nội dung kiến thức môn học. 1.2.1.2. Quan niệm về dạy học theo dự án Như đã đề cập trong phần Mở đầu, DHTDA không phải là một phương pháp dạy học mới, tư tưởng của phương pháp đã có từ rất lâu, và ngày nay phương pháp này ngày càng phổ biến hơn vì nhu cầu của thời đại. Phương pháp này đã được vận dụng ở rất nhiều nước và có rất nhiều các tổ chức uy tín đã thực hiện các dự án để đưa phương pháp dạy học này tiếp cận nhiều hơn nữa đến nhiều nước khác nhau trên thế giới. Cuối những năm 1990, Học Viện Giáo Dục Buck (BIE) đã tiến hành áp dụng phương pháp DHTDA một cách mạnh mẽ, như một trong những nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng trong trường học. Theo BIE: “DHTDA là phương pháp dạy học có hướng dẫn đòi hỏi học viên thực hiện những nhiệm vụ phức hợp dựa trên các câu hỏi hay vấn đề mang tính thử thách đòi hỏi học viên phải sử dụng nhiều kĩ năng như kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng đưa ra quyết định, kĩ năng làm việc nhóm… dưới sự hỗ trợ của giáo viên chứ không phải dưới sự định hướng của giáo viên.” Đến năm 1996, trong bản báo cáo của Uỷ ban Quốc tế về Giáo Dục trong Thế kỉ 21 gửi tới UNESCO với tiêu đề Learning: the Treasure Within, đã nhấn 12 mạnh 4 trụ cột của giáo dục là: learning to know, learning to do, learning to live together and learning to be (học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tồn tại). Bản báo cáo đã giải thích “Học để làm” tức là đào tạo nghề nghiệp, tức là việc học cần phải trang bị cho người học các kỹ năng cần thiết, các kỹ năng của thế kỉ 21, để làm công việc trong tương lai. Và vào năm 2004, Tập đoàn Intel đã mang đến Việt Nam và trước đó là rất nhiều nước trên thế giới một chương trình đặc biệt nhằm mục đích cải cách phương pháp dạy và học tại trường phổ thông qua chương trình ITP (Intel Teach Program), với mục tiêu là tích hợp ICT (Informatics and Communication Techology) để đổi mới PPDH. Một trong các phương pháp được Intel tập trung sử dụng để đạt được mục đích của mình đó chính là phương pháp DHTDA. Intel cho rằng: “Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Chương trình dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế”. Cùng có tinh thần như Intel, tài liệu bồi dưỡng của chương trình “Đưa kỹ năng CNTT vào dạy và học” của Microsoft đã nêu lên những nét ưu việt của DHTDA: “Cách học dựa trên dự án là một mô hình học tập khác với các hoạt động học tập truyền thống với những bài giảng ngắn, tách biệt và lấy GV làm trung tâm. Theo đó, các hoạt động học tập được thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật, lấy HS làm trung tâm và hoà nhập với những vấn đề và thực tiễn của thế giới thực tại ”. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, tử khởi điểm là một phương pháp học mới được sáng tạo ra nhằm giúp quá trình học tập thay đổi từ cách học truyền thống sang một phương pháp mới thách thức hơn, lấy học sinh làm trung tâm, đòi hỏi học sinh năng động sáng tạo hơn trong việc chiếm lĩnh các tri thức. Và đến nay với sự vào cuộc của các công ty máy tính và tin học hàng đầu thế giới, 13 DHTDA đã được nâng lên một tầm cao mới với nhiều đòi hỏi hơn từ người học và người dạy để thay đổi hoàn toàn việc học. Và qua các quan điểm chúng tôi nêu ở trên, chúng ta có thể thấy được những thống nhất giữa những quan niệm khác nhau về DHTDA: ● DHTDA là hình thức tổ chức dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trung tâm. ● Trong DHTDA, người học tự nghiên cứu, tự thực hiện một nhiệm vụ học tập do GV đưa ra hoặc GV cùng với người học đưa ra để hình thành các kiến thức và các kỹ năng cần thiết. ● Các hoạt động học tập trong DHTDA được thiết kế cẩn thận, theo sát chương trình học, có phạm vi kiến thức liên môn và quan trọng nhất phải gắn với một vấn đề thực tiễn nghề nghiệp hay cuộc sống xung quanh. ● Phải tạo ra được những giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề. Với những phân tích trên, theo chúng tôi "DHTDA là phương pháp dạy học mà người GV xây dựng ra tình huống có vấn đề từ thực tiễn cuộc sống xung quanh liên quan đến nội dung học tập, từ đó đặt người học vào nhiệm vụ phải tự tìm ra giải pháp khả thi để giải quyết tình huống với sự hỗ trợ của GV. Thông qua quá trình tìm giải pháp người học sẽ chiếm lĩnh được các nội dung học tập cùng các kĩ năng TK21". Từ định nghĩa trên, theo chúng tôi trong DHTDA người học phải thực hiện nhiệm vụ học tập phức hợp có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, kết hợp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi đó, người học - người học, người học - xã hội… và tương tác giữa các thành tố trong quá trình dạy học. 1.2.2. Bản chất của PPDH theo dự án Phương pháp dạy học theo dự án được tổ chức dựa trên một vấn đề hoặc một dự án có nội dung liên quan đến môn học. Trong dự án, GV chỉ giữ vai trò là người chỉ dẫn, thúc đẩy và cộng tác trong quá trình tìm tòi, sáng tạo của HS còn HS sẽ được giao vai trò cụ thể - như một chuyên gia về vấn đề mà GV đưa ra. Các em cộng tác, độc lập tư duy và tự xây dựng kiến thức của bản thân chứ không phải là GV. Kết thúc dự án phải có một sản phẩm cụ thể. 14 Bản chất của dạy học theo dự án là người học lĩnh hội kiến thức và kỹ năng thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống (bài tập dự án) gắn với thực tiễn. Thông qua việc thực hiện các dự án, HS sẽ phát triển được các kỹ năng như: kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng sống, kỹ năng tư duy, kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng tự quản lý. 1.2.3. Đặc điểm của phương pháp dạy học theo dự án Nhu cầu đổi mới PPDH ngày càng cao theo hướng lấy người học làm trung tâm, gắn liền kĩ năng học tập với kĩ năng nghề nghiệp. Giữa rất nhiều phương pháp thì DHTDA nổi bật lên với những đặc điểm sau: - Định hướng thực tiễn và nghề nghiệp: Chủ đề của các DAHT xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của các DAHT cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học. Các DAHT góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống và xã hội. - Định hướng hứng thú người học: Người học khi tham gia được phép lựa chọn đề tài, những nội dung học tập giúp người học giải quyết được vấn đề. Từ đó người học sẽ thấy hứng thú hơn với việc học. Tuy nhiên, việc phát triển các hứng thú của người học trong quá trình thực hiện dự án là điều hết sức quan trọng. - Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện DAHT có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn và thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng những hiểu biết về lý thuyết cũng như rèn luyện những kỹ năng hành động và kinh nghiệm thực tiễn cho người học. - Tính tự lực cao của người học: Trong DHTDA, người học cần tự lực và tham gia tích cực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn và trợ giúp người học. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với năng lực, khả năng của người học và mức độ khó khăn của nhiệm vụ học tập. 15 - Cộng tác làm việc: Các DAHT thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHTDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa người học, với GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong DAHT. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. - Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện các DAHT, các sản phẩm học tập của các nhóm được tạo ra. Sản phẩm này không chỉ giới hạn trong phạm vi là những bài thu hoạch thiên về lý thuyết, mà trong đa số trường hợp, các DAHT tạo ra những sản phẩm của hoạt động thực tiễn và thực hành. Những sản phẩm của các DAHT này có thể được sử dụng, công bố, giới thiệu... - Có khả năng tích hợp cao: Trong DHTDA có thể thực hiện phối hợp với nhiều PPDH, nhiều hình thức dạy học khác nhau như: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, Dạy học hợp tác, Dạy học trong môi trường CNTT... Nội dung của các DAHT có sự kết hợp tri thức của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập khác nhau... - Không bị ràng buộc chặt chẽ về không gian, thời gian: DHTDA có thể được tiến hành trong phạm vi một nhóm, một lớp học những cũng có thể vượt ra khỏi phạm vi một lớp học. Thời gian thực hiện một DAHT có thể là một ngày, nhiều ngày hay hàng tuần... tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ của từng DAHT. Cùng một nội dung nhưng mỗi thành viên trong nhóm có thể tiếp cận bằng những cách thức khác nhau sao cho phù hợp với năng lực, sở trường, điều kiện thực tế của từng thành viên trong nhóm. - Tạo ra môi trường học tập tương tác: DAHT sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho các hoạt động tương tác đa chiều: Tương tác giữa GV - người học, người học - người học, người học - xã hội… và tương tác giữa các thành tố trong quá trình dạy học 1.2.4. Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học theo dự án 1.2.4.1. Vai trò của học sinh trong dạy học theo dự án Hoạt động dự án cũng làm thay đổi vai trò của học sinh. Học sinh có thể không quen thể hiện vai trò năng động trong lớp học. Trong các dự án, học sinh 16 được đưa ra nhiều quyết định, được cộng tác làm việc, được đưa ra sáng kiến, được trình bày trước đám đông, và trong nhiều trường hợp, học sinh được thiết lập kiến thức riêng cho bản thân. Mặc dù lúc đầu có thể là thách thức lớn, nhưng hầu hết học sinh đều nhận thấy công việc dự án này rất có ý nghĩa, có liên quan thực tế đến cuộc sống và rất hấp dẫn. Vì vậy, nhìn chung, họ rất tích cực, thực hiện tốt các dự án và ghi nhớ được kiến thức mới. Tham gia DAHT, HS sẽ phải tự làm các công việc sau: ● Tham gia lựa chọn đề tài, nội dung học tập sao cho phù hợp với khả năng và hứng thú của từng cá nhân qua đó khuyến khích được tính tích cực, tự lực, tính trách nhiệm và sự sáng tạo của HS. ● HS làm việc với các thành viên trong nhóm trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết những nội dung học tập phức hợp. ● HS hệ thống kiến thức, thiết lập mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức của môn học và được tạo điều kiện học tập trong môi trường hợp tác. ● HS phải tạo ra các sản phẩm học tập đáp ứng các yêu cầu đề ra, đảm bảo tính thẩm mỹ, khoa học, kinh tế... do đó khơi gợi sự tò mò và óc sáng tạo của người học qua việc cho phép chủ động, tự do tưởng tượng trong quá trình học tập... 1.2.4.2. Vai trò của giáo viên trong dạy học theo dự án Các hoạt động dạy học trong lớp học đòi hỏi vai trò của GV phải được thay đổi. Những GV đã quen với cách độc giảng, lệ thuộc vào giáo trình hoặc các tài liệu dạy học cho sẵn, có thể gặp khó khăn khi chuyển sang một lớp học lấy HS là trung tâm yêu cầu từ bỏ vai trò điều khiển, cho phép HS thực hiện cùng lúc nhiều hoạt động theo các định hướng khác nhau. Nếu lập kế hoạch dự án đòi hỏi GV phải dành nhiều thời gian chuẩn bị trước đó, thì khi thực hiện dự án, GV sẽ đỡ mất công để chuẩn bị những kiến thức cơ bản hàng ngày, thực hiện vai trò người hướng dẫn, người trợ giúp trong suốt các hoạt động dự án. GV sẽ cảm thấy thú vị và tìm ra cách kết nối giữa phong cách học cá nhân và sự sáng tạo. Trong DHTDA, GV phải lường trước những kiến thức người học cần có để thực hiện dự án, từ đó tổ chức các lớp học bổ túc kiến thức xuyên suốt quá trình làm dự án. 17 Khi bắt đầu dự án, các nguồn tài liệu tham khảo ban đầu là rất quan trọng để giúp người học có thêm kiến thức và định hướng các công việc cần làm vì vậy giáo viên cần cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo đa dạng cho người học: websites; giáo trình; những tư vấn viên cho dự án; các phần mềm tin học... Dành thời lượng thích hợp trên lớp để người học thực hiện các công việc cần thiết như: thảo luận nhóm; viết đề cương dự án; viết - chỉnh sửa - kiểm tra các bản báo cáo. GV cần đưa ra các phản hồi sớm nhất liên quan đến dự án để người học kịp điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Quan trọng hơn nữa, người GV phải truyền cảm hứng được cho người học. Với đặc điểm DHTDA, đặc biệt với những dự án kéo dài, người học thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố và khi thực hiện dự án sẽ có những thời điểm người học bị bế tắc và chán nản dễ dẫn đến việc từ bỏ. Khi đó, người GV bên cạnh việc hướng dẫn cho học sinh, truyền đạt kiến thức giúp học sinh giải quyết được vấn đề cần phải tạo ra động lực cho người học, giúp họ tái tạo hứng thú và thực hiện tiếp dự án. 1.2.5. Ưu điểm và hạn chế của dạy học theo dự án 1.2.5.1. Ưu điểm DHTDA mang lại nhiều lợi ích cho GV và người học. Ngày càng nhiều các nhà nghiên cứu giáo dục ủng hộ việc vận dụng DHTDA trong trường học để khuyến khích người học, thúc đẩy các kỹ năng học tập hợp tác và nâng cao hiệu quả việc học tập cho người học. - Đối với GV: Góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác với đồng nghiệp trong quá trình dạy học; tạo cơ hội xây dựng các mối quan hệ với người học; đưa ra các mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các đối tượng người học đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn trong dạy học. - Đối với người học: Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập; lượng kiến thức thu được tương đương hoặc nhiều hơn so với những mô hình dạy học khác do khi được tham gia vào DAHT người học sẽ trách nhiệm hơn trong học tập so với các hoạt động trong mô hình dạy học truyền thống; có cơ hội phát triển những kỹ năng như: Giải quyết vấn đề, hợp tác, giao 18 tiếp... Người học cũng học được các kỹ năng nghiên cứu và các kỹ năng quan sát mà họ khó có được từ các bài giảng theo những PPDH, những hình thức dạy học truyền thống. Thống kê chỉ ra rằng các học sinh thường gặp khó khăn để vận dụng kiến thức toán học vào các tình huống thực tế trong cuộc sống. DHTDA sẽ giúp học sinh tìm hiểu các ứng dụng của Toán học trong đời sống thực và giúp học sinh có cơ hội vận dụng các kĩ năng Toán học vào các tình huống đa dạng của đời sống thực tế và từ đó giúp học sinh thấy được vai trò của việc học toán và tạo động lực tốt hơn cho việc học Toán. Bên cạnh việc thấy được tầm quan trọng của việc học Toán, khi người học học cách tiến hành các dự án thì họ đồng thời cũng học cách xử lý các nguồn dữ liệu, học cách hợp tác với các cá nhân khác…Từ đó người học sẽ tự bổ sung cho mình các kĩ năng quí giá như kỹ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng lập luận…là những kĩ năng quan trọng trong các công sở ngày nay. Người học tham gia cách học theo dự án có khả năng lĩnh hội được kiến thức và phát triển được các kỹ năng cao hơn; khuyến khích người học tự giải quyết vấn đề một cách đầy đủ, tự lực và giúp cho khả năng giao tiếp của người học được phát triển. - Đối với dạy học: Góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, giúp việc học tập trong nhà trường giống hơn với việc học tập trong thế giới thật, cùng một nội dung những người học khác nhau sẽ học theo những cách khác nhau. 1.2.5.2. Nhược điểm - Về nội dung chương trình: Không phải nội dung nào trong chương trình cũng có thể tổ chức DHTDA được hiệu quả. Vì vậy, GV cần phải nghiên cứu kỹ mục đích, yêu cầu và nội dung chương trình của môn học để lựa chọn, xây dựng các nội dung kiến thức để có thể tổ chức DHTDA được hiệu quả. - Về GV: GV cần nhiều thời gian để chuẩn bị các vấn đề liên quan đến DAHT; GV đã quen với các PPDH, các hình thức tổ chức dạy học truyền thống nên ngại không muốn thay đổi trong quá trình dạy học của mình. Đặc biệt với phương pháp DHTDA, các kiến thức đòi hỏi phải có sự liên hệ với 19 thực tiễn và ứng dụng được CNTT, điều này thực sự sẽ gây khó khăn cho các giáo viên lớn tuổi. - Về người học: Người học cần nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành DAHT; người học đã quen với vai trò thụ động trong những PPDH, những hình thức tổ chức dạy học truyền thống nên những thói quen cũ sẽ là những cản trở chính khi vận dụng DHTDA. 1.2.6. Quy trình dạy học môn Toán lớp 4 bằng phương pháp dạy học theo dự án Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của PPDH theo dự án cũng như đặc điểm của môn Toán lớp 4, tác giả xây dựng quy trình dạy học môn Toán học 4 bằng PPDH theo dự án gồm các bước: (1) Xác định vấn đề để xây dựng thành dự án, (2) Lập dự án, (3) Giao nhiệm vụ, (4) Thực hiện dự án, (5) Trình bày sản phẩm, (6) Tổng kết, đánh giá dự án. Dưới đây tác giả xin trình bày cụ thể các bước như sau: Bước 1: Xác định vấn đề để xây dựng thành dự án - GV và HS cùng nhau đề xuất, sáng kiến chủ đề của dự án. Cùng nhau đưa ra các ý tưởng về dự án thông qua việc sâu chuỗi, tổng hợp các kiến thức của môn học và các môn học liên quan để tổ chức thành một dự án phù hợp với mục tiêu của môn học, bài học. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề hoặc một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài, GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thể hóa. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến và việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía HS. - GV lựa chọn những hoạt động phù hợp với nội dung bài học và đặc điểm tâm sinh lí HS Bước 2: Lập dự án a) Xác định mục tiêu của dự án: - GV phải xác định rõ HS cần đạt được những kiến thức, kĩ năng, thái độ nào qua dự án này, đặc biệt là kĩ năng tư duy bậc cao. 20 b) Xây dựng bộ câu hỏi định hướng: - Câu hỏi khái quát: Giới thiệu khái quát, đầy đủ những ý tưởng xuyên suốt các môn học. Câu hỏi này thường là những câu hỏi khái quát về thực tế đòi hỏi HS phải phân tích, tư duy, áp dụng việc giải thích những kinh nghiệm của mình. - Câu hỏi bài học: Lôi cuốn HS vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể đối với từng chủ đề, môn học hoặc bài học. Câu hỏi loại này kích thích HS tự kiến giải các sự kiện. c) Thiết kế các hoạt động - GV cần xác định các tình huống, tạo nhiều câu hỏi phong phú cho HS nhằm đạt mục đích đề ra. - GV khuyến khích HS tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, thực hiện các nhiệm vụ hoạt động để trả lời các câu hỏi, liên hệ được với cuộc sống bên ngoài lớp học và giải quyết một số vấn đề của cuộc sống thực tế. - Ngoài ra GV cần xác định thời gian hoàn thành công việc và các sản phẩm. - Tìm kiếm thêm các tài liệu bổ sung có liên quan, những thông tin cần thiết hỗ trợ cho quá trình dạy của bản thân và cho quá trình học của HS bao gồm: tài liệu viết, in ấn… d) Lập kế hoạch đánh giá - HS hướng đến những mục tiêu học tập như thế nào? - HS sử dụng những kĩ năng tư duy nào? - HS tích hợp và sử dụng thông tin mới hiệu quả đến đâu? - Tính hiệu quả của các hoạt động của HS. Bước 3: Giao nhiệm vụ - Giới thiệu tên dự án và nội dung tóm tắt của dự án. Giúp HS nắm được: (1) Các em cần làm gì?; (2) Yêu cầu cụ thể về sản phẩm sau khi thực hiện dự án là gì? - Giới thiệu tài liệu tham khảo, cung cấp thêm các phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện dự án.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng