1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập
toàn cầu, phát triển kinh tế của đất nước, giáo dục Việt Nam đang đứng trước bài
toán phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu giáo dục đến nội dung, phương
pháp, phương tiện dạy học. Nghị quyết 29 – NQ/ TW Hội nghị lần thứ VIII Ban
chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo
đã khẳng định: “Phải chuyển đổi căn bản toàn bộ nền giáo dục từ chủ yếu nhằm
trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, biết vận
dụng tri thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; chuyển nền giáo dục nặng về
chữ nghĩa, ứng thí sang một nền giáo dục thực học, thực nghiệp”. Trọng tâm
của việc đổi mới giáo dục nhằm hướng đích mục tiêu giáo dục phổ thông: “Giúp
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo” (Điều
27, mục 2, chương II, Luật Giáo dục 2005). Để thực hiện mục tiêu này, thì:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi
dưỡng năng lực tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”
(Điều 28, mục 2, chương II, Luật Giáo dục 2005). Như vậy, song song với việc
đổi mới về mục tiêu, nội dung thì hiện nay giáo dục nước ta đang thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hoạt động người học.
Trong thế kỉ XXI, Hội đồng Quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI được
UNESCO thành lập đã xác định : “Học để biết – Học để làm – Học để tự khẳng
định mình – Học để chung sống” là 4 trụ cột của giáo dục. Như vậy, giáo dục có
ý nghĩa rất quan trọng trong sự thành công của mỗi cá nhân, góp phần tạo nên
sức mạnh tổng hợp cho toàn xã hội. Mục tiêu giáo dục của thế giới cho thấy rõ
giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn phải hình thành cho người học
những kĩ năng, thái độ để họ có thể sống và làm việc trong xã hội luôn thay đổi.
2
Giáo dục tiểu học thuộc giai đoạn Giáo dục cơ bản. Mục tiêu của giáo dục
Tiểu học là “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” (Luật Giáo dục 2005, Điều 27, mục 2,
chương II). Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi giáo dục tiểu học hướng trọng tâm là
hình thành và phát triển các phẩm chất, kỹ năng, năng lực học sinh, chuẩn bị
tiềm năng, tâm thế để học sinh tự tin học các bậc học tiếp theo hay bước vào
cuộc sống.
Trong lộ trình đổi mới PPDH tại các trường tiểu học hiện nay, một số
PPDH mới đang được đề cập, quan tâm đến nhằm giúp người học hoạt động tự
giác, tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình học tập, trong đó có dạy học
theo dự án. Dạy học theo dự án là một trong những PPDH tích cực. Trong
phương pháp này HS được tiếp thu tri thức thông qua việc cộng tác, học tập độc
lập, tư duy, giải quyết những dự án thuộc một chủ đề học tập dưới vai trò hướng
dẫn, tư vấn, thúc đẩy và cộng tác của GV. Từ đó HS khắc sâu và ghi nhớ kiến
thức tốt hơn. Phương pháp không chỉ giúp học sinh liên hệ được kiến thức học
trên lớp với tình huống thực tế ngoài lớp học, khuyến khích học sinh áp dụng
kiến thức để giải quyết các vấn đề. Bên cạnh đó phương pháp này còn giúp HS
phát triển kĩ năng tự học, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng
ứng dụng thông tin trong học tập. Đồng thời đem lại những giờ học nhẹ nhàng,
vui vẻ, lý thú mà vẫn đạt hiệu quả cao.
Lớp 4 là lớp học gần cuối cấp tiểu học, các kiến thức môn Toán trong
chương trình có tính chất tổng hợp cao. Kiến thức môn Toán giúp HS lớp 4 hoàn
thiện kĩ năng tính toán, áp dụng lí thuyết vào đời sống hàng ngày. Việc khai thác
các nội dung có tính chất thực tiễn trong môn Toán có điều kiện thực hiện nhiều
hơn so với các lớp dưới do kiến thức đã được cung cấp đảm bảo tính chuyên sâu,
phổ quát hơn. Hơn nữa, học sinh lớp 4 đã có những trưởng thành hơn trong tâm
lí, nhận thức, khả năng thực hiện nhiệm vụ học tập, phát huy tiềm năng về trí
tuệ, tính chủ động. Do đó, việc vận dụng tư tưởng của PPDH theo dự án vào dạy
học môn Toán lớp 4 có tính khả thi cao.
3
Qua khảo sát thực trạng vận dụng dạy học theo dự án tại một số trường
trên địa bàn thị xã Phú Thọ, chúng tôi thấy: Qua các đợt tập huấn về đổi mới
PPDH hay qua các kênh thông tin thì hầu hết giáo viên tiểu học có hiểu biết về
dạy học theo dự án. Tuy nhiên, thực tiễn số GV áp dụng PPDH này trong dạy
học các môn học, đặc biệt là môn Toán ở tiểu học còn chưa nhiều. Vì vậy hiệu
quả của PPDH này nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh chưa được
khai thác tối đa.
Là sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học và sẽ là người giáo viên Tiểu học
trong tương lai, việc tiếp cận và bước đầu vận dụng PPDH theo dự án vào môn
toán Tiểu học nói chung, tập dượt việc thiết kế kế hoạch dạy học theo dự án theo
quy trình trong môn toán lớp 4 nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức về vấn đề đổi mới PPDH, phát triển các kĩ năng nghề nghiệp cho
bản thân.
Vì những lý do trên chúng tôi chọn “Xây dựng và sử dụng các dự án học
tập trong dạy học môn Toán lớp 4” làm đề tài nghiên cứu.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lí luận của PPDH theo dự án.
- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng một số dự án học tập trong
môn Toán lớp 4.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Góp phần làm phong phú hóa việc đổi mới phương pháp dạy học trong
môn Toán ở tiểu học thông qua các dự án học tập môn Toán lớp 4.
- Các dự án học tập được xây dựng sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho
sinh viên ngành GDTH và giáo viên TH quan tâm đến vấn đề sử dụng PPDH
theo dự án trong dạy học môn toán cho HS lớp 4.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng một số dự án học tập trong môn Toán lớp 4 và hướng dẫn sử
dụng các dự án trong dạy học góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của HS
và nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán lớp 4.
4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học
theo dự án.
- Nghiên cứu nội dung chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán
ở tiểu học, cách thức xây dựng các dự án học tập trong môn Toán ở tiểu học.
- Xây dựng một số dự án học tập với môn Toán lớp 4.
- Hướng dẫn cách sử dụng các dự án học tập.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm bước đầu đánh giá mức độ hiệu quả của
các dự án học tập đã xây dựng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc vận dụng dạy học theo dự án trong một số nội dung môn
Toán lớp 4.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc tổ chức dạy học
theo dự án cho một số chủ đề ở môn Toán lớp 4.
Phạm vi về địa bàn nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu việc tổ chức dạy học theo dự án của một số
trường tiểu học trên địa bàn thị xã Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài liệu,
các đề tài nghiên cứu, các giáo trình tham khảo liên quan tới đề tài: Định hướng
đổi mới PPDH ở trường tiểu học nói riêng; các PPDH theo xu hướng DH không
truyền thống; cơ sở lý luận của phương pháp dạy học theo dự án. Nghiên cứu
chương trình, SGK môn Toán lớp 4 về mục tiêu, nội dung.
6.2. Phương pháp điều tra, quan sát
Dự giờ, điều tra, phỏng vấn, trao đổi với các GV giỏi, có kinh nghiệm dạy
học môn Toán ở trường tiểu học về vấn đề dạy học theo dự án ở tiểu học, lấy ý
kiến đóng góp qua phiếu thăm dò.
5
6.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến giảng viên hướng dẫn, các giảng viên giảng dạy môn Toán ở
trường Đại học Hùng Vương và một số GV dạy giỏi môn Toán ở trường Tiểu
học về vấn đề nghiên cứu và sản phẩm khoa học của đề tài.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức thực nghiệm sư phạm các kế hoạch bài học đã thiết kế trong nội
dung môn Toán lớp 4 nhằm kiểm nghiệm tính khả khi của dự án học tập này.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Định hướng đổi mới dạy học tiểu học hiện nay
1.1.1. Định hướng đổi mới dạy học ở tiểu học
Từ đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những hạn chế của
các phương pháp dạy học truyền thống (dạy học lấy GV làm trung tâm) và tập
trung tìm tòi cải tiến, đổi mới PPDH nhằm khắc phục các hạn chế đó. Nghiên
cứu cải tiến, đổi mới PPDH diễn ra theo hai hướng chính: (1) hướng vào đổi mới
nội dung dạy học, (2) hướng vào đổi mới phương pháp dạy học, trong đó yếu tố
GV có thể chủ động điều chỉnh là phương pháp dạy học.
Vấn đề đổi mới dạy học ở tiểu học không chỉ dược cụ thể hóa trong
chương trình Tiểu học mới (9/11/2001) mà còn được đề cập trong nhiều tài liệu
khác như: tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GVTH (chu kỳ 1997 - 2000), tài
liệu bồi dưỡng GVTH (dự án phát triển GVTH - Bộ GD&ĐT),… Quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo đổi mới chương trình và PPDH được thể hiện trong nhiều văn
kiện, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Sự cần thiết đổi mới giáo dục đã được
khẳng định trong Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông và Chỉ thị 14/2001/CT-TTG ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội.
Định hướng chung của đổi mới giáo dục đào tạo là chú trọng việc hình
thành các năng lực của HS. Trọng tâm của chính sách đổi mới giáo dục ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay là đổi mới cách thực hiện các PPDH. Nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) đã đề ra nhiệm vụ đổi mới PPDH ở tất cả
các cấp học, bậc học và khẳng định cần thiết phải đổi mới PPDH. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII (1996) cũng nhận định PPDH chưa phát huy tính chủ
động, sáng tạo của người học. Định hướng PPDH đã được quy định rõ trong
Luật Giáo dục (2005): “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học…” [Điều 24.2, Luật Giáo dục].
7
Ở tiểu học, vấn đề đổi mới PPDH được miêu tả bằng thuật ngữ “phương
pháp dạy và học tích cực”, thuật ngữ này tương tự như “dạy học lấy người học
làm trung tâm”, nó nhấn mạnh đến sự tham gia tích cực của HS trong giờ học.
Điều này đã được đề cập rõ trong Chương trình tiểu học mới như sau: “Phương
pháp giáo dục tiểu học là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo
của học sinh”.
Như vậy, định hướng đổi mới PPDH đã được khẳng định rõ trong các văn
bản, nghị quyết và các luật của nhà nước. Việc đổi mới PPDH ở tiểu học về cơ
bản là nhằm giúp hướng tới việc học tập chủ động và dần loại bỏ thói quen học
tập thụ động.
1.1.2. Dạy học theo quan điểm lấy người học làm trung tâm
Dạy học lấy người học làm trung tâm cũng được miêu tả bằng các thuật
ngữ dạy học tích cực hay dạy học hiệu quả (đây là các cách diễn đạt khác nhau
của cùng một ý). Các thuật ngữ này đều có ý nghĩa nhấn mạnh vai trò chủ thể
hoạt động của HS, thể hiện ở tính chủ động, tự giác, tích cực, sáng tạo của các
em trong quá trình học tập.
Quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm có nhiều khái niệm quan
trọng. Những khái niệm đặc thù liên quan đến cách nhìn nhận về kiến thức, về
vai trò của GV, HS và phong cách học tập của HS làm cho giáo dục lấy HS làm
trung tâm hoàn toàn khác biệt với giáo dục truyền thống. Dạy học lấy HS làm
trung tâm nhấn mạnh các vấn đề: (1) hứng thú của HS: động cơ thúc đẩy HS học
tập, háo hức tiếp thu tri thức mới, (2) vốn kinh nghiệm trong cuộc sống hàng
ngày của HS: tạo cơ sở để HS lĩnh hội tri thức mới và (3) sự toàn diện trong
nhận thức của các em, nghĩa là HS có được cái nhìn toàn diện về mọi khía cạnh
của một vấn đề. Dạy học lấy HS làm trung tâm không chỉ là một phương pháp
giáo dục mà còn là một triết lý giáo dục hay định hướng để đạt giáo dục hiệu
quả. Dạy học lấy HS làm trung tâm có những khác biệt cơ bản so với dạy học
truyền thống cả về mục đích, nội dung, phương pháp dạy học, người dạy, người
học… Đặc trưng của nó là nhấn mạnh vai trò chủ động, tích cực của người học,
chú ý đến sự hứng thú và vốn kinh nghiệm của HS, đến việc HS học thế nào hơn
8
là việc GV dạy thế nào. Dạy học lấy HS làm trung tâm đòi hỏi người GV phải tư
duy theo cách nghĩ mới và tự trang bị những kỹ năng mới. Đặc biệt, GV cần hiểu
đúng quan niệm dạy học lấy người học làm trung tâm và không ngừng đổi mới.
Dạy học tích cực tăng cường vận dụng các PPDH tích cực nâng cao hiệu
quả dạy học để đáp ứng yêu cầu của đổi mới dạy học hiện nay. Thực hiện việc
dạy học tích cực không có nghĩa là từ bỏ các PPDH truyền thống. Việc sử dụng
các PPDH nói chung còn phụ thuộc vào đặc điểm bài học và đối tượng HS. Với
những tiền đề, định lí được thừa nhận một cách mặc định hay các khái niệm cơ
bản, ban đầu cần cung cấp cho người học thì bắt buộc phải sử dụng các PPDH
truyền thống. Để dạy và học đạt hiệu quả cao thì cần sử dụng và phối hợp các
PPDH (cả truyền thống và tích cực) một cách hợp lí, linh hoạt.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực
1.1.3.1. Khái niệm
Phương pháp dạy học:
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa
là con đường để đạt được mục đích. Theo đó, PPDH là con đường để đạt được
mục đích dạy học. Hiểu theo nghĩa rộng, PPDH là những hình thức và cách thức
hoạt động của GV và HS, thông qua đó và bằng cách đó GV và HS lĩnh hội hiện
thực tự nhiên, xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể (Meyer,
H.1987). Theo nghĩa hẹp, PPDH (cụ thể) là những hình thức và cách thức hoạt
động của GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục
đích dạy học. PPDH cụ thể quy định những mô hình hành động của GV và HS,
được thể hiện trong hình thức và tiến trình phương pháp (trình tự xác định
gồm các bước, các hoạt động dạy học, quy định thời gian và lôgic hành động).
Tóm lại, PPDH là cách thức hành động của GV và HS nhằm đạt được mục
đích dạy học.
1.1.3.2. Đặc trưng của PPDHTC
a) Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của HS
Trong phương pháp tích cực, đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là
chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ
9
chức và chỉ đạo, thông qua đó tự học khám phá những điều mà mình chưa rõ chứ
không thụ động tiếp thu những điều đã được GV xếp đặt. Được đặt vào những
tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí
nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được
kiến thức, phương pháp tìm ra kiến thức kỹ năng đó, được bộc lộ và phát huy
tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì GV không chỉ đơn giản truyền đạt tri
thức mà còn hướng dẫn HS hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp cho HS
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
b) Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học và còn là một mục tiêu
dạy học. Trong xã hội hiện tại đang biến đổi nhanh, với sự bùng nổ thông tin,
khoa học kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào
đầu óc trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ
phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và lên bậc học cao hơn càng phải chú
trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học được phương pháp kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi người, kết quả học tập
sẽ được nâng lên gấp bội.
Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình
dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động,
đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà
mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của GV.
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của HS không thể đồng
đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân
hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được
thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này
càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ
10
đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
HS. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mỗi tri thức, kỹ năng thái độ đều được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao
tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh
nghiệm của mỗi HS và của cả lớp chứ không phải chỉ dựa trên vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc trường, được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
trong nhóm nhỏ, từ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập,
nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thật sự nhu cầu phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Tránh được hiện tượng ỷ
lại, phát huy năng lực của mỗi cá nhân, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ.
d) Kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS
Việc đánh giá học không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều
chỉnh hoạt động của trò mà còn tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh
hoạt động dạy của thầy. Trước đây, GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong
phương pháp tích cực, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh
giá lẫn nhau (cần cho sự thành đạt trong cuộc sống). PPDH tích cực nhấn mạnh
đến vai trò tích cực, chủ động của HS. PPDH theo dự án là một trong các PPDH
tích cực đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn dạy và học hiện nay.
1.2. Phương pháp dạy học theo dự án
1.2.1. Khái niệm dạy học theo dự án
1.2.1.1. Khái niệm “dự án” và “dự án học tập”
Dự án
Thuật ngữ “Dự án” trong tiếng Việt nghĩa là “một quá trình gồm các công
tác, nhiệm vụ có liên quan với nhau, được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã
đề ra trong điều kiện ràng buộc về thời gian, nguồn lực và ngân sách”.
11
Dự án học tập
Ban đầu khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh
vực kinh tế - xã hội như: Trong sản xuất, doanh nghiệp, trong nghiên cứu khoa
học cũng như trong quản lý xã hội... Sau đó, khái niệm dự án đã chuyển từ lĩnh
vực kinh tế, xã hội sang lĩnh vực giáo dục và đào tạo không chỉ với ý nghĩa là
các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một hình thức dạy học
của mỗi GV. Và vì vậy, khi vận dụng khái niệm “dự án” vào môi trường giáo
dục thì cần phải có sự bổ sung vào định nghĩa để mang tính đặc thù. Trong học
tập, chiếm lĩnh tri thức môn học là mục tiêu hàng đầu nên tất cả các công tác,
nhiệm vụ phải liên hệ mật thiết với nội dung môn học và các mục tiêu đề ra là
các mục tiêu về chiếm lĩnh tri thức môn học cùng các kĩ năng, kĩ xảo khác.
Chính vì vậy, theo tôi, DAHT là một dự án trong đó người học phải thực hiện
các nhiệm vụ học tập phức hợp để chiếm lĩnh nội dung kiến thức môn học.
1.2.1.2. Quan niệm về dạy học theo dự án
Như đã đề cập trong phần Mở đầu, DHTDA không phải là một phương
pháp dạy học mới, tư tưởng của phương pháp đã có từ rất lâu, và ngày nay
phương pháp này ngày càng phổ biến hơn vì nhu cầu của thời đại. Phương pháp
này đã được vận dụng ở rất nhiều nước và có rất nhiều các tổ chức uy tín đã thực
hiện các dự án để đưa phương pháp dạy học này tiếp cận nhiều hơn nữa đến
nhiều nước khác nhau trên thế giới. Cuối những năm 1990, Học Viện Giáo Dục
Buck (BIE) đã tiến hành áp dụng phương pháp DHTDA một cách mạnh mẽ, như
một trong những nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng trong trường học. Theo BIE:
“DHTDA là phương pháp dạy học có hướng dẫn đòi hỏi học viên thực hiện
những nhiệm vụ phức hợp dựa trên các câu hỏi hay vấn đề mang tính thử thách
đòi hỏi học viên phải sử dụng nhiều kĩ năng như kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ
năng đưa ra quyết định, kĩ năng làm việc nhóm… dưới sự hỗ trợ của giáo viên
chứ không phải dưới sự định hướng của giáo viên.”
Đến năm 1996, trong bản báo cáo của Uỷ ban Quốc tế về Giáo Dục trong
Thế kỉ 21 gửi tới UNESCO với tiêu đề Learning: the Treasure Within, đã nhấn
12
mạnh 4 trụ cột của giáo dục là: learning to know, learning to do, learning to live
together and learning to be (học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và
học để tồn tại). Bản báo cáo đã giải thích “Học để làm” tức là đào tạo nghề
nghiệp, tức là việc học cần phải trang bị cho người học các kỹ năng cần thiết,
các kỹ năng của thế kỉ 21, để làm công việc trong tương lai.
Và vào năm 2004, Tập đoàn Intel đã mang đến Việt Nam và trước đó là
rất nhiều nước trên thế giới một chương trình đặc biệt nhằm mục đích cải cách
phương pháp dạy và học tại trường phổ thông qua chương trình ITP (Intel
Teach Program), với mục tiêu là tích hợp ICT (Informatics and Communication
Techology) để đổi mới PPDH. Một trong các phương pháp được Intel tập trung
sử dụng để đạt được mục đích của mình đó chính là phương pháp DHTDA. Intel
cho rằng: “Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung
tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những
nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến
thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình.
Chương trình dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi định
hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những
bối cảnh thực tế”.
Cùng có tinh thần như Intel, tài liệu bồi dưỡng của chương trình “Đưa kỹ
năng CNTT vào dạy và học” của Microsoft đã nêu lên những nét ưu việt của
DHTDA: “Cách học dựa trên dự án là một mô hình học tập khác với các hoạt
động học tập truyền thống với những bài giảng ngắn, tách biệt và lấy GV làm
trung tâm. Theo đó, các hoạt động học tập được thiết kế một cách cẩn thận,
mang tính lâu dài liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật, lấy HS làm trung tâm
và hoà nhập với những vấn đề và thực tiễn của thế giới thực tại ”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, tử khởi điểm là một phương pháp học
mới được sáng tạo ra nhằm giúp quá trình học tập thay đổi từ cách học truyền
thống sang một phương pháp mới thách thức hơn, lấy học sinh làm trung tâm,
đòi hỏi học sinh năng động sáng tạo hơn trong việc chiếm lĩnh các tri thức. Và
đến nay với sự vào cuộc của các công ty máy tính và tin học hàng đầu thế giới,
13
DHTDA đã được nâng lên một tầm cao mới với nhiều đòi hỏi hơn từ người học
và người dạy để thay đổi hoàn toàn việc học. Và qua các quan điểm chúng tôi
nêu ở trên, chúng ta có thể thấy được những thống nhất giữa những quan niệm
khác nhau về DHTDA:
● DHTDA là hình thức tổ chức dạy học hướng vào người học, lấy người
học làm trung tâm.
● Trong DHTDA, người học tự nghiên cứu, tự thực hiện một nhiệm vụ
học tập do GV đưa ra hoặc GV cùng với người học đưa ra để hình thành các
kiến thức và các kỹ năng cần thiết.
● Các hoạt động học tập trong DHTDA được thiết kế cẩn thận, theo sát
chương trình học, có phạm vi kiến thức liên môn và quan trọng nhất phải gắn với
một vấn đề thực tiễn nghề nghiệp hay cuộc sống xung quanh.
● Phải tạo ra được những giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề.
Với những phân tích trên, theo chúng tôi "DHTDA là phương pháp dạy
học mà người GV xây dựng ra tình huống có vấn đề từ thực tiễn cuộc sống xung
quanh liên quan đến nội dung học tập, từ đó đặt người học vào nhiệm vụ phải tự
tìm ra giải pháp khả thi để giải quyết tình huống với sự hỗ trợ của GV. Thông
qua quá trình tìm giải pháp người học sẽ chiếm lĩnh được các nội dung học tập
cùng các kĩ năng TK21".
Từ định nghĩa trên, theo chúng tôi trong DHTDA người học phải thực
hiện nhiệm vụ học tập phức hợp có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, kết
hợp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Khi đó, người học - người học, người học - xã hội… và tương tác giữa các thành
tố trong quá trình dạy học.
1.2.2. Bản chất của PPDH theo dự án
Phương pháp dạy học theo dự án được tổ chức dựa trên một vấn đề hoặc
một dự án có nội dung liên quan đến môn học. Trong dự án, GV chỉ giữ vai trò
là người chỉ dẫn, thúc đẩy và cộng tác trong quá trình tìm tòi, sáng tạo của HS
còn HS sẽ được giao vai trò cụ thể - như một chuyên gia về vấn đề mà GV đưa
ra. Các em cộng tác, độc lập tư duy và tự xây dựng kiến thức của bản thân chứ
không phải là GV. Kết thúc dự án phải có một sản phẩm cụ thể.
14
Bản chất của dạy học theo dự án là người học lĩnh hội kiến thức và kỹ
năng thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống (bài tập dự án) gắn với
thực tiễn. Thông qua việc thực hiện các dự án, HS sẽ phát triển được các kỹ năng
như: kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng sống, kỹ năng tư duy, kỹ năng ngôn
ngữ, kỹ năng tự quản lý.
1.2.3. Đặc điểm của phương pháp dạy học theo dự án
Nhu cầu đổi mới PPDH ngày càng cao theo hướng lấy người học làm
trung tâm, gắn liền kĩ năng học tập với kĩ năng nghề nghiệp. Giữa rất nhiều
phương pháp thì DHTDA nổi bật lên với những đặc điểm sau:
- Định hướng thực tiễn và nghề nghiệp: Chủ đề của các DAHT xuất phát
từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực
tiễn đời sống. Nhiệm vụ của các DAHT cần chứa đựng những vấn đề phù hợp
với trình độ và khả năng của người học. Các DAHT góp phần gắn việc học tập
trong nhà trường với thực tiễn đời sống và xã hội.
- Định hướng hứng thú người học: Người học khi tham gia được phép
lựa chọn đề tài, những nội dung học tập giúp người học giải quyết được vấn đề.
Từ đó người học sẽ thấy hứng thú hơn với việc học. Tuy nhiên, việc phát triển
các hứng thú của người học trong quá trình thực hiện dự án là điều hết sức
quan trọng.
- Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện DAHT có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn và
thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng những hiểu biết về lý
thuyết cũng như rèn luyện những kỹ năng hành động và kinh nghiệm thực tiễn
cho người học.
- Tính tự lực cao của người học: Trong DHTDA, người học cần tự lực và
tham gia tích cực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi
và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng
vai trò tư vấn, hướng dẫn và trợ giúp người học. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần
phù hợp với năng lực, khả năng của người học và mức độ khó khăn của nhiệm
vụ học tập.
15
- Cộng tác làm việc: Các DAHT thường được thực hiện theo nhóm, trong
đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong
nhóm. DHTDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc
giữa các thành viên tham gia, giữa người học, với GV cũng như với các lực
lượng xã hội khác tham gia trong DAHT. Đặc điểm này còn được gọi là học tập
mang tính xã hội.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện các DAHT, các sản
phẩm học tập của các nhóm được tạo ra. Sản phẩm này không chỉ giới hạn trong
phạm vi là những bài thu hoạch thiên về lý thuyết, mà trong đa số trường hợp,
các DAHT tạo ra những sản phẩm của hoạt động thực tiễn và thực hành. Những
sản phẩm của các DAHT này có thể được sử dụng, công bố, giới thiệu...
- Có khả năng tích hợp cao: Trong DHTDA có thể thực hiện phối hợp với
nhiều PPDH, nhiều hình thức dạy học khác nhau như: Dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề, Dạy học hợp tác, Dạy học trong môi trường CNTT... Nội dung của
các DAHT có sự kết hợp tri thức của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập
khác nhau...
- Không bị ràng buộc chặt chẽ về không gian, thời gian: DHTDA có thể
được tiến hành trong phạm vi một nhóm, một lớp học những cũng có thể vượt ra
khỏi phạm vi một lớp học. Thời gian thực hiện một DAHT có thể là một ngày,
nhiều ngày hay hàng tuần... tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ của từng DAHT.
Cùng một nội dung nhưng mỗi thành viên trong nhóm có thể tiếp cận bằng
những cách thức khác nhau sao cho phù hợp với năng lực, sở trường, điều kiện
thực tế của từng thành viên trong nhóm.
- Tạo ra môi trường học tập tương tác: DAHT sẽ tạo ra một môi trường
thuận lợi cho các hoạt động tương tác đa chiều: Tương tác giữa GV - người học,
người học - người học, người học - xã hội… và tương tác giữa các thành tố trong
quá trình dạy học
1.2.4. Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học theo dự án
1.2.4.1. Vai trò của học sinh trong dạy học theo dự án
Hoạt động dự án cũng làm thay đổi vai trò của học sinh. Học sinh có thể
không quen thể hiện vai trò năng động trong lớp học. Trong các dự án, học sinh
16
được đưa ra nhiều quyết định, được cộng tác làm việc, được đưa ra sáng kiến,
được trình bày trước đám đông, và trong nhiều trường hợp, học sinh được thiết
lập kiến thức riêng cho bản thân. Mặc dù lúc đầu có thể là thách thức lớn, nhưng
hầu hết học sinh đều nhận thấy công việc dự án này rất có ý nghĩa, có liên quan
thực tế đến cuộc sống và rất hấp dẫn. Vì vậy, nhìn chung, họ rất tích cực, thực
hiện tốt các dự án và ghi nhớ được kiến thức mới. Tham gia DAHT, HS sẽ phải
tự làm các công việc sau:
● Tham gia lựa chọn đề tài, nội dung học tập sao cho phù hợp với khả
năng và hứng thú của từng cá nhân qua đó khuyến khích được tính tích cực, tự
lực, tính trách nhiệm và sự sáng tạo của HS.
● HS làm việc với các thành viên trong nhóm trong một khoảng thời gian
nhất định để giải quyết những nội dung học tập phức hợp.
● HS hệ thống kiến thức, thiết lập mối quan hệ giữa các nội dung kiến
thức của môn học và được tạo điều kiện học tập trong môi trường hợp tác.
● HS phải tạo ra các sản phẩm học tập đáp ứng các yêu cầu đề ra, đảm
bảo tính thẩm mỹ, khoa học, kinh tế... do đó khơi gợi sự tò mò và óc sáng tạo
của người học qua việc cho phép chủ động, tự do tưởng tượng trong quá trình
học tập...
1.2.4.2. Vai trò của giáo viên trong dạy học theo dự án
Các hoạt động dạy học trong lớp học đòi hỏi vai trò của GV phải được thay
đổi. Những GV đã quen với cách độc giảng, lệ thuộc vào giáo trình hoặc các tài liệu
dạy học cho sẵn, có thể gặp khó khăn khi chuyển sang một lớp học lấy HS là trung
tâm yêu cầu từ bỏ vai trò điều khiển, cho phép HS thực hiện cùng lúc nhiều hoạt
động theo các định hướng khác nhau. Nếu lập kế hoạch dự án đòi hỏi GV phải dành
nhiều thời gian chuẩn bị trước đó, thì khi thực hiện dự án, GV sẽ đỡ mất công để
chuẩn bị những kiến thức cơ bản hàng ngày, thực hiện vai trò người hướng dẫn,
người trợ giúp trong suốt các hoạt động dự án. GV sẽ cảm thấy thú vị và tìm ra
cách kết nối giữa phong cách học cá nhân và sự sáng tạo.
Trong DHTDA, GV phải lường trước những kiến thức người học cần có
để thực hiện dự án, từ đó tổ chức các lớp học bổ túc kiến thức xuyên suốt quá
trình làm dự án.
17
Khi bắt đầu dự án, các nguồn tài liệu tham khảo ban đầu là rất quan trọng
để giúp người học có thêm kiến thức và định hướng các công việc cần làm vì
vậy giáo viên cần cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo đa dạng cho người học:
websites; giáo trình; những tư vấn viên cho dự án; các phần mềm tin học...
Dành thời lượng thích hợp trên lớp để người học thực hiện các công việc
cần thiết như: thảo luận nhóm; viết đề cương dự án; viết - chỉnh sửa - kiểm tra
các bản báo cáo. GV cần đưa ra các phản hồi sớm nhất liên quan đến dự án để
người học kịp điều chỉnh trong quá trình thực hiện.
Quan trọng hơn nữa, người GV phải truyền cảm hứng được cho người
học. Với đặc điểm DHTDA, đặc biệt với những dự án kéo dài, người học thường
bị chi phối bởi nhiều yếu tố và khi thực hiện dự án sẽ có những thời điểm người
học bị bế tắc và chán nản dễ dẫn đến việc từ bỏ. Khi đó, người GV bên cạnh việc
hướng dẫn cho học sinh, truyền đạt kiến thức giúp học sinh giải quyết được vấn
đề cần phải tạo ra động lực cho người học, giúp họ tái tạo hứng thú và thực hiện
tiếp dự án.
1.2.5. Ưu điểm và hạn chế của dạy học theo dự án
1.2.5.1. Ưu điểm
DHTDA mang lại nhiều lợi ích cho GV và người học. Ngày càng nhiều
các nhà nghiên cứu giáo dục ủng hộ việc vận dụng DHTDA trong trường học để
khuyến khích người học, thúc đẩy các kỹ năng học tập hợp tác và nâng cao hiệu
quả việc học tập cho người học.
- Đối với GV: Góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác với
đồng nghiệp trong quá trình dạy học; tạo cơ hội xây dựng các mối quan hệ với
người học; đưa ra các mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các đối tượng người
học đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn trong dạy học.
- Đối với người học: Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái
độ học tập; lượng kiến thức thu được tương đương hoặc nhiều hơn so với những
mô hình dạy học khác do khi được tham gia vào DAHT người học sẽ trách
nhiệm hơn trong học tập so với các hoạt động trong mô hình dạy học truyền
thống; có cơ hội phát triển những kỹ năng như: Giải quyết vấn đề, hợp tác, giao
18
tiếp... Người học cũng học được các kỹ năng nghiên cứu và các kỹ năng quan sát
mà họ khó có được từ các bài giảng theo những PPDH, những hình thức dạy học
truyền thống.
Thống kê chỉ ra rằng các học sinh thường gặp khó khăn để vận dụng kiến
thức toán học vào các tình huống thực tế trong cuộc sống. DHTDA sẽ giúp học
sinh tìm hiểu các ứng dụng của Toán học trong đời sống thực và giúp học sinh
có cơ hội vận dụng các kĩ năng Toán học vào các tình huống đa dạng của đời
sống thực tế và từ đó giúp học sinh thấy được vai trò của việc học toán và tạo
động lực tốt hơn cho việc học Toán.
Bên cạnh việc thấy được tầm quan trọng của việc học Toán, khi người
học học cách tiến hành các dự án thì họ đồng thời cũng học cách xử lý các nguồn
dữ liệu, học cách hợp tác với các cá nhân khác…Từ đó người học sẽ tự bổ sung
cho mình các kĩ năng quí giá như kỹ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng lập
luận…là những kĩ năng quan trọng trong các công sở ngày nay. Người học tham
gia cách học theo dự án có khả năng lĩnh hội được kiến thức và phát triển được
các kỹ năng cao hơn; khuyến khích người học tự giải quyết vấn đề một cách đầy
đủ, tự lực và giúp cho khả năng giao tiếp của người học được phát triển.
- Đối với dạy học: Góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, giúp việc học tập trong nhà trường giống hơn với
việc học tập trong thế giới thật, cùng một nội dung những người học khác nhau
sẽ học theo những cách khác nhau.
1.2.5.2. Nhược điểm
- Về nội dung chương trình: Không phải nội dung nào trong chương trình
cũng có thể tổ chức DHTDA được hiệu quả. Vì vậy, GV cần phải nghiên cứu kỹ
mục đích, yêu cầu và nội dung chương trình của môn học để lựa chọn, xây dựng
các nội dung kiến thức để có thể tổ chức DHTDA được hiệu quả.
- Về GV: GV cần nhiều thời gian để chuẩn bị các vấn đề liên quan đến
DAHT; GV đã quen với các PPDH, các hình thức tổ chức dạy học truyền
thống nên ngại không muốn thay đổi trong quá trình dạy học của mình. Đặc
biệt với phương pháp DHTDA, các kiến thức đòi hỏi phải có sự liên hệ với
19
thực tiễn và ứng dụng được CNTT, điều này thực sự sẽ gây khó khăn cho các
giáo viên lớn tuổi.
- Về người học: Người học cần nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu và
hoàn thành DAHT; người học đã quen với vai trò thụ động trong những PPDH,
những hình thức tổ chức dạy học truyền thống nên những thói quen cũ sẽ là
những cản trở chính khi vận dụng DHTDA.
1.2.6. Quy trình dạy học môn Toán lớp 4 bằng phương pháp dạy học theo
dự án
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của PPDH theo dự án cũng như
đặc điểm của môn Toán lớp 4, tác giả xây dựng quy trình dạy học môn Toán học
4 bằng PPDH theo dự án gồm các bước: (1) Xác định vấn đề để xây dựng thành
dự án, (2) Lập dự án, (3) Giao nhiệm vụ, (4) Thực hiện dự án, (5) Trình bày sản
phẩm, (6) Tổng kết, đánh giá dự án. Dưới đây tác giả xin trình bày cụ thể các
bước như sau:
Bước 1: Xác định vấn đề để xây dựng thành dự án
- GV và HS cùng nhau đề xuất, sáng kiến chủ đề của dự án. Cùng nhau
đưa ra các ý tưởng về dự án thông qua việc sâu chuỗi, tổng hợp các kiến thức
của môn học và các môn học liên quan để tổ chức thành một dự án phù hợp với
mục tiêu của môn học, bài học. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng
một vấn đề hoặc một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ
với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người
học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài, GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài
để HS lựa chọn và cụ thể hóa. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến và việc xác
định đề tài có thể xuất phát từ phía HS.
- GV lựa chọn những hoạt động phù hợp với nội dung bài học và đặc
điểm tâm sinh lí HS
Bước 2: Lập dự án
a) Xác định mục tiêu của dự án:
- GV phải xác định rõ HS cần đạt được những kiến thức, kĩ năng, thái độ
nào qua dự án này, đặc biệt là kĩ năng tư duy bậc cao.
20
b) Xây dựng bộ câu hỏi định hướng:
- Câu hỏi khái quát: Giới thiệu khái quát, đầy đủ những ý tưởng xuyên
suốt các môn học. Câu hỏi này thường là những câu hỏi khái quát về thực tế
đòi hỏi HS phải phân tích, tư duy, áp dụng việc giải thích những kinh nghiệm
của mình.
- Câu hỏi bài học: Lôi cuốn HS vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể
đối với từng chủ đề, môn học hoặc bài học. Câu hỏi loại này kích thích HS tự
kiến giải các sự kiện.
c) Thiết kế các hoạt động
- GV cần xác định các tình huống, tạo nhiều câu hỏi phong phú cho HS
nhằm đạt mục đích đề ra.
- GV khuyến khích HS tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, thực hiện các
nhiệm vụ hoạt động để trả lời các câu hỏi, liên hệ được với cuộc sống bên ngoài
lớp học và giải quyết một số vấn đề của cuộc sống thực tế.
- Ngoài ra GV cần xác định thời gian hoàn thành công việc và các
sản phẩm.
- Tìm kiếm thêm các tài liệu bổ sung có liên quan, những thông tin cần
thiết hỗ trợ cho quá trình dạy của bản thân và cho quá trình học của HS bao
gồm: tài liệu viết, in ấn…
d) Lập kế hoạch đánh giá
- HS hướng đến những mục tiêu học tập như thế nào?
- HS sử dụng những kĩ năng tư duy nào?
- HS tích hợp và sử dụng thông tin mới hiệu quả đến đâu?
- Tính hiệu quả của các hoạt động của HS.
Bước 3: Giao nhiệm vụ
- Giới thiệu tên dự án và nội dung tóm tắt của dự án. Giúp HS nắm được:
(1) Các em cần làm gì?; (2) Yêu cầu cụ thể về sản phẩm sau khi thực hiện dự án
là gì?
- Giới thiệu tài liệu tham khảo, cung cấp thêm các phương tiện hỗ trợ cho
việc thực hiện dự án.
- Xem thêm -