VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH
VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH
VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN THỊ AN
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa
học trong luận văn chƣa đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 02 năm 2017.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thị Hồng Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VĂN HOÁ ...................................................................................................... 10
1.1. Khái niệm công cụ ................................................................................... 10
1.2. Chu trình chính sách phát triển văn hóa và việc xác định vấn đề chính
sách phát triển văn hoá .................................................................................... 13
1.3. Đặc điểm và những nhân tố tác động đến chính sách phát triển văn hoá 17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH, THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 1997-2015 ................................................... 24
2.1. Các nhân tố chủ yếu tác động và tình hình thực hiện chính sách phát triển
văn hoá ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997-2015....................................... 24
2.2. Thực trạng và nguyên nhân của các vấn đề chính sách phát triển văn hoá
đặt ra từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997-2015 .......................... 44
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC PHÁT
HIỆN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN
HOÁ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................... 63
3.1. Mục tiêu về chính sách phát triển văn hoá của thành phố Đà Nẵng đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 ................................................................................ 63
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất các vấn đề chính
sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian sắp tới
......................................................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTƢ
: Ban Chấp hành Trung ƣơng
CNH, HĐH
: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CSVH
: Chính sách văn hoá
ĐTH
: Đô thị hoá
KDC
: Khu dân cƣ
NQTƢ5 KVIII
: Nghị quyết Trung ƣơng 5 khoá VIII
VH, TT&DL
: Văn hoá, Thể thao và Du lịch
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bàng
bảng
Trang
Những chính sách phát triển văn hoá chủ yếu của
2.1.
thành phố Đà Nẵng đƣợc xây dựng và ban hành
27
trong giai đoạn 1997-2015
Danh mục di tích cấp quốc gia, cấp thành phố, di
2.2.
tích nằm trong danh mục kiểm kê của thành phố
Đà Nẵng năm 2015
33
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cũng nhƣ nhiều
quốc gia khác trên thế giới ngày càng nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng
của văn hoá, cũng nhƣ CSVH đối với sự phát triển bền vững đất nƣớc.
Ở Việt Nam, từ những nhận thức đó, Đảng và Nhà nƣớc đã luôn quan
tâm và đề ra nhiều chủ trƣơng, chính sách xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hoá. NQTƢ5 KVIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã ghi nhận một bƣớc tiến mới về việc nhận
thức vai trò của văn hóa, chính sách phát triển văn hóa đối với sự nghiệp phát
triển đất nƣớc. Trong suốt hơn 15 năm sau khi NQTƢ5 KVIII đƣợc ban hành,
nhiều CSVH đã ra đời góp phần phát triển văn hóa nƣớc nhà và những CSVH
đó không những tạo điều kiện để ngƣời dân có cơ hội sáng tạo văn hóa, mà
còn mở rộng mức hƣởng thụ văn hoá cho ngƣời dân, góp phần phát triển con
ngƣời Việt Nam một cách toàn diện.
Quán triệt quan điểm, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nƣớc về văn hoá, Đảng bộ và chính quyền thành phố Đà Nẵng hết sức
quan tâm lĩnh vực quan trọng này và những thành tựu nổi bật về phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố thời gian qua có một phần đóng góp không nhỏ
từ các CSVH hiệu quả mang lại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì
việc hoạch định và triển khai thực hiện những CSVH của thành phố thời gian
qua vẫn tồn tại không ít những bất cập, hạn chế tác động xấu đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội và trong chính lĩnh vực văn hoá, cần ban hành những
chính sách để giải quyết. Trong số các vấn đề chính sách phát triển văn hoá từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng thời gian qua có thể thấy nổi bật lên hai vấn đề
chính sách: Văn hoá thành phố vẫn chƣa đƣợc đầu tƣ phát triển tƣơng xứng
1
với kinh tế và nhu cầu thụ hƣởng của ngƣời dân, ĐTH đã làm biến đổi mạnh
mẽ văn hoá và lối sống của cƣ dân Đà Nẵng.
Thực trạng các bất cập, hạn chế trong quá trình phát triển văn hoá của
thành phố Đà Nẵng thời gian qua cần đƣợc các giới, các ngành, các cấp quan
tâm, bàn luận, nghiên cứu, mạnh dạn đề xuất các vấn đề chính sách nhằm sửa
đổi, bổ sung những CSVH bất cập, không còn phù hợp, kịp thời đề ra những
CSVH mới đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu của sự phát triển bền vững. Từ
những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Vấn đề chính sách phát triển văn
hoá từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn chính sách công là xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế và có ý nghĩa thực tiễn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội thành phố.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nƣớc ta, phạm trù chính sách công, CSVH còn khá mới mẻ vì thế những
công trình nghiên cứu về đối tƣợng này chƣa nhiều. Hơn nữa, cho đến nay vẫn
chƣa có công trình nào đề cập tới vấn đề chính sách phát triển văn hóa, đặc biệt
là từ thực tiễn một địa phƣơng, cụ thể là thành phố Đà Nẵng. Có thể khái quát
một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhƣ sau:
2.1. Nghiên cứu về chính sách công
- Công trình Tìm hiểu về khoa học chính sách công (NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999) của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa
học chính trị và cuốn Đại cương về chính sách công (NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2013) do Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hoà (Đồng chủ biên) là hai trong
nhiều công trình mà tôi tiếp cận để tìm hiểu một cách khái quát về khoa học
chính sách công ở khía cạnh lịch sử, khái niệm, bản chất...
- Công trình Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách
(NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2001) của Lê Chi Mai đã
đƣa ra những quan niệm về khái niệm, bản chất, vai trò... chính sách công
2
đƣợc chấp nhận rộng rãi. Công trình này cũng đã chỉ ra các bƣớc của quy
trình chính sách công, từ xây dựng đến triển khai chính sách.
- Trong bài Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: Vấn đề và giải pháp
(trên Tạp chí Cộng sản online, ngày 17-12-2012), Nguyễn Đăng Thành đã
phân tích một khâu quan trọng của quy trình chính sách, đó là đánh giá chính
sách. Trên cơ sở đó, tác giả nhận diện vấn đề chính sách và đề xuất giải pháp.
- Trong Chƣơng trình giảng dạy kinh tế Fulbright, niên khoá 2011-2013,
tài liệu Phân tích chính sách công: Nhập môn, Chương 3: Cấu trúc các vấn
đề chính sách của William N. Dunn đã giới thiệu bản chất, đặc điểm, cấu trúc
vấn đề chính sách. Đây là một trong những nguồn tài liệu mà tác giả luận văn
tham khảo để xây dựng phần cơ sở lý luận.
2.2. Nghiên cứu về chính sách phát triển văn hóa
Thực tế có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, nhƣng nghiên
cứu ở khía cạnh CSVH thì không nhiều, còn nghiên cứu về vấn đề chính sách
phát triển văn hoá thì hầu nhƣ không có:
- Trong công trình Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011-2020:
Những vấn đề phương pháp luận (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009),
Phạm Duy Đức đã bàn đến các vấn đề phƣơng pháp luận nghiên cứu, thực
trạng và giải pháp để phát triển văn hóa, con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn
2011-2020 căn cứ từ Chiến lƣợc phát triển văn hoá đến năm 2020 của nƣớc ta
với những định hƣớng và nhiệm vụ đƣợc xác định cụ thể.
- Cuốn Chính sách văn hoá (Giáo trình dành cho sinh viên Đại học và
Cao đẳng các trƣờng văn hoá - nghệ thuật, Hà Nội, 2012) đã giới thiệu các
khái niệm, đặc tính, vai trò CSVH của một số nƣớc trên thế giới và những vấn
đề cốt yếu trong CSVH Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thời
kỳ đổi mới. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả luận văn xây dựng
phần cơ sở lý luận của đề tài.
3
- Trong công trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hoá trong
thời kỳ đổi mới (NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012), tác giả
Nguyễn Danh Tiên giúp ngƣời đọc có thêm tài liệu về quá trình đổi mới quan
điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa từ năm 1986 đến nay.
- Tổng kết 15 năm thực hiện NQTƢ5 KVIII, tác giả Nguyễn Tri Nguyên
đã có bài viết: Đổi mới và hoàn thiện chính sách văn hoá (Báo Nhân dân cuối
tuần online, ngày 17-9-2013). Ở công trình này, tác giả khẳng định vai trò của
CSVH. Ông viết: “Chính sách văn hóa hiện thực hóa đƣợc những tƣ tƣởng cơ
bản trong các nghị quyết của Đảng ta về văn hóa, thực chất là ý chí, quan
điểm và định hƣớng, tạo điều kiện cơ bản để quản lý văn hóa của đất nƣớc với
tƣ cách là phƣơng tiện hiệu quả để thiết lập cuộc sống tốt đẹp đồng thời với
việc phát triển một nền sản xuất và thị trƣờng văn hóa lành mạnh”.
- Trong cuốn Văn hoá sức mạnh nội sinh của phát triển, Phùng Hữu
Phú, Đinh Xuân Dũng (Đồng chủ biên) (NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2004), các bài viết chuyên sâu của nhiều nhà khoa học đầu ngành về văn
hoá đã đƣa ra một cái nhìn khá toàn diện về những vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở nƣớc ta; đề xuất mục tiêu, quan
điểm, định hƣớng và giải pháp có tầm chiến lƣợc và tính đột phá trong việc
xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Nghiên cứu về văn hoá Đà Nẵng
Nghiên cứu về văn hoá Đà Nẵng có thể đề cập đến một số bài viết của
các nhà nghiên cứu trên Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, nhƣ sau:
- Lê Hữu Ái trong công trình Đô thị hoá và các hiệu ứng văn hoá cho sự
phát triển kinh tế ở thành phố Đà Nẵng hiện nay vào năm 2011 đã chỉ ra những
nét khác biệt trong lối sống của cƣ dân Đà Nẵng so với các vùng miền khác,
chịu tác động của quá trình ĐTH nhƣng lối tƣ duy tiểu nông (tính tuỳ tiện, tính
vô tổ chức...) của ngƣời dân Đà Nẵng, cũng nhƣ của những ngƣời nhập cƣ
4
trong nƣớc khó có thể nhanh chóng thay đổi để phù hợp với lối sống đô thị văn
minh, hiện đại; đồng thời đề xuất biện pháp khắc phục những tồn tại trên.
- Năm 2012, Viện Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng đã tiến hành khảo
sát lấy ý kiến của ngƣời dân về thực trạng và nhu cầu sử dụng đối với hệ
thống thiết chế văn hoá thể thao trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (2002-2012)
tại 3 phƣờng thuộc quận Hải Châu (Hoà Cƣờng Bắc, Bình Hiên và Thuận
Phƣớc) và 2 xã thuộc huyện Hoà Vang (Hoà Tiến và Hoà Châu) và trên cơ sở
này Huỳnh Năm và Đàm Thị Vân Dung đã căn cứ để nhận định vấn đề trên
với bài viết Hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở tại thành phố Đà Nẵng, thực
trạng và nhu cầu qua ý kiến của người dân và đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị góp phần xây dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ
sở xã, phƣờng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Năm 2014, Đỗ Thanh Tân trong bài viết Xu hướng vận động văn hoá
trong bối cảnh đô thị hoá ở Đà Nẵng hiện nay đã có những đóng góp khi chỉ
ra: Đà Nẵng trong bối cảnh ĐTH diễn ra trên diện rộng, văn hoá thành phố
đang ở vào giai đoạn đặc biệt, không ngừng tiếp biến, văn hoá phát triển trong
thời cơ và thánh thức mới (văn hoá và lối sống đô thị, sự biến đổi của văn hoá
gia đình…).
Trên đây là những công trình, bài viết đề cập đến văn hoá Đà Nẵng trên
các khía cạnh liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn, tuy không trực
tiếp nhƣng cũng góp phần giúp tác giả tìm hiểu văn hoá Đà Nẵng ở những nét
nổi bật.
Nhìn chung, nội dung của những công trình, tài liệu nghiên cứu trên đề
cập tới những vấn đề lý luận: chính sách công, CSVH, các vấn đề phát triển
văn hóa ở Đà Nẵng (chƣa khai thác dƣới góc độ vấn đề chính sách phát triển
văn hoá). Đây là những nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp tác giả kế thừa
5
và xây dựng nên hệ thống cơ sở lý luận của đề tài; liên hệ nghiên cứu lĩnh vực
văn hoá ở hƣớng tiếp cận mới: vấn đề chính sách, từ đó có thể đề xuất một số
giải pháp giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển văn hóa ở
thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
- Xác định các vấn đề chính sách từ thực tiễn phát triển văn hóa của
thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất các
vấn đề chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách công, vấn đề
chính sách công, CSVH, chính sách phát triển văn hóa, chu trình chính sách
phát triển văn hoá và việc xác định vấn đề chính sách phát triển văn hoá.
Thứ hai, từ việc phân tích và đánh giá thực trạng về những bất cập, hạn
chế trong xây dựng và phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời
gian qua, tìm ra nguyên nhân (khách quan, chủ quan) của các vấn đề chính
sách phát triển văn hóa đó.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất
các vấn đề chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề chính sách phát triển
văn hóa từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Về thời gian: từ năm 1997 đến năm 2015
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Khoa học chính sách công: Phân tích chu trình chính sách từ phát hiện
vấn đề, xây dựng chính sách, ban hành, triển khai thực hiện, kiểm tra, đánh
giá tính hiệu quả, phát hiện vấn đề và tiếp tục hoàn thiện chính sách.
- Văn hóa học phát triển: Với nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bất kỳ lĩnh vực nào, trong đó
có lĩnh vực văn hoá, con ngƣời đều tôn trọng quan điểm phát triển. Các nhà
nghiên cứu văn hoá hiện nay quan niệm rất biện chứng khi cho rằng: văn hoá
không chỉ thúc đẩy mà có khi còn cản trở sự phát triển. Vì vậy, văn hoá về cơ
bản vừa có vai trò động lực, mục tiêu, nguồn lực nội sinh đối với phát triển
kinh tế - xã hội nhƣng văn hoá cũng có thể trở thành lực cản đối với phát triển
nếu nó lạc hậu, lệch lạc, thiếu đồng bộ trong chính bản thân nó hay đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thu thập thông tin, số liệu từ
các văn bản triển khai thực hiện, tổng kết, đánh giá, thẩm tra... của Thành uỷ,
Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở VH,TT&DL
và các đơn vị liên quan về lĩnh vực văn hoá.
- Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Thu thập thông tin, số liệu
bằng trao đổi, phỏng vấn sâu. Phƣơng pháp này khắc phục những hạn chế mà
các phƣơng pháp khác mắc phải: Trao đổi với một số lãnh đạo, quản lý lĩnh
vực văn hoá ở thành phố Đà Nẵng; phỏng vấn nhà nghiên cứu lịch sử, văn
hoá có uy tín của thành phố (ông Bùi Văn Tiếng, nguyên Trƣởng Ban Tổ
7
chức Thành uỷ Đà Nẵng, hiện là Chủ tịch Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật
thành phố).
Ngoài ra, trong luận văn tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học xã hội nhƣ tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng lý thuyết về chính sách công, cụ thể là lý thuyết về chu
trình chính sách công, trong đó có khâu xác định vấn đề chính sách công để
xác định các vấn đề chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng; do vậy, kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ, chứng minh và bổ
sung cho các lý thuyết về chính sách công, đƣa ra lý luận về khái niệm chính
sách công, vấn đề chính sách công và chính sách phát triển văn hóa.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Nghiên cứu vấn đề chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng sẽ làm rõ những thuận lợi, khó khăn, những tồn tại, hạn chế trong
thực thi đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về văn hoá ở cấp địa
phƣơng. Từ đó, giúp các nhà hoạch định chính sách (của địa phƣơng, Trung
ƣơng) xác định các vấn đề chính sách, các mục tiêu, giải pháp công cụ giải
quyết các vấn đề chính sách nhằm phát triển lĩnh vực văn hoá, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội.
- Ngoài ra, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ngƣời
nghiên cứu, tìm hiểu chính sách phát triển văn hóa, các vấn đề chính sách
phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn đƣợc chia làm 03 chƣơng, không kể phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1. Lý luận về vấn đề chính sách phát triển văn hoá
8
Chƣơng 2. Thực trạng xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách phát
triển văn hoá từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997-2015
Chƣơng 3. Một số giải pháp nâng cao năng lực phát hiện và đề xuất các
vấn đề chính sách phát triển văn hoá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
9
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
1.1. Khái niệm công cụ
1.1.1. Chính sách công, vấn đề chính sách công và vấn đề chính sách
phát triển văn hoá
- Chính sách công
Khoa học chính sách công đƣợc nghiên cứu ở phƣơng Tây từ những năm
1940 của thế kỷ XX nhƣng phải đến những năm 1980, chính sách công mới
phát triển và đƣợc coi nhƣ một lĩnh vực nghiên cứu độc lập và định nghĩa
chính sách công của William Jenkin (1978) đƣợc chấp nhận rộng rãi nhất:
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt đƣợc các mục tiêu đó”1. Ngành nghiên cứu
này ở Việt Nam cũng chỉ mới đƣợc bắt đầu chú ý vào đầu thế kỷ XXI. Tác giả
Đỗ Phú Hải đã đƣa ra một định nghĩa về chính sách công nhƣ sau: “Chính
sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nƣớc
nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề
của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” (Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa
học xã hội, 2012). Từ những phân tích trên, tác giả luận văn xin đƣa ra quan
niệm về khái niệm chính sách công nhƣ sau: “Chính sách công là những quyết
định hành động của các cơ quan thuộc Nhà nƣớc tác động đến các hiện tƣợng
tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của xã hội để đạt đƣợc các mục
tiêu nhất định”.
- Vấn đề chính sách công
Hiện nay, các nhà nghiên cứu về chính sách công ở nƣớc ta đã đƣa ra các
1
10
quan niệm về vấn đề chính sách công. Chung quy, có thể hiểu: Vấn đề chính
sách công là một bộ phận của vấn đề xã hội, là vấn đề cần đƣợc trả lời và là
mâu thuẫn cần phải giải quyết hoặc đang trong quá trình giải quyết về mặt
chính sách của Nhà nƣớc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hoá - xã hội...) hay nói cách khác thì đây là những nhu cầu trong
tƣơng lai của đời sống xã hội cần đƣợc đáp ứng, cần đạt đƣợc về mặt chính
sách của Nhà nƣớc.
- Vấn đề chính sách phát triển văn hoá
Từ cách hiểu về vấn đề chính sách công thì vấn đề chính sách phát triển
văn hoá đƣợc hiểu là một bộ phận của các vấn đề xã hội dùng để chỉ những
mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển văn hoá hay những nhu cầu về
văn hoá mà ngƣời dân cần đƣợc giải quyết, đáp ứng bằng chính sách của Nhà
nƣớc.
Mâu thuẫn và vấn đề chính sách phát triển văn hóa: Trong quá trình
phát triển, nếu CSVH lạc hậu, sai lệch, không phù hợp hoặc thiếu chính sách
thúc đẩy và vấn đề này tồn đọng, kéo dài gây kìm hãm cũng nhƣ tác động xấu
đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cả sự phát triển trong chính lĩnh vực văn
hoá, cần đƣợc điều chỉnh, sửa đổi.
Nhu cầu và vấn đề chính sách phát triển văn hóa: cơ sở của CSVH còn
dựa trên những nhu cầu văn hóa của nhân dân (nhu cầu hƣởng thụ và sáng tạo
văn hoá) và mục tiêu của CSVH là nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Nếu CSVH
chỉ xuất phát từ ý chí và thoả mãn quyền lợi của một nhóm ngƣời trong xã
hội, thì CSVH đó sẽ nhanh chóng bị xơ cứng, không mang lại hiệu quả nhƣ
mong muốn và một khi nhu cầu hƣởng thụ và sáng tạo văn hoá của ngƣời dân
không đƣợc thoả mãn thì sẽ không tạo nên đƣợc thế hệ những con ngƣời đáp
ứng đƣợc yêu cầu phát triển của xã hội, văn hoá không thực hiện đƣợc chức
năng, nhiệm vụ của mình là động lực, mục tiêu, là hệ điều chỉnh… cho sự
11
phát triển bền vững, nhân văn. Nhƣ vậy, cả điểm xuất phát và đích đến của
CSVH đều vì con ngƣời.
1.1.2. Chính sách văn hóa và chính sách phát triển văn hoá
- Chính sách văn hoá
CSVH là một bộ phận của chính sách công, đã đƣợc thế giới quan tâm
trong những thập kỷ gần đây với định nghĩa của các chuyên gia văn hoá tại
Monaco năm 1967 và của UNESCO cuối thế kỷ XX. Trên đại thể, các nhà
nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: “Chính sách văn hoá là một hệ thống các
nguyên tắc, các thực hành của nhà nƣớc trong lĩnh vực văn hoá nhằm phát
triển và quản lý thực tiễn đời sống văn hoá theo những quan điểm phát triển
và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hoá tinh
thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn
có của xã hội” [28, tr.21].
- Chính sách phát triển văn hóa
Phát triển văn hóa là một khái niệm chƣa đƣợc thống nhất trong các nhà
nghiên cứu ở nƣớc ta. Nhà nghiên cứu Hồ Bá Thâm cho rằng: “Phát triển văn
hoá là quá trình hoạt động sáng tạo các giá trị tinh thần và vật chất, phát huy
các giá trị truyền thống, tiếp thu, tiếp biến giá trị văn hoá trong giao lƣu, đƣa
văn hoá vào cuộc sống thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn nội sinh,
mục tiêu của phát triển kinh tế và chính trị, xã hội, tạo nên chất lƣợng mới của
cuộc sống” [66, tr.37]. Trong khi đó, Dƣơng Phú Hiệp lại cho rằng: “Về đại
thể, phát triển văn hoá là một quá trình có tính tất yếu và khách quan trong sự
vận động của các lĩnh vực văn hoá. Quá trình này dẫn tới sự biến đổi giá trị và
hệ giá trị. Tính tất yếu và khách quan của quá trình này, tuy không đơn giản,
không đơn tuyến, và thậm chí có lúc thụt lùi, tha hoá, nhƣng xu hƣớng chung
vẫn là đảm bảo cho cuộc sống của con ngƣời hƣớng tới cái tốt, cái thiện và
cái đẹp ngày một cao hơn, nhân đạo hơn” [35, tr.39].
12
Khi nói văn hoá và phát triển thực chất là văn hoá trong phát triển hay
văn hoá phát triển, tức gồm: văn hoá kinh tế, văn hoá môi sinh, văn hoá chính
trị, văn hoá tinh thần mà trung tâm là hoạt động sáng tạo của con ngƣời với
những hệ thống giá trị và phƣơng thức thể hiện theo hƣớng nhân văn, hƣớng
tới chân - thiện - mỹ. Nhắc đến phát triển văn hoá, ta nghĩ ngay đến khái niệm
bảo tồn văn hoá và mối quan hệ giữa chúng. Giữa phát triển văn hóa và bảo
tồn văn hoá đôi khi đƣợc coi là đối lập, tuy nhiên, nhìn ở phạm vi vĩ mô, phát
triển văn hóa không phải là hoạt động cản trở sự bảo tồn văn hoá vì trong quá
trình phát triển văn hóa thì tự thân nó sẽ có sự đào thải yếu tố văn hoá lỗi thời,
lạc hậu, không còn phù hợp với hiện thực khách quan. Nhƣ vậy, hoạt động
bảo tồn văn hoá không triệt tiêu sự phát triển văn hóa mà ngƣợc lại phát triển
văn hóa sẽ có chức năng bảo tồn văn hoá. Chính vì vậy, bảo tồn văn hoá giữ
vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa và phát triển văn hóa tạo
điều kiện cho bảo tồn văn hoá.
Dựa trên sự phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xây dựng định nghĩa
về chính sách phát triển văn hóa nhƣ sau: “Chính sách phát triển văn hoá là
một hệ thống các quyết định thực hành của nhà nƣớc trên lĩnh vực văn hoá, có
những quan điểm và có cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu đời sống
văn hoá tinh thần, vật chất của ngƣời dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện
vật chất, tinh thần sẵn có của xã hội và cả sáng tạo ra những giá trị văn hoá
mới tiên tiến đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về hƣởng thụ và sáng tạo văn
hoá của ngƣời dân”.
1.2. Chu trình chính sách phát triển văn hóa và việc xác định vấn đề
chính sách phát triển văn hoá
1.2.1. Chu trình chính sách phát triển văn hoá
Quy trình hay chu trình chính sách công nói chung, chính sách phát triển
văn hóa nói riêng là khái niệm để chỉ một hoạt động mang tính khép kín từ
13
khâu đầu cho đến khâu cuối và đó cũng là điểm bắt đầu cho một hoạt động
chính sách ở tầm cao hơn, diễn ra theo một lôgic, có trật tự và đặc biệt có tính
kế thừa rất cao. Nhƣ vậy, chu trình chính sách phát triển văn hoá lần lƣợt trải
qua các bƣớc sau: Xác định vấn đề chính sách; Xây dựng chính sách; Ban
hành chính sách; Đánh giá chính sách.
a) Xác định vấn đề chính sách văn hoá
Xác định vấn đề chính sách văn hoá là giai đoạn khởi đầu nằm trong chu
trình chính sách phát triển văn hoá, bao gồm từ bƣớc khởi đầu phát hiện ra
những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển văn hoá hay những nhu
cầu về văn hoá mà ngƣời dân cần đƣợc giải quyết, đáp ứng bằng chính sách;
đƣa vào chƣơng trình để thảo luận – tức là xác lập nghị trình. Mọi vấn đề
chính sách nói chung, vấn đề chính sách văn hoá nói riêng có thể thấy đều nảy
sinh từ dữ kiện thực tế, thông qua ba nguồn quan trọng nhất: số liệu thống kê,
các sự kiện và các nhận định.
Nhƣ vậy, xác định vấn đề chính sách phát triển văn hoá là bƣớc quan
trọng đầu tiên để từ đó xác định thứ tự, phƣơng hƣớng, mục tiêu, cách thức
giải quyết các vấn đề văn hoá bằng chính sách của Nhà nƣớc.
b) Xây dựng chính sách phát triển văn hoá
Chính sách PTVH ở nƣớc ta đƣợc xây dựng bởi các cơ quan hay các cấp
chính quyền trong bộ máy nhà nƣớc theo yêu cầu của xã hội, của nhân dân, là
sản phẩm của quá trình thực thi quyền lực chính trị. Trong quá trình xây
dựng, chính sách phát triển văn hóa đƣợc tổ chức tham vấn ý kiến của các bên
tham gia soạn thảo, ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, đối tƣợng thụ hƣởng
trực tiếp và gián tiếp của CSVH để khi chính sách đƣợc ban hành vừa đảm
bảo tính khoa học, trách nhiệm xã hội, vừa có hiệu lực.
c) Ban hành chính sách phát triển văn hoá
Trong những năm qua, đã có một số bộ Luật về văn hóa đã đƣợc ban
14
- Xem thêm -