Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường...

Tài liệu Vai trò của pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi trường

.DOCX
13
623
55

Mô tả:

MỞ ĐẦU Bảo vệ môi trường là vấn đề tuy không mới nhưng luôn được đặt lên hàng đầu với bất cứ quốc gia nào. Đặc biệt là với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại và áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. Một thách thức lớn đặt ra đối với nước ta là vấn đề bảo vệ môi trường. khí hậu ngày càng khắc nghiệt và khó dự báo hơn, mưa bão lũ quét thất thường, suy thoái đất, nước, suy giảm nguồn tài nguyên rừng, ô nhiễm môi trường xảy ra trên diện rộng… Đó là các vấn đề về môi trường mà toàn nhân loại đã và đang đối mặt. Con người đã tác động quá nhiều đến môi trường, khai thác đến mức cạn kiệt các nguồn tài nguyên, thải nhiều chất độc làm cho môi trường không còn khả năng tự phân hủy. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề này, em xin mạnh dạn chọn đề tài “vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” cho bài tập lớn cuối kì của mình. NỘI DUNG I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1/ Các khái niệm 1 1.1/ Khái niệm về môi trường: Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, để thống nhất về mặt nhận thức, chúng ta sử dụng định nghĩa trong “Luật bảo vệ môi trường” đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kì họp thứ tư thông qua ngày 27/12/1993: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”. 1.2/ Khái niệm bảo vệ môi trường Bảo vệ môi trường có thể hiểu là các hoạt động chống lại tất cả những gì tác hại đến trạng thái thể chất và tinh thần của con người, trả lại sự cân bằng vốn có của môi trường hoặc có thể xem bảo vệ môi trường là giảm đến mức thấp nhất sự gây ô nhiễm môi trường và xử lý môi trường bị ô nhiễm. Cũng như theo Khoản 3, Điều 3, Luật bảo vệ môi trường 2005, " Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy 2 thoái, cải thiện, phục hồi môi trường và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học". Như vậy, có thể thấy được rằng bảo vệ môi trường là phạm vi rộng hay có thể nhân rộng được, được thực hiện thường xuyên và liên tục trên mọi quốc gia. Nội dung của bảo vệ môi trường hết sức phong phú, đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. 2/ Quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm của của pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam: Trước năm 1986, chính sách về bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm, kiểm soát suy thoái môi trường hầu như chưa được đề cập cụ thể. Đến năm 1993, việc nhà nước ta sớm ban hành Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên đã cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 gồm có 55 điều được chia làm 7 chương, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, qua hơn 12 năm thực hiện, bộ luật đã bộc lộ nhiều bất cập trước những bước phát triển mới trong đời sống kinh tế, xã hội, đòi hỏi phải có sự sửa đổi toàn diện. 3 Đáp ứng yêu cầu này, tại kỳ họp thứ 8 (Khóa XI), Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường mới (Luật Bảo vệ môi trường năm 2005), thay thế cho Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Và mới đây nhất là Luật bảo vệ môi trường năm 2014 có hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Từ đó, ta thấy Pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt nam ra đời muộn hơn so với các lĩnh vực pháp luật khác. Tuy nhiên, pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta đang phát triển nhanh chóng và ngày càng hoàn thiện hơn. Pháp luật bảo vệ môi trường chịu sự điều chỉnh của công ước quốc tế về môi trường. Do tính thống nhất của môi trường, các yếu tố, thành phần môi trường của Việt nam vừa là đối tượng tác động của pháp luật trong nước vừa là đối tượng tác động của các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt nam là thành viên. Vì vậy pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt nam cũng được xây dựng hài hòa với các điều ước quốc tế và chịu sự tác động của các điều ước đó. II/ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều 4 chỉnh các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị. Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật bảo vệ môi trường vừa có các vai trò của pháp luật nói chung vừa có những vai trò riêng của nó. Pháp luật bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường; là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và là cơ sở pháp lí cho công tác bảo vệ môi trường. Nó được thể hiện qua các điểm sau: 1/ Pháp luật là cơ sở pháp lý quy định các quy tắc xử sự cho con người khi tác động đến môi trường Pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường do nhà nước ban hành, mang tính bắt buộc mọi người dân đều phải tuân thủ và đảm bảo thực hiện. Pháp luật đã định hướng các hành vi con người theo hướng có lợi cho môi trường, đảm bảo các hành vi của con người không xâm hại tới môi trường, hạn chế những tác hại, ngăn chặn suy thoái và ô nhiễm môi trường. 5 VD: Theo khoản 3 điều 84 Luật Bảo vệ môi trường 2014, về hoạt động mai táng, hỏa táng: “Việc mai táng người chết do dịch bệnh nguy hiểm thực hiện theo quy định của bộ y tế”; hay theo khoản 5 cùng điều luật này thì “Nhà nước khuyến khích việc hỏa táng, chôn cất trong khu nghĩa trang theo quy hoạch, xóa bỏ hủ tục gây ô nhiễm môi trường”. 2/ Pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện những đòi hỏi của pháp luật để bảo vệ môi trường Trong thực tế khi các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, xã hội thường chỉ chú ý tới lợi ích của bản thân mà bỏ qua lợi ích chung của môi trường, cộng đồng, bỏ qua nghĩa vụ phải thực hiện với môi trường và không tự giác thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường. Khi đó, chế tài mà pháp luật quy định đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung lâu dài của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp luật môi trường, ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường, qua đó ngăn ngừa và hạn chế tác động xấu do con người gây ra cho môi trường. 6 Vì thế, pháp luật có các chế tài hành chính, dân sự, hình sự để buộc các tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố môi trường. Ví dụ: Khoản 6 Điều 15 Nghị định số 81/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã quy định: Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường quá mức cho phép. 3/ Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường Pháp luật đã có vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ chức, cơ quan bảo vệ môi trường. Cụ thể là nhờ có pháp luật, nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường với các nội dung như: Kiểm soát ô nhiễm, suy thoái sự cố môi trường; đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược; kiểm soát ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, suy thoái đất, suy thoái rừng, nguồn thủy sinh, nguồn gen và kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động có ảnh hưởng đặc biệt tới môi trường;... Việc ban hành các văn bản 7 pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan này thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý Nhà nước đối với môi trường. Pháp luật cũng phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan, tránh việc quản lý chồng chéo, đồng thời tao ra sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về môi trường. VD: Khoản 1 điều 16 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược như sau: “Bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược đối với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thuộc thẩm quyền phê duyệt của mình”. 4/ pháp luật là cơ sở pháp lí cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và sử lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, định kì hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Còn xử lí vi phạm được áp 8 dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những hành vi vô ý hay cố tình vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực môi trường. VD: Theo khoản 9 điều 141 luật bảo vệ môi trường, Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm: Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. 5/ Pháp luật là cơ sở pháp lý cho xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành các cơ quan thực hiện theo đó để hoàn thành nhiệm vụ của mình. VD: Để đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường ở khu vực nông thôn, UBND các tỉnh đã có đề án hỗ trợ đầu tư thí điểm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn, tạo cơ chế xã hội hoá cho công tác thu gom rác thải ở khu vực nông thôn. Hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, thay đổi bộ mặt nông thôn. 9 III/ THỰC TRẠNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1/ Những thành tựu của pháp luật bảo vệ môi trường Tuy bảo vệ môi trường là một vấn đề còn mới nhưng các văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ môi trường cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường đã từng bước được phát triển, hoàn thiện và khẳng định là đây một vấn đề hệ trọng và ngày càng được quan tâm, được thể chế hoá vào hầu hết các ngành luật. Từ năm 1993 đến nay hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã phát triển cả về nội dung lẫn hình thức. Nội dung các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đã cụ thể hoá tương đối kịp thời và đầy đủ các chủ trương của Đảng cũng như những cam kết quốc tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia các điều ước quốc tế về môi trường. Việc gia nhập các công ước này là tiền đề quan trọng cho việc hội nhập của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế. Chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tập trung vào một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên 10 và Môi trường là đúng hướng, tuy nhiên vẫn chưa triệt để. Bởi việc quản lý tài nguyên vẫn còn nằm rải rác ở một số bộ, ngành, điều này dẫn tới cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả. 2/ Những mặt hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, từ thực trạng tổ chức thi hành các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước và việc bảo vệ môi trường cho thấy tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường đang có xu hướng gia tăng, đa dạng sinh học bị suy giảm; không khí và nguồn nước đang dần cạn kiệt,… Thực trạng trên diễn ra do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là vì, chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ trong vấn đề bảo vệ môi trường. Trên một số lĩnh vực còn thiếu văn bản có giá trị pháp lý cao, các quy định rất tản mạn và được quy định trong rất nhiều văn bản và ở nhiều cấp độ khác nhau. Các văn bản còn yếu về khả năng thích ứng với các biến động xảy ra, dẫn đến các tình trạng các cơ quan quản lý - tác nghiệp chạy theo các giải pháp tình thế và lúng túng vì thiếu các quy định pháp luật để áp dụng. Các cơ quan hoạch 11 định chính sách còn bị động trong việc lập kế hoạch ban hành văn bản pháp luật, vẫn có nhiều nội dung trùng lặp, thậm chí giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn có các quy định mâu thuẫn với nhau. Việc đó dẫn đến tình trạng khó áp dụng trong thực tiễn. Ngoài ra, những quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không có biện pháp xử lý thích hợp đối với người vi phạm nên không được thực hiện. Với các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay thì việc bảo vệ môi trường dường như chỉ là việc của các cơ quan quản lý chứ chưa thực sự trở thành “sự nghiệp của toàn dân” như các văn bản của Đảng. KẾT LUẬN Có thể nói, pháp luật có vai trò hết sức to lớn và quan trọng trong vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta ngày nay, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong công tác chung tay bảo vệ ngôi nhà chung và thể hiện được sự quan tâm sát sao của nhà nước đối với vấn đề nóng hổi này. Đây chính là một bước đệm để Việt Nam thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách thuận lợi, đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần quan trọng vào nhiệm vụ phát triển đất nước. 12 Vì đây là một vấn đề mang tính xã hội, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân chứ không phải của riêng cá nhân nào nên mỗi người cần phải tự chấn chỉnh hành vi và ý thức của mình, cùng chung tay bảo vệ môi trường, truyên truyền, giáo dục, lên án các hành vi hủy hoại, làm ô nhiễm môi trường để chúng ta được sống trong một môi trường trong sạch nhất, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan