MỞ ĐẦU
Tên đề tài: "Vai trò của giáo dục gia đình trong sự phát
triển con người và xã hội".
1. Lý do chọn đề tài.
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã
hội. Cuộc sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự
nhiên và xã hội mà con người sống trong đó. Gia đình, nhà trường,
xã hội là ba môi trường liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá
trình hình thành và phát triển của mỗi cá nhân.
Gia đình là một trong ba môi trường xã hội hoá trẻ em, quyết
định trực tiếp tới mặt tự nhiên và xã hội trong mỗi con người, thông
qua gia đình mỗi cá nhân người ngày càng hoàn thiện cả về mặt tự
nhiên và mặt xã hội. Gia đình khộng chỉ sinh ra con người, thực
hiện các chức năng chăm sóc hoàn thiện thể lực cho trẻ em mà còn
là một trường học đầu đời cho mỗi đứa trẻ phát triển, hoàn thiện yếu
tố xã hội trong con người: dạy cho trẻ em cách ăn, mặc, giao tiếp,
tiếp thu văn hoá công cộng... Giúp trẻ hình thành nhân cách gốc cho
con người. Thông qua gia đình cá nhân có cơ sở để tiếp nhận những
giá trị, những chuẩn mực xã hội, vững tin bước sang một môi
trường xã hội hoá cao hơn.
Như vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về thể lực, trí
tuệ, đạo đức, thẩm mỹ...điều quan trọng nhất là cần phải chú ý nâng
cao vị trí, vai trò, chức năng, phương pháp giáo dục gia đình trong
việc xã hội hoá trẻ em; đồng thời phải biết kết hợp hài hoà các môi
trường giáo dục: giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
1
Trong các môi trường giáo dục, gia đình có một ý nghĩa quyết
định đầu tiên đối với việc hình thành con người xã hội, giáo dục con
người trở thành công dân có ích cho xã hội.
Với ý nghĩa quan trọng đó, em lựa chọn đề tài nghiên cứu là:
"Vai trò của giáo dục gia đình trong sự phát triển con người và xã
hội".
2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục gia đình giúp cho mỗi người hiểu rõ vị trí, vai trò,
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với giáo dục thế
hệ trẻ; nâng cao trình độ hiểu biết về vai trò và tầm quan trọng của
gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
Giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn; các bậc cha mẹ có
thể vận dụng những tri thức, phương pháp của giáo dục gia đình vào
việc chăm sóc, nuôi dạy con cái; hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách của thế hệ trẻ góp phần ngăn ngừa, loại bỏ dần những
hiện tượng tiêu cực trong gia đình và xã hội.
Giáo dục gia đình từng bước khắc phục hạn chế của gia đình
truyền thống, kế thừa, gìn giữ, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu những yếu tố tiên tiến của thời đại để xây dựng gia đình
mới, tiến bộ văn minh.
Giáo dục gia đình còn giúp các gia đình biết giữ gìn những giá
trị văn hoá của dòng họ, của dân tộc để xây dựng nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2
-> Từ những mục đích trên của việc nghiên cứu đề tài ta cũng
đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng và tính thiết thực của đề tài: "Vai
trò của giáo dục gia đình trong sự phát triển con người và xã hội".
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Vai trò của giáo dục gia đình đối với sự phát triển con người
và xã hội.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
Nghiên cứu về hoạt động giáo dục gia đình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đề tài xác định một số nhiệm
vụ sau:
Nghiên cứu lý thuyết để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Nghiên cứu về thực tiễn để đưa ra những kết luận về qui luật
vận động của những sự kiện, hiện tượng giáo dục gia đình đặc biệt
là phải dựa trên các giả thuyết khoa học.
5. Giả thuyết khoa học.
Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của gia đình.
Ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai và qui luật cạnh tranh cũng làm
phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ những tệ nạn xã hội như: Tham
nhũng, mại dâm, nghiện hút... tạo ra những thách thức và khó khăn
trong giáo dục gia đình hiện nay.
3
Các hiện tượng gây mất ổn định đối với đời sống gia đình như:
ly hôn, có người nghiện hút, kinh doanh phá sản... đang có nguy cơ
tăng cũng gây khó khăn cho công tác giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình chịu ảnh hưởng khá lớn của điều kiện kinh
tế, tiện nghi, nếp sống văn hoá, nghề nghiệp... chính vì vậy vai trò
của giáo dục gia đình trong sự phát triển của con người và xã hội
trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng. Nhờ thấu hiểu tính cách,
sức khoẻ của con cái mà các bậc cha mẹ tìm kiếm, lựa chọn được
các biện pháp phù hợp để giải quyết có hiệu qủa các tình huống giáo
dục, tạo điều kiện thuận lợi đối với việc hình thành và phát triển
những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của trẻ.
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học.
Trên cơ sở ý nghĩa của đề tài, đối tượng nghiên cứu; đề tài áp
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: quan sát,
phương pháp phỏng vấn, phương pháp trưng cầu ý kiến, phương
pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực nghiệm,
phương pháp chuyên gia.
- Nhóm các phương pháp lý thuyết: phương pháp phân tích tổng hợp, phân loại - hệ thống hoá lý thuyết, phương pháp mô hình
hoá.
- Phương pháp toán học trong nghiên cứu khoa học: Sử dụng
đặc biệt là toán xác suất thống kê trong thu thập và xử lý các số liệu
điều tra.
7. Đóng góp lợi ích của đề tài.
4
- Giúp các thành viên trong gia đình thấy được vai trò của
mình trong việc xây dựng nhân cách con người.
- Đưa ra được một số nội dung và phương pháp giáo dục cơ
bản trong gia đình.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
GIA ĐÌNH TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI.
1. Khái niệm về gia đình.
Gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội), hình thức tổ
chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và
quan hệ huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và
con cái, giữa anh chị em và những người thân khác cùng chung
sống và có kinh tế chung (theo từ điển triết học - NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội năm 2002).
Gia đình là môi trường cơ sở, đầu tiên có vị trí quan trọng và
có ý nghĩa lớn lao đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách. Đó là môi trường gắn bó trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân.
Gia đình là nơi tạo ra các mối quan hệ gắn bó ruột thịt, truyền thống
- một thứ tình cảm khó có thể chia cắt. Do đó, có phải trải qua bao
biến động về mọi phương diện, con người vẫn luôn hướng về quê
hương, gia đình.
2. Các chức năng của gia đình.
Gia đình có các chức năng sau:
5
- Duy trì và phát triển nòi giống.
- Lao động, sản xuất để tồn tại và phát triển.
- Nuôi dạy con cái trưởng thành.
- Là tổ ấm cho mọi thành viên trong gia đình.
3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát
triển của mỗi cá nhân, xã hội và đất nước.
a. Đối với cá nhân.
- Gia đình là tổ ấm của mỗi thành viên trong gia đình, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, là cái nôi nuôi
dưỡng con người.
- Gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc chăm sóc - giáo
dục và bảo vệ các thành viên trong gia đình đặc biệt là trẻ em, phụ
nữ và người cao tuổi.
- Gia đình là nơi cung cấp kiến thức, kỹ năng tới các thành
viên trong gia đình, là lá chắn vững vàng ngăn chặn sự xâm nhập
của các tệ nạn xã hội vào gia đình.
- Gia đình là cầu nối trong mối quan hệ giữa các thành viên,
nuôi dưỡng tình cảm yêu thương lẫn nhau (vợ chồng, bố mẹ, con
cái, ông bà - con cháu).
- Kinh tế gia đình phát triển, giúp xoá đói giảm nghèo qua đó
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá, giáo dục, sức khoẻ
của các thành viên trong gia đình.
b. Đối với xã hội.
- Gia đình là nhân tố quyết định trong sự phát triển bền vững
của xã hội; gia đình là tế bào của xã hội; gia đình cũng là nơi tiếp
6
nhận những giá trị nhân văn mới (bình đẳng giới, tăng quyền cho
phụ nữ, chăm sóc bảo vệ trẻ em...).
- Gia đình giúp giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống, phong tục tập quán tốt đẹp và bản sắc văn hoá dân tộc, đồng
thời góp phần phòng tránh các tệ nạn xã hội.
- Gia đình lành mạnh giúp xã hội tránh được những tệ nạn xã
hội.
- Gia đình là cầu nối trong mối quan hệ với họ hàng và các
thiết chế xã hội (giáo dục, y tế, văn hoá - xã hội).
c. Đối với đất nước.
- Gia đình là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh,.
- Gia đình ít con, no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động
lực của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống.
- Gia đình sản sinh cho xã hội, đất nước những con người
mới, nhân cách tốt, phát huy truyền thống hiếu học, nề nếp gia
phong, kinh tế hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA GIÁO DỤC GIA ĐÌNH HIỆN
NAY.
1. Thực trạng về gia đình Việt Nam hiện nay.
7
- Gia đình hạt nhân ngày càng trở lên phổ biến.
- Mức sống hộ gia đình đang được cải thiện
- Các giá trị gia đình đang bị tác động do chịu ảnh hưởng sâu
sắc của nền văn hoá Á đông truyền thống. Các mối liên kết gia đình
như quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình và họ
hàng thân tộc luôn được coi trọng và đề cao trong xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu xã hội học cho thấy mối liên kết này
đang suy giảm dưới tác động của thay đổi cấu trúc gia đình và quá
trình phát triển, đặc biệt trong bối cảnh mở cửa và toàn cầu hoá.
2. Thực trạng của giáo dục gia đình hiện nay.
Trong giai đoạn này nhiều công việc của gia đình đã được các
thiết chế xã hội khác đảm nhận với sự đầu tư của nhà nước. Gần
như giáo dục gia đình bị xem nhẹ, chủ yếu dựa vào hệ thống giáo
dục nhà trường và xã hội. Hệ thống các nhà trẻ, lớp mẫu giáo,
trường học, trạm xá, bếp ăn tập thể phát triển rộng khắp. Chức năng
nuôi dưỡng con cái, chăm sóc người già, gia đình ít phải gánh vác.
Kinh tế gia đình phó mặc cho xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan quản lý
và điều khiển.
Giai đoạn này cả nước đi lên CNXH, thực hiện cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, nóng vội chủ quan cuối cùng những năm
70, cả nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài. Hậu quả
là sản xuất không phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là gia đình công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Điều
này gây trở ngại lớn cho giáo dục gia đình và khó khăn trong việc
thực hiện các chức năng của gia đình.
8
3. Những khó khăn đối với giáo dục gia đình.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường, quan hệ mua bán, sức
mạnh của đồng tiền làm ảnh hưởng mạnh mẽ tới quan hệ gia đình,
nhiều thang bậc giá trị trong gia đình ngày càng bị xói mòn như vấn
đề đạo đức, nhân cách, lối sống, văn hoá giao tiếp, ứng xử...
Bước vào thế kỷ XXI, toàn nhân loại chứng kiến sự phát triển
như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện đại và lực lượng sản xuất
mới, nhưng lại phải đương đầu với biết bao thách thức trong đó
nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ của nền tảng xã hội của gia đình truyền
thống. Gia đình từ chỗ là thành trì của các giá trị truyền thống tinh
thần dễ bị công phá, dễ trở thành điểm xung đột của xã hội.
Khộng ít gia đình bị cuốn theo vòng xoáy của nền kinh tế thị
trường, chỉ lo làm giàu, buông lỏng chăm sóc trẻ em đặc biệt là việc
học tập của con cái. Nhiều gia đình làm ăn phi pháp, thua lỗ, phá
sản... gây nên bầu không khí căng thẳng nặng nề ảnh hưởng tới chất
lượng giáo dục con cái.
Không ít bậc cha mẹ thiếu trình độ học vấn, trình độ khoa học,
thiếu nhân cách nên không những không đáp ứng mà còn gây hậu
quả cho quá trình xã hội hoá con cái. Giáo dục gia đình chưa đáp
ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Nhiều gia đình chưa có phương pháp giáo dục con cái đúng
đắn. Họ chỉ quan tâm lo mặc, ăn, giải trí mà không chú ý giáo dục
tri thức, đạo đức cho con cái, bỏ mặc cho nhà trường và các tổ chức
xã hội. Thậm chí một số gia đình thả lỏng con cái phát triển tự nhiên
trong các môi trường khác.
9
4. Những thuận lợi của giáo dục gia đình.
Chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nhiều gia đình
phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, mức sống ngày càng được
nâng cao có điều kiện chăm sóc, giáo dục con cái nâng cao chất
lượng cuộc sống.
5. Nguyên nhân của những hạn chế đối với giáo dục gia
đình.
- Đất nước chuyển đổi nhanh chóng từ nền sản xuất nông
nghiệp lạc hậu sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại nên gia đình
chưa có khả năng thích ứng còn mang nặng thói quen, tư duy của
nền sản xuất nhỏ lạc hậu.
- Xã hội đổi mới nhưng nhiều bậc cha mẹ chưa được chuẩn bị
đầy đủ những kiến thức giáo dục con cái trong tình hình mới, nên
họ chưa có định hướng rõ rệt dễ xảy ra tình trạng từ bỏ toàn bộ cái
cũ tiếp thu văn minh thế giới không có chọn lọc, không phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, thậm chí có cả những cái xấu xa.
- Kinh tế xã hội và gia đình còn quá thấp kém, lại sinh nhiều
con, dân số quá đông không có điều kiện chăm sóc nuôi dạy một
cách chu đáo. Đảng, nhà nước và các tổ chức xã hội đã quan tâm
nhiều tới gia đình nhưng hệ thống chính sách và luật pháp chưa
đồng bộ kém hiệu lực nên tình trạng tảo hôn, bạo hành gia đình, bất
bình đẳng giới vẫn thường xuyên diễn ra đe doạ hạnh phúc gia đình
và ảnh hưởng tới giáo dục con cái.
10
- Quản lý mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với các
luồng văn hoá độc hại bên ngoài xâm nhập vào nước ta còn chưa
tốt, điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến giáo dục vị thành
niên trong các gia đình. Trình độ dân trí còn thấp, nhận thức còn hạn
chế, tư tưởng thực dụng còn ăn sâu vào một bộ phận nhân dân, nên
có những gia đình đề cao việc kiếm tiền, không thực sự sát sao đến
việc giáo dục con cái. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các môi
trường giáo dục trẻ em, điều này gây hậu quả làm hạn chế hiệu quả
giáo dục trong mỗi gia đình, nhiều bậc cha mẹ bỏ mặc việc giáo dục
con cái cho nhà trường.
6. Kết luận chương II.
Khi nói đến giáo dục gia đình, chúng ta thường chỉ nghĩ đến
vai trò của nó đối với trẻ em. Thực tế giáo dục gia đình có ảnh
hưởng lâu dài, toàn diện đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời họ.
Giáo dục gia đình là cơ sở cho sự hình thành nhân cách gốc của trẻ
em, thúc đẩy sự phát triển nhân cách của thanh niên, đồng thời gìn
giữ củng cố nhân cách con người đã trưởng thành và khi về già.
Vì vậy, sự nghiệp giáo dục của gia đình là công việc thường
xuyên suốt đời và có hệ thống, trong đó mỗi thành viên: bố mẹ, ông
bà, anh chị tuy có vai trò, vị trí khác nhau nhưng đều cần thiết công
việc giáo dục mỗi cá nhân từ những góc độ khác nhau.
CHƯƠNG III:
11
YÊU CẦU CỦA SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
VỚI GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG VÀ CÁC THIẾT CHẾ XÃ HỘI
KHÁC.
1. Đối với gia đình.
- Giáo dục con cái trong gia đình không phải là công việc
riêng tư của bố mẹ mà còn là trách nhiệm đạo đức, nghĩa vụ của
công dân của những người làm cha mẹ. Mặt mạnh của giáo dục gia
đình là giáo dục mang tính xúc cảm. Giáo dục gia đình mang tính cá
biệt rõ trên các cơ sở sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi khác nhau
của trai gái.
- Giáo dục gia đình mang tính linh hoạt và thiết thực trên cơ sở
thống nhất lợi ích giữa người dạy và người học. Những mặt mạnh
đó bổ sung cho những thiếu hụt của giáo dục nhà trường.
2. Đối với nhà trường.
Để hình thành những con người có phẩm chất cơ bản: lòng
nhân ái, sự đồng cảm của nhân loại, sự quan tâm đến lợi ích của
cộng đồng dân tộc, hài hoà lợi ích của cá nhân, gia đình. Cần có sự
hợp tác, sự hoà hợp nhịp nhàng, đồng bộ và hỗ trợ cho nhau của 3
lực lượng giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội thành một quá
trình thống nhất, liên tục.
- Nhà trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo
dục, được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước,
nắm vững quan điểm đường lối, mục đích, mục tiêu bồi dưỡng, đào
12
tạo con người của chế độ XHCN. Mặt khác nhà trường luôn luôn có
đội ngũ thầy cô giáo - những chuyên gia sư phạm có trình độ, mực,
đạo đức... đã được đào tạo có hệ thống, đã được tuyển chọn kỳ công
để từ đó thống nhất và tập hợp được sức mạnh của toàn xã hội
trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
3. Đối với xã hội.
Ngày nay hiệu quả giáo dục xã hội chưa đạt như mong muốn
bởi lẽ nội dung và hình thức giáo dục trẻ của các đoàn thể xã hội
còn thiếu hấp dẫn đối với lớp trẻ. Những sinh hoạt vui chơi có sự bổ
sung quan trọng cho quá trình giáo dục của gia đình và nhà trường
để hình thành nhân cách con người, đáp ứng yêu cầu của gia đình,
xã hội hiện nay.
Để phát huy tính tích cực giáo dục xã hội, trước hết các tổ
chức cơ quan đoàn thể phải thực sự vững mạnh, thực hiện được
những chức năng cơ bản, chủ yếu của mình góp phần bảo vệ, xây
dựng chính thể nhà nước XHCN không còn những tệ nạn xã hội tác
động tự phát, tiêu cực đến nhân cách của mỗi con người, nhất là đối
với thế hệ trẻ.
KẾT LUẬN
13
1. Kết luận của đề tài.
Công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta đòi hỏi phải phát huy
tối đa và có hiệu quả mọi nguồn nhân lực, trong đó có nguồn lực
con người giữ vai trò quan trọng và quyết định nhất, là động lực của
sự phát triển bền vững. Vì vậy, việc chăm lo giáo dục con người có
nhân cách, sức khoẻ, trí tuệ, có lý tưởng, hoài bão khát khao được
cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước là trách nhiệm của gia
đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, giáo dục gia đình giữ vai trò
đặc biệt quan trọng là nơi hình thành nhân cách gốc của mỗi con
người, hoàn thiện con người cả về mặt tự nhiên và xã hội. Đề tài
đưa ra cũng là một đóng góp lớn cho nền giáo dục hiện nay.
2. Các giải pháp cơ bản.
Lãnh đạo tổ chức và quản lý phải đẩy mạnh quá trình xã hội
hoá đối với công tác gia đình.
Truyền thông giáo dục, vận động: nâng cao nhận thức của các
cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên trong gia đình về vị trí,
vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động
phòng chống các tệ nạn xã hội.
Kinh tế gia đình: xây dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ có
liên quan để góp phần củng cố ổn định và phát triển kinh tế gia
đình.
Mạng lưới dịch vụ gia đình và cộng đồng: xây dựng, củng cố
và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia đình và cộng đồng, tạo
14
điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức pháp luật, văn
hoá, y tế, giáo dục...
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Giáo dục học gia đình - TS. Vũ Hồng Tiến (chủ
biên), TS. Nguyễn Mai Hồng, TS. Kim Văn Chiến, ThS. Hoàng
Thúc Lân, ThS. Phạm Văn Tư (NXB Giáo dục, 2007).
- Giáo trình Giáo dục học (tập 2) - Trần Thị Tuyết Oanh (chủ
biên), Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn Diện,
Lê Tràng Định - NXB Đại học Sư phạm, 2007.
- Hỏi đáp về xây dựng gia đình văn hoá ở làng bản buôn, NXB
Văn hoá dân tộc, 2006.
- Những nội dung chủ yếu của chiến lược xây dựng gia đình
Việt Nam, 2005 - 2010 (Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em - Hà Nội,
12/2006).
16
- Xem thêm -