Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tư tưởng về con người của nguyễn trãi và ý nghĩa hiện thời của nó...

Tài liệu Tư tưởng về con người của nguyễn trãi và ý nghĩa hiện thời của nó

.PDF
73
505
136

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ NHUNG TƢ TƢỞNG VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TÀI ĐÔNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN BÙI THỊ NHUNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chƣơng 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN TRÃI. ...... 7 1.1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV .................... 7 1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng con người của Nguyễn Trãi . 11 1.3. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi ................................................... 17 Chƣơng 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ CON NGƢỜI ................................................................................... 27 2.1. Tư tưởng nhân bản của Nguyễn Trãi ........................................................ 27 2.2. Tư tưởng dân bản của Nguyễn Trãi .......................................................... 36 2.3. Tư tưởng về đạo làm người của Nguyễn Trãi........................................... 39 Chƣơng 3: Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA TƢ TƢỞNG NGUYỄN TRÃI VỀ CON NGƢỜI............................................................................................... 46 3.1. Ý nghĩa của tư tưởng nhân bản ................................................................. 46 3.2. Ý nghĩa của tư tưởng dân bản ................................................................... 55 3.3. Ý nghĩa của tư tưởng về đạo làm người ................................................... 58 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 64 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng đất nước, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp đẩy lùi các cuộc xâm lăng của giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính thời khắc đó đồng thời đã sản sinh biết bao anh hùng hào kiệt, viết nên trang sử hào hùng của dân tộc. Trong số những anh hùng đó, Nguyễn Trãi đã nổi bật lên như một ngôi sao sáng mà sự nghiệp và tư tưởng mãi mãi ghi sâu vào tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam. Tên tuổi của ông sáng chói trên cuốn sử vàng dân tộc, là kết tinh cao đẹp nhất giữa thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XV với giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tinh hoa tư tưởng phương Đông. Có được vị trí đó, không những là do cuộc đời, đức độ và ý thức vì dân, vì nước của ông đạt tới tầm cao của thời đại, mà ông còn khái quát lên những vấn đề có tính quy luật trong công cuộc cứu nước và dựng nước, chỉ ra được tầm quan trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tư duy của dân tộc lên một trình độ mới. Có thể nói rằng, Nguyễn Trãi là một thiên tài trên nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà chính trị lỗi lạc, một nhà ngoại giao xuất sắc, một nhà văn hóa, nhà tư tưởng uyên thâm của mọi thời đại. Những lý luận của ông không chỉ có ý nghĩa đối với đương thời, mà còn có những giá trị sâu xa về sau. Đúng như C.Mác đã viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại của mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”. Truyền thống tư tưởng của người Việt Nam luôn coi trọng con người và đề cao vai trò của nhân tố con người trong tiến trình phát triển đời sống xã hội. Ẩn chứa đằng sau các lĩnh vực và các giá trị văn hóa, tư tưởng ấy là tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi. Ông là nhà tư tưởng mở đầu triều đại Lê Sơ lấy Nho giáo làm học thuyết chính trị chính thống; là người 1 học Nho, đỗ đạt cao, nhưng sự quan tâm của ông không phải là những điều có tính chất kinh viện, những khảo cứu rắc rối, những sao lục ý kiến của tiền nhân Nho gia để tán thưởng và noi theo như nhiều nhà nho trong lịch sử đã mắc phải, mà là những vấn đề do thực tiễn đất nước đặt ra. Chính vì thế mà những tư tưởng của ông không chỉ có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại Lê Sơ, nó còn có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Đặc biệt là tư tưởng nêu cao tinh thần tự hào, tự tôn và ý chí độc lập dân tộc, là lòng yêu nước thương dân, thân dân, trọng dân của ông. Có thể nói, trước những biến đổi của đời sống xã hội, đó là sự bất cập trong những vấn đề về văn hóa - tư tưởng, đạo đức - lối sống của con người trong thời đại ngày nay, cho thấy cần phải xây dựng hệ thống lý thuyết về những khuôn mẫu con người hiện nay. Con người ấy phải được kế thừa những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và nền văn minh của thời đại để góp phần bổ sung và làm giàu thêm cho việc xây dựng và phát triển nền giáo dục và văn hóa của Việt Nam hiện nay. Đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi. Trong đó nổi lên các nội dung: quốc gia và quốc gia độc lập, đường lối trị nước, tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng Nguyễn Trãi,... nhưng tư tưởng của ông về con người vẫn chưa được đề cập nhiều, cho nên tôi lựa chọn vấn đề“Tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi và ý nghĩa hiện thời của nó” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Nguyễn Trãi là một nhân vật mang vóc dáng lớn lao không những trong thơ ca, khoa học và cả trong lịch sử tư tưởng của đất nước Việt Nam. Trải qua đã 570 năm ngày mất của người con ưu tú đất Việt mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa hiểu hết về con người tài năng xuất chúng này. Những 2 nghiên cứu về ông trên nhiều bình diện khác nhau vẫn đang diễn ra khắp nơi trong và ngoài nước. Trong đó có số lượng không nhỏ những công trình nghiên cứu Nguyễn Trãi với tư cách là một nhà tư tưởng lịch sử Việt Nam. Thế nhưng, ở một khía cạnh khá quan trọng ở tác gia Nguyễn Trãi cho đến nay vẫn chưa có sự nghiên cứu thỏa đáng, đó chính là tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi. Trong cuốn sách Nguyễn Trãi - về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản Giáo dục năm 1998, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã tập trung hầu hết những bài viết về Nguyễn Trãi, những bài viết này được trích lọc từ nhiều nguồn khác nhau đã góp phần mang đến một cái nhìn toàn diện về tác gia Nguyễn Trãi. Các bài viết trong quyển sách đã phân tích, đánh giá, bình phẩm và đưa ra nhận định về Nguyễn Trãi với nhiều góc cạnh, nhiều phương diện khác nhau về ông. Trong các công trình nghiên cứu về Lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung, Nguyễn Trãi nói riêng phải kể đến cuốn: “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, tập I, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, viết từ thời kỳ Nguyên thủy đến thế kỷ XVIII đã phân tích một cách khá toàn diện nội dung tư tưởng về thế giới quan, tư tưởng chính trị - xã hội, triết học, đạo đức,… của các đại biểu như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Lê Qúy Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm. Trong cuốn này, tác giả đã dành một chương để khảo cứu về Nguyễn Trãi và khẳng định những tư tưởng của Nguyễn Trãi không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn vượt qua giới hạn không gian, thời gian để tỏ rõ sức mạnh định hướng, chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn. Trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Nguyễn Trãi”, do Doãn Chính và Bùi Trọng Bắc chủ biên đã khái quát tiền đề hình thành tư tưởng triết học, nội dung, đặc điểm và giá trị lịch sử trong tư tưởng triết học Nguyễn Trãi. Đồng thời khẳng định tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi không 3 chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và thiết thực với yêu cầu lịch sử xã hội Việt Nam thời Lê Sơ và thực tiễn xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay. Đây là những thành quả to lớn trong việc nghiên cứu lịch sử phát triển tư duy lý luận của dân tộc ta. Ngoài ra, các tác giả khác thì nhìn nhận Nguyễn Trãi ở các phương diện khác như: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc” của Phạm Văn Đồng; Võ Nguyên Giáp đặt mối tương quan “Nguyễn Trãi và nền văn hiến Đại Việt”; Vũ Khiêu nhận định Nguyễn Trãi “Người trí thức từ tinh hoa của dân tộc”;v.v… Tất cả những bài viết đó vẫn chưa có bài viết nào bàn trực tiếp về con người trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, qua sự khảo sát của người viết thì hầu hết những sách, báo viết về Nguyễn Trãi đều chưa hoàn toàn chú trọng đến vấn đề con người trong tư tưởng của Nguyễn Trãi mà phần đông đi vào tìm hiểu tư tưởng thân dân, nhân nghĩa, đường lối trị nước… của ông mà thôi. Tóm lược lại lịch sử vấn đề của đề tài “Tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi và ý nghĩa hiện thời của nó”, tuy đây không phải là đề tài mới hoàn toàn nhưng những bài nghiên cứu có liên quan đến đề tài chưa nhiều. Tuy vậy, những bài viết, những công trình nghiên cứu có liên quan ít nhiều đến Nguyễn Trãi, đều bổ trợ rất lớn trong quá trình thực hiện đề tài này của người viết và người viết dựa vào đó làm nền tảng cho việc đưa ra những nhận định, những cách lí giải nhằm làm sáng tỏ chủ đề về con người trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích làm sáng tỏ tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi và ý nghĩa hiện thời của nó Để thực hiện mục đích trên thì luận văn cần giải quyết một số nhiệm vụ sau: 4 - Phân tích làm rõ bối cảnh xã hội của Đại Việt thế kỷ XV và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Trãi về con người. - Làm rõ, phân tích, trình bày một cách hệ thống các nội dung cơ bản trong tư tưởng Nguyễn Trãi về con người. - Làm rõ những giá trị và ý nghĩa trong tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi đối với sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Tư tưởng con người của Nguyễn Trãi. - Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng con người của Nguyễn Trãi. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Người viết chủ động lựa chọn phương pháp tổng hợp theo vấn đề. Người viết dựa trên tư liệu tổng hợp đó phân tích làm nổi bật từng đặc điểm tư tưởng con người của Nguyễn Trãi. Phương pháp lịch sử, để thấy được vai trò của xã hội tác động như thế nào đến sự hình thành tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi. Song song với hai phương pháp trên, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích, logic. Người viết vận dụng phương pháp này để phân tích các đặc điểm, các nhân tố cấu thành nên con người đại chúng và con người cá nhân Nguyễn Trãi trên cơ sở đó tổng hợp để đưa ra những nhận định xác đáng về tư tưởng con người Nguyễn Trãi. Ngoài ra, người viết còn biết vận dụng các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, ,… để nhằm hỗ trợ khi phân tích, tổng hợp vấn đề. Kết hợp với các phương pháp trên là việc vận dụng các thao tác bình luận, phân tích,…để người viết rút ra những nhận xét chung nhất nhằm làm sáng rõ vấn đề “Tư tưởng về con người của Nguyễn Trãi và ý nghĩa hiện thời của nó”. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tưởng của Nguyễn Trãi về con người và ý nghĩa hiện thời của nó. Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với giai đoạn lịch sử trước đó mà cả đối với hiện tại đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu gồm 3chương: Chƣơng 1: Bối cảnh xã hội và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng con người của Nguyễn Trãi 1.1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV. 1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng con người của Nguyễn Trãi. 1.3. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi. Chƣơng 2: Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nguyễn Trãi về con người 2.1. Tư tưởng nhân bản của Nguyễn Trãi 2.2. Tư tưởng dân bản của Nguyễn Trãi 2.3. Tư tưởng về đạo làm người của Nguyễn Trãi Chƣơng 3: Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng Nguyễn Trãi về con người 3.1. Ý nghĩa của tư tưởng nhân bản 3.2. Ý nghĩa của tư tưởng dân bản 3.3. Ý nghĩa của tư tưởng về đạo làm người 6 Chƣơng 1 BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN TRÃI. 1.1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV Xã hội Đại Việt giai đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV với nhiều biến động xoay chuyển. Đó là sự tồn tại và phát triển thịnh vượng của chế độ điền trang thái ấp nhà Trần sau một thời gian dài đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Điều này là bởi vì, hình thức quản lý xã hội này đã tạo đà cho công hầu, quý tộc có nhiều đặc quyền đặc lợi trong quản lý nhà nước và có địa vị về cả kinh tế. Sự phát triển và lấn áp quyền lực của quý tộc, công hầu khiến cho nhà nước nhiều lần phải can thiệp bằng pháp lệnh về việc tranh cướp, tranh kiện ruộng đất. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại rằng: “Quý Hợi, năm thứ 10 (1323), xuống chiếu rằng phàm việc tranh ruộng mà ruộng có lúa thì hãy chia ra làm hai phần, đền lại cho người cấy một phần, còn một phần lưu lại” [75, tr. 125]. Thêm vào đó, sự tồn tại của chế độ này trong một khoảng thời gian dài đã biến phần ruộng đất công làng xã thành ruộng đất ban cấp cho quý tộc làm thái ấp cho quan lại làm lương bổng và ruộng thưởng công, “đây chính là nhân tố hạn chế nguồn tài chính nhà nước” [9, tr. 247]. Đến nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển nhưng sản xuất thì ngày một trì trệ, đời sống nông nô, nô tì trong các thái ấp bị bần cùng hóa, thêm vào đó mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra nông dân nổi dậy bạo động, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Yên Phụ (Hải Dương). Không những vậy chế độ điền trang thái ấp đã trở thành một vật chướng ngại cho sự phát triển của tài năng của các bậc sĩ phu, nho sĩ khiến “tuyệt đại đa số các tầng lớp xã hội (nô 7 tì, nông dân tự do, địa chủ, nho sĩ) muốn có cải cách nhằm làm cho xã hội tiến lên” [39, tr. 14]. Trong triều thì vua quan ăn chơi sa đọa, những công thần Trần Nguyên Đán hay như Chu Văn An từng dâng sớ Thất trảm không thành đành lui về ở ẩn, đã gây ra một cuộc khủng hoảng chốn cung đình. Bên ngoài thì ngoại xâm gây rối phía Nam là quân Chămpa, phía Bắc là kế hoạch bành trướng của giặc Minh. Bộ máy chính trị nhà nước trước đây, ở những vị trí quan trọng thiết yếu chỉ dành cho người tôn thất thì đến cuối thế kỷ XIV ngày càng có sự tham gia của nho sĩ xuất thân khoa cử Nho giáo. Trong xã hội nảy sinh mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc tôn thất và tầng lớp quan liêu. “Về mặt nào đó, sự mất dẫn vai trò chính trị của tầng lớp quý tộc tôn thất đã làm cho vai trò nổi trội trước đây vì thế mà rơi dần vào thế xuống dốc” [9, tr. 262]. Có thể thấy rằng, xã hội Đại Việt cuối thế lỷ XIV đầu thế kỷ XV đang lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc: chính quyền suy yếu, bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống trị phân tán, sa đọa, kinh tế nông nghiệp sa sút đã dẫn đến chỗ nông dân nghèo, gia nô, nô tì nổi dậy chống đối hoặc là chạy chốn khỏi các thái ấp điền trang. Trong khi đó thì những cuộc tấn công đánh phá của Chămpa lại liên tục diễn ra, dù cuối cùng bị đẩy lùi hẳn, đã làm cho cuộc sống của nhân dân thêm khổ cực, triều chính rối ren, tài chính kiệt quệ. Đã thế, Đại Việt lại đứng trước nguy cơ một cuộc ngoại xâm ngày càng đến gần. Bên trong khủng hoảng, giặc ngoài đe dọa. “Cuộc khủng hoảng này bộc lộ rõ ràng yêu cầu thủ tiêu kinh tế điền trang thái ấp và quan hệ nông nô, nô tì để mở đường cho chế độ phong kiến tiến lên một giai đoạn mới cao hơn” [10, tr. 94] Trước tình thế đó, năm 1400 Hồ Quý Ly ép vua Trần Thiếu Đế phải nhường ngôi, lập ra triều Hồ. Với tài thao lược của mình thì Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt cải cách tiến bộ trên nhiều mặt. Đó là việc xây dựng một nhà nước chuyên chế tập quyền vững mạnh có xu hướng Pháp gia, trên lĩnh 8 vực quân sự tiến hành thử nghiệm và chế tạo súng thần công, về kinh tế ngay từ khi còn làm quan nhà Trần ông đã tiến hành phát hành tiền giấy. Trong lĩnh vực giáo dục, thi cử thì tiến hành mở rộng hệ thống giáo dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền…, tổ chức ngay lại khoa thi lấy đỗ Thái học sinh. Để giải quyết tình trạng biến dạng của điền trang thái ấp nhà Trần, Hồ Quý Ly cho thi hành chính sách hạn điền, hạn nô “một chính sách cải cách được cho là tiến bộ nhất của Hồ Quý Ly đó là ông đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của quý tộc Trần. Điền trang bị suy yếu từ đó” [56, tr. 81- 82]. Tuy nhiên, Hồ Quý Ly lên ngai vàng giữa lúc vận nước lâm nguy thù trong giặc ngoài, lại thêm việc truất ngôi nhà Trần nên chưa được lòng dân, hơn nữa Hồ Quý Ly còn “là con người thủ đoạn độc đoán, mất lòng dân, chủ quan duy ý chí” [56, tr. 87], vì thế công cuộc cải cách và chế độ của Nhà Hồ nhanh chóng sụp đổ. Thêm nữa là sự bành trướng của nhà Minh âm mưu biến Đại Việt thành quận, huyện của chúng. Phía nhà Hồ thì sức yếu lực mỏng đã không thể chống lại sức mạnh của ngoại xâm phương Bắc. Việc làm mất nước của nhà Hồ được nhiều học giả phân tích bởi “nhà Hồ đã mất dân từ trước” [10, tr. 95] Sau khi thủ tiêu nhà Hồ, quân Minh tràn vào Đại Việt hòng thiết lập một nền thống trị thuộc địa hà khắc, âm mưu biến Đại Việt thành một quận của Trung Hoa. Trong gần hai thập kỷ (1407 - 1427), văn hóa Đông Á Nho giáo Trung Hoa - trong thời gian đô hộ đã được cưỡng bức du nhập ồ ạt vào Đại Việt, lấn át dần văn hóa Nam Á bản địa. Chính vì thế khi nhà Lê khôi phục nền độc lập chính trị, nền văn hóa đó vẫn còn đọng lại, ở một mặt nào đó vẫn được bổ sung thêm, tạo nên một sự chuyển đổi mô hình thiết chế, “từ nền quân chủ Phật giáo quý tộc sang nền quần chủ Nho giáo quan liêu” [56, tr. 108]. Trước những biến động của xã hội, cùng những chế độ áp bức, bóc lột do quân Minh đặt ra lại càng làm cho dân tộc Việt Nam hăng hái đứng lên 9 đánh đuổi ngoại xâm. Từ nam chí bắc phong trào vũ trang đánh giặc cứu nước của nhân dân đã tự động nổi lên ở nhiều nơi. Đó là các cuộc khởi nghĩa của nhân dân huyện Đông Lan và huyện Trà Thanh thuộc Diễn Châu. Họ đốt phá nhà ngục và giết chết bọn huyện quan. Tại miền Thất Nguyên (Thất Khê Lạng Sơn), nhân dân thiểu số cũng nổi lên đánh quân Minh. Ở Đông Triều (Quảng Ninh), Phạm Trấn đã dựng cờ khởi nghĩa và đưa Trần Nguyệt Hồ lên làm minh chủ. Đầu năm 1480, Chu Sư Nhạn, Trần Nguyên Khoáng nổi lên ở Thái Nguyên; Hà Thế Trật, Hà Khả Chinh, Hà Nhân Tráng nổi lên ở Tam Đái (Phú Thọ); Trần Nguyên Tôn, Nguyễn Nhật Tân nổi lên ở Ninh Giang ( Hải Dương)….[39, tr. 16]. Bên cạnh những phong trào của quần chúng, còn có hai cuộc khởi nghĩa của tôn thất nhà Trần vừa đánh đuổi ngoại xâm vừa muốn lập lại ngôi vua cho nhà Trần. Đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa của Giản Định đế Trần Ngỗi và cuộc khởi nghĩa của Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng, tuy nhiên không được bao lâu, do nội bộ phong trào khởi nghĩa không đoàn kết nhất trí lại bị quân Minh bắt được chủ tướng nên cuộc khởi nghĩa đi đến thất bại. Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa này là điều không thể tránh khỏi, bởi cũng như nhà Hồ mất nước vì đã mất dân từ trước. Thực chất các phong trào khởi nghĩa của tôn thất nhà Trần không phải chỉ vì giành độc lập cho nhân dân mà còn muốn lập lại ngôi vua nhà Trần. Nên chưa thể tập hợp được số đông quần chúng càng không thể tạo dựng được sự tin tưởng ở nơi nhân dân. Đó chính là lý giải vì sao suốt mười năm kháng chiến trước Lam Sơn khởi nghĩa, đã có rất nhiều phong trào nổ ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Song một con người như Nguyễn Trãi có chí lớn, có lòng yêu nước tha thiết, có tài năng nhưng ông lại không đi theo một phong trào nào mà lại chọn cách mai danh ẩn tích ở thành Đông Quan chờ thời cơ. Bởi vì, chính thời khắc này giúp ông nhận ra rằng, muốn đánh bại giặc Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc phải dựa vào dân, phải phát động được lực lượng đông đảo quần 10 chúng nhân dân, cũng chính là phải đề ra những chủ trương chính sách phù hợp với lợi ích của nhân dân. Từ những vấn đề trên, có thể nói xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV là một giai đoạn lịch sử đầy biến cố. Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên gắn liền với giai đoạn này. Đặc biệt Nguyễn Trãi từng sống suốt mười năm với cảnh bần cùng thiếu thốn tại thành Đông Quan để mưu toan kế sách đánh giặc cứu nước. Rồi phò Lê Lợi cùng ông “nếm mật nằm gai”, tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Những tác động xã hội đó đã hun đúc cho Nguyễn Trãi những tư tưởng tiến bộ về nhân sinh quan. Bởi thế, trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi tác gia luôn luôn đề cập đến con người, vận nước, quốc gia dân tộc và tư tưởng về việc xây dựng một xã hội tiến bộ vì con người, vì sự phát triển. 1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tƣ tƣởng con ngƣời của Nguyễn Trãi 1.2.1. Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Lão - Trang Nước Việt nằm trên con đường giao thoa của nhiều luồng văn hóa, tư tưởng khác nhau chính vì thế cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, các học thuyết này cũng đồng thời du nhập và dung hòa cùng truyền thống văn hóa bản địa của người Việt. Đến thời Lý, Trần thì Nho - Phật - Lão đều được coi trọng và cùng tồn tại với các lý thuyết về “Tam giáo đồng Nguyên”, “Tam giáo đồng quy”, “Tam giáo nhất nguyên”. Với Nguyễn Trãi, con người sống ở hai thế kỷ hai triều đại vì thế bản thân ông đã có sự tiếp nhận các giá trị tư tưởng đó. Tuy thời đại ông sống, Nho giáo đang dần chiếm ưu thế, và bản thân lại là một nhà Nho song nhìn chung, cả Nho, Đạo và Phật giáo đều ảnh hưởng đến tư tưởng của Nguyễn Trãi theo mức độ đậm nhạt khác nhau. Về Nho giáo thì đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một “phương thức giao lưu văn hóa cưỡng chế” [56, tr. 97]. Vì thế Nho giáo chưa được phổ biến, có ảnh hưởng rất nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy 11 nhiên, từ thời Lý, Nho giáo đã được nhà nước chấp nhận song vẫn chỉ giữ ở vị trí khiêm tốn. Sau khi, nhà Lý tiến hành xây dựng Văn Miếu để thờ Chu Công, Khổng Tử … và dùng làm nơi dạy học cho Hoàng Thái tử, đến năm 1705, nhà Lý tổ chức khoa thi Thái học sinh đầu tiên, lập Hàn lâm viện. Tới triều Trần, các vua Trần cố gắng dung hòa Phật - Nho trong đường lối trị nước, vì thế tầng lớp nho sĩ ra làm quan dưới triều Trần ngày một đông đảo, và có vị thế chính trị hơn. Cuối triều Trần, chính chế độ điền trang thái ấp ngày càng suy yếu, đã giúp cho các nho sĩ không xuất thân từ tầng lớp quý tộc tiến lên giành địa vị chủ chốt trong xã hội. Điều này khiến cho Phật giáo dần mất đi địa vị trong xã hội, thay vào đó Nho giáo đã đạt tới thời kỳ cực thịnh, nhất là dưới thời nhà Lê Sơ. Bên cạnh đó, trong khuôn khổ những cải cách để thiết lập một nhà nước trung ương tập quyền thì Hồ Quý Ly đã đẩy mạnh quá trình Nho giáo hóa xã hội Đại Việt, đó là việc ông bắt đầu cho dịch và chú giải các Kinh Thư, Kinh Thi, mở trường Nho học ở các địa phương và tổ chức thi hương. Chính các yếu tố tiền đề điều kiện đó, mà Nho giáo ngày một phổ biến dưới thời Lý - Trần đặc biệt được Hồ Quý Ly khuyến khích trong công cuộc cải cách xã hội của mình. Chính trong bối cảnh đó, điều kiện xã hội đó đã quy định nội dung tư tưởng của Nguyễn Trãi. Hơn nữa, sau khi ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán mất, ông trở về làng Nhị Khê sống với cha là Nguyễn Phi Khanh, tại đây Nguyễn Trãi đã nhận được sự giáo dục trực tiếp của cha theo khuôn khổ của Nho giáo. Sau khi lớn lên, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, và được bổ nhiệm làm quan Ngự sử đài chánh trưởng dưới triều nhà Hồ cùng với cha ông. “Hai cha con đều là nho sĩ chính thức có tư tưởng khai phóng tiến bộ, không phải giáo điều cố chấp” [63, tr. 18], điều này được ông bộc bạch ở lời thơ: Vãng sự nan tầm thời dị quá Quốc ân vị báo, lão kham liên 12 Bình sinh độc bão tiên ưu niệm Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên (Việc xưa khó tìm kiếm lại được, thời gian lại trôi đi quá nhanh Ơn nước chưa báo mà tiếc rằng đã già rồi Suốt cuộc đời chỉ ôm tấm lòng lo trước cái lo của thiên hạ Ngồi ôm chăn lạnh mà thức suốt đêm thâu) “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)” [79, tr. 91] Chính vì thế có thể thấy rằng nền tảng tư tưởng của Nguyễn Trãi chính là Nho giáo với những kinh văn, giáo điều học thuyết của Nho giáo đã ăn sâu bén rễ trong con người ông. Tại sao lại nói tư tưởng con người của Nguyễn Trãi có nền tảng từ học thuyết của Nho gia, bởi “Nguyễn Trãi đã tự coi mình là môn đệ của của Khổng Tử và Mạnh tử” [39, tr. 51] mà theo học thuyết Khổng - Mạnh là để bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, vua quan phải quan tâm đến đời sống nhân dân, nhân dân mới ủng hộ vua quan, quyền lợi của giai cấp phong kiến do đó mới có thể bảo vệ được. Thực chất là cả Khổng tử cũng như Mạnh tử chủ trương bảo vệ nền quân chủ và hết sức đề cao quân quyền song nền quân chủ chỉ có thể tồn tại khi nó được nhân dân ủng hộ. Muốn được nhân dân ủng hộ thì người làm vua, nắm vận nước phải thích cái thích của dân, phải ghét cái ghét của dân. Mạnh Tử lại nhấn mạnh thêm vai trò của nhân dân khi ông viết: Dân là quý, rồi mới đến Nhà nước, còn vua là nhẹ. Nguyễn Trãi sinh ra trong gia đình Nho học, chịu sự giáo huấn từ nhỏ của người cha là thầy đồ ắt hẳn những tư tưởng về con người về nhân dân trong học thuyết Khổng Mạnh đã được ông tiếp thu và phát triển. Như cách nhận xét của GS Trần Huy Liệu: “Tư tưởng nhân dân của Nguyễn Trãi tuy chịu ảnh hưởng ít nhiều của Khổng - Mạnh nhưng ở Nguyễn Trãi tư tưởng nhân dân đậm đà sâu sắc hơn. Có hệ thống hơn và nhất trí với nhau từ đầu đến cuối hơn, nó vì nhân dân hơn là vì lợi ích của giai cấp phong kiến” [39, tr. 57] 13 Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn thấm nhuần triết lý Phật giáo với đức hiếu sinh, khoan dung, bác ái và từ bi [10, tr. 96]. Bởi học thuyết Phật giáo là chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người, không phân biệt đẳng cấp. Mọi sinh linh đều có cảm giác, từ con người cho đến các sinh vật khác đều gánh chịu khổ đau; là ước vọng mãnh liệt thúc đẩy ta phải giải thoát mình và chúng sinh ra khỏi khổ đau, là tinh thần bình đẳng sơ khai đã gây được sự xúc động trong lòng người trở thành một trong những nguồn gốc sâu xa của lòng thương người, của chủ nghĩa nhân đạo. Nguyễn Trãi đã được tiếp thu những giáo lý đó ngay từ thủa ấu thơ khi ông được sống với cha mẹ và ông ngoại trong cảnh tuyệt diệu của động Thanh hư với Côn Sơn. Chính vì thế, Nguyễn Trãi đã hấp thụ được đạo vị thiền ở Trần Nguyên Đán, thân tộc các vua nhà Trần đều là các vị Thiền sư nổi tiếng như Trần Thái Tông có “Khóa hư Lục”, nhất là Trần Nhân Tông, tổ thứ nhất dòng Trúc Lâm YênTử, mà ông đã nhắc nhở đến trong bài thơ đề chùa Hoa Yên: Quải thạch chân lưu lạc bán không Nhân miếu đương niên di tích lại (Treo trên đã, dải châu rơi xuống lưng trời Dấu tích vua Nhân Tông năm xưa còn đó) “Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự” [79, tr. 125 - 126] Có thể nhận thấy rằng, dấu ấn của Phật giáo trong con người Nguyễn Trãi là sự kế thừa trung thành những giá trị tinh tế nhất “của tiền nhân Lý Trần mà ông đã trực tiếp chịu ảnh hưởng của ông ngoại” [63, tr. 30]. Cùng với Nho, Phật, Nguyễn Trãi còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Lão - Trang. Nếu Nho giáo với các thiết chế chặt chẽ của nó có sức hấp dẫn, gợi mở, trở thành dòng mạch chính chi phối thế giới quan, tư tưởng, phương cách hành xử của Nguyễn Trãi bản lĩnh kiên định thì Đạo giáo với đường lối vô vi chủ trương quay về với tự nhiên với một cuộc sống không bị lệ thuộc bởi thế tục, không vương vấn chuyện đời. Đó là lòng “thanh tĩnh vô vi, nhàn tản, ung 14 dung tự tại, không màng danh lợi của ông” [10, tr. 97]. Nhất là khi về cuối đời, chính sự ảnh hưởng của tư tưởng Đạo gia mà Nguyễn Trãi đã rất muốn từ quan về quê, sống cuộc sống an nhàn thanh tao, ẩn dật hòa mình vào thiên nhiên ở vùng đất Côn Sơn. Nửa cuộc đời của ông đã gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp của đất nước nên đến cuối đời ông muốn thanh tĩnh và sống cùng với thiên nhiên. Để trăm năm trong cõi nhân sinh được sống cùng với nhân dân phục vụ cho nhân dân. Thời gian sống ở Côn Sơn cũng chính là thời gian ông tĩnh tâm nhất trong cuộc đời để suy ngẫm về thế sự và thân phận. Những vẫn thơ ông sáng tác tại đây như là một biểu hiện tự nhiên của tình yêu quê hương đất nước, đồng thời thể hiện những lo lắng của ông cho vận mệnh của đất nước. Thật vậy, trong con người Nguyễn Trãi có “Nho giáo giới hạn tình yêu vào nhân quần xã hội, còn Đạo gia mở rộng ra thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm nguồn cảm hứng nghệ thuật. Nguyễn Trãi đòi khai triển lòng nhân ái ở đức Nhân ra đến tất cả chúng sinh, tức là lòng từ bi bác ái hỷ xả vô biên, vô lượng của đức Phật” [63, tr. 31]. Có được điều này cũng bởi, Nguyễn Trãi sống trong một xã hội đầy biến động, cùng những du nhập hỗn tạp của văn hóa và một cuộc đời đầy truân chuyên của con người đa tài, đa cảm trước cuộc đời như Nguyễn Trãi. 1.2.2. Ý thức dân tộc, lòng tự hào dân tộc Sinh ra trong một thời đại nhiều biến chuyển, đó là sự sụp đổ của nhà Trần, thất bại của nhà Hồ trước công cuộc cải cách và chống giặc ngoại xâm. Thêm vào đó là gần hai thập kỷ nhân dân ta kháng chiến chống Minh giành độc lập dân tộc. Bản thân Nguyễn Trãi đã phải chịu cảnh nước mất nhà tan, nước mắt long tròng tiễn biệt cha và em ở chốn biên ải, cùng vua Lê trải qua những năm tháng nếm mật nằm gai, gây dựng nền độc lập dân tộc. Có thể thấy những áng thơ văn của ông là sự tiếp nối và nối dài của truyền thống yêu 15 nước, lòng tự tôn dân tộc. Bởi thế mà tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” của ông được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc là bước phát triển mới của “Nam quốc sơn hà”. Có được tư tưởng về con người, hướng về nhân dân cũng bởi truyền thống chống giặc ngoại xâm giữ vững chủ quyền của dân tộc từ ngàn xưa. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng… suốt nghìn năm chịu sự đô hộ của ngoại xâm phương Bắc. Rồi đến cuộc kháng chiến chống quân Tống dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn. Quân dân ta đã đánh tan các đạo quân Tống ở Chi Lăng, Bạch Đằng, Tây Kết làm thất bại kế hoạch xâm lược của chúng . Sang nửa cuối thế kỷ XI, quân Tống lại một lần nữa mưu đồ một cuộc ra quân lớn, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của chủ tướng nhà Lý đánh tan các căn cứ xâm lược của địch, làm giảm sút nghiêm trọng lực lượng và phương tiện của quân Tống. Cũng trong giờ khắc kiên cường kháng chiến chống giặc ngoại xâm, thì bài thơ thần – “Nam quốc sơn hà” chính là những lời lẽ đanh thép nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc ta trước mưu đồ bành trướng của ngoại xâm. Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia sứ sở) “Nam quốc sơn hà” Không phải chỉ đến thế kỷ thứ XI sau bài thơ thần trên sông Như Nguyệt mới là áng văn hùng hồn về chủ quyền đất nước, mà trước đó những phong trào đánh đuổi ngoại xâm hàng nghìn năm qua, bao xương máu của những con dân đất Việt đó chính là sự khẳng định đanh thép nhất về nền độc lập, chủ quyền về lãnh thổ, văn hóa… của dân tộc ta. Những lời sấm dạy đó cùng vô số tấm gương anh dũng hy sinh bảo vệ nền độc lập đã hun đúc cho dân tộc ta một tinh thần quật cường, bất khuất 16 chống ngoại xâm. Đó là ba lần cùng vua quan triều Trần đánh đuổi vó ngựa quân Nguyên. Ba lần đánh thắng một kẻ thù hung bạo nhất của thời đại, không phải vì nhân dân ta thời Trần, quân đông, vũ khí nhiều hơn địch, mà chính vì “nhân dân ta thời Trần có tinh thần kiên cường, bất khuất, có truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm và có sức mạnh cả nước cùng đánh giặc” [5, tr. 12]. Dân tộc ta hình thành từ rất sớm, dựng nước rất sớm và ý thức dân tộc cũng nảy nở rất sớm. Trong quá trình đấu tranh lâu dài để dựng nước và giữ nước, ý thức dân tộc của nhân dân ta ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc. Ý thức đó đã có ở tất cả các tầng lớp nhân dân, tất cả các lứa tuổi và ở tất cả các thời đại. Ý thức đó đã tạo nên khí phách anh hùng và những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, ở Nguyễn Trãi và thời đại của ông sống, với biết bao tấm gương của bậc tiền nhân đi trước, biết bao bài học lịch sử về đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã cho ông những nhận định sâu sắc là nền tảng tư tưởng về con người của ông. Hơn ai hết, ông thấu hiểu cảnh nước mất nhà tan, thấu hiểu được vai trò của quảng đại quần chúng trong các cuộc đấu tranh giành và giữ độc lập thái bình. Do đó, Nguyễn Trãi luôn cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ của nhân dân đang bị rên xiết dưới ách đô hộ, nô dịch tàn bạo của giặc Minh gần hai thập kỷ. 1.3. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi 1.3.1. Về thân thế của Nguyễn Trãi Nguồn gốc gia đình của Nguyễn Trãi có ảnh hưởng sâu xa tới cuộc đời của ông sau này nhất là tác động đến sự hình thành những tư tưởng của ông. Sinh ra trong một gia đình có sự phức tạp về thành phần. Bởi mẹ ông thuộc dòng dõi quý tộc là con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, song cha ông lại chỉ là một nho sĩ, lấy việc dạy học làm kế sinh nhai. Nguyễn Trãi - tên hiệu là Ức Trai - ra đời năm Canh Thân (1380) niên hiệu Xương Phù thứ 4 đời Đế Nghiễm nhà Trần, giữa kinh đô Thăng Long 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan