Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối...

Tài liệu Tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của người Việt Nam

.DOCX
13
623
110

Mô tả:

Tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của người Việt Nam
MỤC LỤC 1. Phần mở đầu..................................................................................................1 2. Phần nội dung................................................................................................2 Chương 1: Tư trưởng triết học cơ bản của phật giáo....................................2 I. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo.......3 1. Nguồn gốc ra đời:................................................................................3 2. Sự phát triển của Phật giáo:.................................................................3 3. Tư tưởng cơ bản của Triết học phật giáo:............................................3 Chương 2: Những ảnh hưởng của phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của người Việt Nam:..................................................................................................6 1. Phật giáo du nhập vào Việt Nam:........................................................6 2. Những ảnh hưởng Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của xã hội Việt Nam:...................................................................................................................6 a. Phật giáo trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Viê êt Nam:. .6 b. Các giá trị đạo đức xã hô êi dưới ảnh hưởng của Phật giáo:..............7 3. Phần kết luận................................................................................................11 4. Tài liệu tham khảo.......................................................................................12 Trang: 0 PHẦN MỞ ĐẦU Có thể nói quá trình hội nhập, phát triển của đất nước ảnh hưởng đến không chỉ về mặt văn hóa mà vềđạo đức, lối sống của xã hội, khi đạo đức, lối sống xuống cấp thì trở thành một vấn nạn của toàn xã hội. Trước yêu cầu phát triển của đất nước, sự cần thiết phải xây dựng nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra. Ra đời ở Ấn Độ, trải qua gần 20 thế kỷ tồn tại và phát triển cùng với dân tộc, Phật giáo đã để lại những dấn ấn sâu sắc và trở thành dòng tư tưởng thực sự ăn sâu vào đạo đức, lối sống của con người Việt Nam. Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, Phật giáo phù hợp với đạo đức, lẽ sống của con người Việt Nam, và nó đã có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đề tài “Tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của người Việt Nam” nghiên cứu những nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo; Quá trình du nhập của triết học phật giáo vào Việt Nam. Những ảnh hưởng của Triết học phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trang: 1 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO I. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo 1. Nguồn gốc ra đời: Theo truyền thuyết, người sáng lập Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa (Siddharta Gautama) con vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ (ngày nay thuộc Nê-pan) vào khoảng thế kỉ VI tr.CN. Và để tìm một ý nghĩa chân thật của đời sống, đã sáng tạo ra giáo lý đạo Phật. 2. Sự phát triển của Phật giáo Phật giáo có nhiều tông phái. Trong đó có hai giáo phái chính, đó là Phật giáo Đại thừa (Mahayana: cỗ xe lớn) chủ trương đại chúng hóa đạo Phật để thu hút được đông đảo quần chúng, và phật giáo Tiểu thừa (Hinayana: cỗ xe nhỏ). Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Phật giáo Tiểu thừa được lưu truyền rộng rãi ở Sri Lanka, Mianma, Thái Lan, Lào và Campuchia. Riêng Việt Nam, cả hai giáo phái lớn này đều có mặt từ rất sớm. Giáo phái Đại thừa có một truyền thống lâu đời và đã có mặt tại Việt Nam do các tu sĩ Ấn Độ truyền sang vào cuối thế kỉ thứ II. Giáo phái nguyên thủy Theravada cũng có mặt tại vùng đất này qua nhiều thế kỉ trong các cộng đồng người Khơme tại Nam Bộ và được truyền bá đến các phât tử người Kinh trong thập niên 1940. 3. Tư tưởng cơ bản của Triết học phật giáo Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Phật giáo là Tam tạng kinh của Phật giáo được chia thành ba loại gồm Kinh tạng – Luật tạng – Luận tạng (gọi là Tam tạng tức “ba kho kinh điển”). Về mặt triết học thì quan trọng nhất là “Kinh” và “Luận”. - Kinh tạng: Chép lời Đức Phật giảng về giáo lý. - Luật tạng: Ghi lại việc tu tập và toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định - Luận tạng: Luận tạng do các bậc cao tăng viết ra nhằm giới thiệu giáo lý của Phật giáo một cách có hệ thống, đó là những bài bình chú, giải thích gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) gồm mấy vấn đề lớn sau: 1. Thứ nhất: Thế giới quan Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh Trang: 2 như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu… Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật. - Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã). - Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “hoáng có”, “thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. 2. Thứ hai: Nhân sinh quan Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều trường phái khác của triết học ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng nữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu cứu cánh giác ngộ. Có thể, đây là lời kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng xã hội của Phật giáo, và như vậy Phật giáo thật sự là một trường phái thuộc phái “không chính thống” (tức phái cải cách) của nền tư tưởng Â’n Độ cổ đại. Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào. - Luận điểm thứ nhất (khổ đế): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ). - Luận điểm thứ hai (Nhân đế): là luận điểm giải thích những nguyênnhân sự thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão Tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bở vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc Trang: 3 rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”. - Luận điểm thứ ba (Diệt đế): Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân – Thiện – Mỹ. - Luận điểm thứ tư (Đao đế): là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo. Con đường “giải phóng cá nhân” này gồm 8 nguyên tắc: * Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh) * Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn). * Chính ngữ (giữ lời nói phải). * Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp). * Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng). * Chính tinh tiến (rèn luyện không mỏi mệt). * Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát). * Chính định (an định, tự tác). Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm vào ba đIều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã). Trên đây là hai vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ). Sự phát triển về sau của Phật giáo đã chia thành các tông phái khác nhau và đã có những phát trên rất khác nhau về các quan điểm triết học. Qua những đặc điểm trên ta thấy Triết học ấn Độ cổ đại đã dặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy triết học. Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan triết học. Giải quyết vấn đề bản thể luận, triết học ấn Độ đã hướng tư duy (suy tư) vào nguồn gốc sinh thành của vạn vật, truy cứu nguồn gốc khởi đầu của chúng. Trong quá trình suy tư triết lý ấy, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu thực; vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu hình (Motaphidica) về cội nguồn của tồn tại. Chính tại điểm này làm xuất hiện những cảm nhận về tính biện chứng của tồn tại: Sự thăng bằng của các yếu tố, sự mất thăng bằng của những xung lực nội tại – sự biến hoá sinh thành của vạn vật từ cái vô hình – siêu vật lý - đến cái hữu hình, đa dạng. Một xu hướng khá đậm nét mà các nền triết học khác của thế giơí ít quan tâm đó là sự giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn giáo, đi tìm cái Đại nghã trong cái Tiểu nghã của mỗi thực thể cá nhân. ở đây xu hướng “hướng nội” (khác với xu hướng “hướng ngoại” của tôn giáo phương Tây) trở thành một su hướng trội và cũng thế mạnh của tư duy ấn Độ, nhờ đó mà đã đi sâu vào những “bí ẩn” của đời sống nhân sinh. Những sự thật cuộc đời mà Phật giáo đề cập đến là những hiển nhiên với bất cứ ai, dù người đó thuộc về đẳng cấp, giai cấp hay dân tộc nào, vậy là suy tư triết học nhân sinh ấy đã đạt tới nhân sinh nhân loại. Đó cũng là một Trang: 4 nguyên nhân nội tại khiến cho nó có sức sống toả rộng ra nhiều dân tộc, ở nhiều thời đại. Có thể nói: Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ đại, rất hiếm thấy ở các nền triết học khác. Đó cũng là một giá trị triết học mà con người hiện đại không thể bỏ qua. Chương 2 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở thành một trong những hệ tư tưởng, tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người Việt Nam. Phật giáo là một tôn giáo hoà bình, bác ái vì thế nên ảnh hưởng của Phật giáo chủ yếu là tích cực. 1. Phật giáo du nhập vào Việt Nam Nước ta ở bán đảo Đông Dương: phía bắc giáp Trung Quốc; phía tây giáp Lào, Cam-pu-chia; phía đông, nam giáp Biển Đông (Thái Bình Dương). Trung Quốc và Ấn Độ là nơi sản sinh nền văn minh lớn của loài người. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta bằng 2 đường: - Đường biển: Ấn Độ - phía nam Việt Nam. - Đường bộ : Ấn Độ - phía bắc Việt Nam. + Theo Thiền Uyển Tập Anh - một bộ sách quan trọng về các vấn đề lịch sử, tư tưởng thì Phật giáo được truyền vào nước ta trực tiếp từ Ấn Độ, sau đó truyền bá từ Trung Quốc. Quốc sư đời Lý là Thông Biện có chép mẫu đối thoại giữa pháp sư Đàm Thiên (542-607 sau công nguyên) trình vua Trung Quốc Tùy Cao Tổ có chi tiết: “một phương Giao Châu đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới thì Giang Đông chưa có mà Luy Lâu chùa hơn 20 ngôi, tăng trên 500 người, kinh dịch 15 quyển”. + Nhà Phật học Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng Chữ Đồng Tử và Tiên Dung là 2 Phật tử Việt Nam đầu tiên liên hệ và học Phật pháp trực tiếp nhà sư Phật Quang (người Ấn) tại núi Quỳnh Viên (cửa Sót ở Hà Tĩnh ngày nay) vào khoảng thế kỷ II, III trước công nguyên (tương ứng với thời đại vua A Dục trị vì tại Ân Độ). 2. Những ảnh hưởng Phật giáo đến giá trị đạo đức, lối sống của xã hội Việt Nam a. Phật giáo trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Viê êt Nam Trong suốt quá trinh hình thành và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển kinh tế – xã hô êi của dân tộc trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Có thể nói, Phật giáo được xem là mô êt trong những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niê êm, chuẩn mực, hê ê giá trị đạo đức trong xã hô êi. Trong hê ê thống giáo lý Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy những cơ sở lý luâ n xác thực cho vấn đề đạo đức xã họi, hướng con người tói ê Chân, Thiê ên, Mỹ. Ta thấy rằng, khi xem xét bất kỳ tôn giáo nào với tư cách là mô t ê hình thái ý thức xã hô êi với các hình thái ý thức xã hô êi khác, dễ dàng nhâ n thấy nó ê chứa đựng không ít các nô êi dung đạo đức, bao gồm: giá trị, chuẩn mực, lý tưởng Trang: 5 đạo đức….Điều này được thể hiê n rõ nét ở đạo Phâ êt. Có thể thấy, bên cạnh những ê giá trị đă êc thù như bảo vê ê niềm tin tôn giáo thiêng liêng, Phật giáo khi du nhâ p ê vào Việt Nam còn đề câ êp đến những chuẩn mực đạo đức mang tính xã hô êi như hiếu thảo cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiê n, tránh xa điều ác…Toàn ê bô ê những giá trị này được kết tinh, thể hiê ên tâ p trung trong nô êi dung giáo lý của ê Phật giáo thông qua hai cấp đô ê nhâ ên thức là trình đô ê tâm lý và tình đô ê hê ê tư tưởng. Tuy nhiên, người Viê êt tiếp nhâ n Phật giáo từ tâm lý, bản sắc văn hóa dân ê tộc Việt Nam, dựa vào đó mà lọc bỏ, kế thừa, phát huy các quan niê êm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hô êi. Do đó, nô êi dung cũng như tính chất, đă c điểm của giáo dục Phật giáo không thể không chịu ê sự quy định của các yếu tố tự nhiên và xã hô êi. Xuất phát điểm là nước sản xuất nông nghiê êp cô êng với tính chất khắc nghiê êt của điều kiê ên tự nhiênnhư: thiên tai, hạn hán, mất mùa nên người Viê êt rất trọng sự đoàn kết, gắn bó cô ng đồng cũng ê như sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Bên cạnh đó còn phải nhắc đến tinh thần trong lao đô ng cần cù, tiết kiê êm trong lao đô ng sản xuất. Có thể khẳng định đây ê ê chính là mô êt trong những giá trị căn bản mà khi nhắc đến đạo đức xã hô êi của người Viê êt, chúng ta không thể không nhắc đến. Sự hình thành hê ê giá trị của dân tô êc Việt Nam ngoài ra còn gắn liền với tiến trình vâ n đô ng, phát triển của lịch sử, ê ê văn hóa, tôn giáo, chính trị, nghê ê thuâ êt… Do nằm ở vị trí địa lý chiến lược, là đầu mối giao thông quốc tế quan trọng cùng sự giàu có về tài chánh nguyên thiên nhiên nên Việt Nam trong lịch sử đã luôn là mục tiêu xâm lược, tranh giành của nhiều quốc gia. Lẽ dĩ nhiên, để bảo vê ê đô êc lâ êp chủ quyền, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của dân tô êc, người Viê êt luôn hướng tới các lợi ích cô ng đồng, cùng ê nhau bảo vê ê các giá trị chung. Do đó, trong nấc thạng giá trị xã hô êi, viê êc ưu tiên các giá trị cô êng đồng hay nói cách khác là đề cao các giá trị đạo đức xã hô êi là đă c ê điểm nổi bâ êt trong đời sống dân tộc Việt Nam. Có thể nói, những đă c điểm cơ bản trên đây của xã hô êi Việt Nam là cơ sở ê thực tiễn quan trọng để các giá trị đạo đức Phật giáo thực sự bén rễ, nảy sinh trong lòng dân tô êc Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải lưu ý đến tính chất đă êc thù của Phật giáo trong viê êc truyền tải các nô êi dung đạo đức đến các cá nhân, xã hô êi so với mô êt số hình thái ý thức xã hô êi khác. Đạo đức tôn giáo có đă c điểm là những qui phạm, điều răn, cấm đoán… ê thuô êc hê ê thống giáo lý tôn giáo ngoài viê êc khuyến khích hướng thiê ên còn tạo ra sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi. Chẳng hạn trong mô êt số trường hợp, khi tu hành đạt đến năng lực “ tự giác”, con người hành đô ng có đạo đức chủ yếu là do ê triết lý đạo đức tôn giáo đã thẩm thấu vào họ, trở thành nhân sinh quan trong cuô êc sống. Như vâ êy, khởi nguồn từ những lý do trên đây, đạo phâ êt trong suốt quá trình thăng trầm lịch sử lâu đời, đã khẳng định chân giá trị đích thực đối với sự nghiê p ê sáng tạo và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống như: hiền hòa, lễ đô , kiên ê nhẫn, vị tha, đô c lâ p tự chủ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau… có thể nói, với tư ê ê cách là mô êt tôn giáo, triết thuyết thì Phật giáo chứa đựng nhiều nô êi dung mang tính giáo dục sâu sắc. b. Các giá trị đạo đức xã hô êi dưới ảnh hưởng của Phật giáo Trang: 6 Trước khi đạo Phâ êt du nhâ êp vào Việt Nam, đã tồn tại mô êt số tín ngưỡng tôn giáo dân gian như thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng, Thổ đại, thờ cúng tổ tiên… thể hiê ên đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tô êc. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hô êi, Phật giáo cùng với quá trình du nhâ p đã giải đáp được những băn khoăn ê mang tính triết lý nhân sinh mà tín ngưỡng dân gian chưa thể giải đáp như: nguồn gốc con người, ýnghĩa cuộc sống, vấn đề họa phúc trong cuộc đời … Với những tư tưởng về “vô thường, vô ngã”, “từ, bi, hỷ, xả”, “nghiệp chướng, luân hồi”, “nhân quả”… Phật giáo đã phần nào đáp ứng nhu cầu về tâm linh của người dân lúc bấy giờ. Do đó, Phật giáo đã nhanh chóng tạo lập được cơ sở thực tiễn vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của mình trên đất nước Việt Nam. Cùng với quá trình du nhập và phát triển đó, những chuẩn mực đạo đức Phật giáo cũng xâm nhập và tác động nhất định đến nền đạo đức của dân tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã góp phần bổ khuyết những giá trị đạo đức mới, phù hợp với tâm lý, đạo đức của người Việt, làm phong phú và sâu sắc thêm hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền thống dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người. Người Việt tiếp nhận Đạo Phật không phải chỉ là nội dung triết lý ẩn chứa trong đó, mà quan trọng hơn là những hành vi đạo đức mưng tính thiện. Họ tiếp thu Phật giáo không phải với tư cách là một hệ tư tưởng với các giáo lý cao siêu, mà là những điều rất gần hũi với tâm tư, tình cảm của mình. Chẳng hạn Phật dạy công bằng, bác ái, từ, bi, hỷ, xả, không oán ghét, thù hận …rất gần với tâm lý, bản sắc văn hóa Việt Nam. Phật giáo vì thế từ yếu tố ngoại sinh đã phát triển tương đối rộng rãi, hòa nhập với nền văn hóa dân tộc, tác động mạnh mẽ đến nếp sống của mỗi con người cũng như cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử qui định nên người Việt tiếp nhận Phật giáo không phải ở những luận thuyết trừu tượng, cao siêu mà chỉ đi vào những nội dung mang tính thực tiễn, vận dụng để giải quyết những vấn đề cuộc sống. Điều này phần nào giải thích hiện tượng một bộ phận người dân Việt Nam không hiểu một cách tường tận những triết lý cao siêu của nhà Phật về vô thường, vô ngã, thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nghiệp báo, luân hồi …nhưng họ vẫn tự coi mình là tín đồ Đạo Phật. Hầu như người dân Việt nào cũng tin rằng: sống có đạo đức thì sẽ gặt hái được những điều thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo. Đại đa số người dân không thuộc kinh Phật ngoài mấy câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, hay “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” song họ đều cảm thấy rất mãn nguyện, hướng tới Đức Phật với niềm tin mọi đau khổ, bất trắc sẽ được diệt trừ. Điều này đã được GS. Trần Văn Giàu khẳng định trong “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam – Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980” như sau: “Tín ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân không biết gì về triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo, luân hồi. Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành một thứ đạo đức học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu và làm được, không cao xa, rắc rối như triết lý Phật giáo nguyên thuỷ. Tu nhân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở kiếp sau” (tr. 495). Phật giáo đã thực sự đi vào đời sống đạo đức của người Viê êt thông qua chức năng giáo dục, hướng con người tới các giá trị tốt đẹp, nhân văn. Người Việt Nam Trang: 7 tìm đến với đạo Phâ êt không chỉ vì nhu cầu tâm linh, cảm thấy thư thái an lạc nơi cửa Phâ êt mà còn vì những nô êi dung đạo đức xã hô ê được ẩn chứa trong đạo lý Phật giáo. Trước hết, đối tượng giáo dục mà Phật giáo hướng tới trong lĩnh vực đạo đức xã hô êi chính là con người tới tư cách là chủ thể chịu trách nhiê êm đối với chính cuô êc đời của mình. Thuyết nhân quả của Phật giáo đã chỉ ra rằng: con người tự chịu trách nhiê êm về hạnh phúc hay khổ đau bằng hành vi của chính mình chứ không phải do may rủi, định mê nh hay thân linh trừng phạt. Giá trị của thuyết này ê chính là viê êc khẳng định con người làm chủ được cuô êc sống của mình, đă t con ê người vào đúng vị trí, vai trò của nó trong xã hô êi. Trên cơ sở đó, đạo đức Phật giáo giúp con người phát huy hết những đă c tính ưu viê êt, giảm thiếu những nhân tố đưa ê tới sự bất lọi cho bản thân, gia đình, xã hô êi. Điều này cũng ó nghĩa là đối tượng của giáo dục Phật giáo là con người trong các hoàn cành sống của nó. Vượt ra ngoài sự phân biê t chủng tô c, ranh giới địa lý ê ê hay văn hóa, giáo dục Phật giáo lấy con người trong các mối quan hê ê xã hô êi làm đối tượng cũng như là mục đích. Chính vì thế, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giá trị làm chủ bản thân của con người. Nỗ lực để hoàn thiê ên, tự mình đứng lên, không cầu cạnh hay bất cứ môt áp lực nào khi bản thân đang là chủ nhân của chính mình thực sự. Bởi lẽ, mô êt khi đánh mất giá trị làm chủ bản thân, con người dễ dàng bị cám dỗ trước những cạm bẫy của đạo đức suy thoái. Khi đă t con người ở ê vị trí trung tâm của học thuyết, Phật giáo cũng đồng thời khẳng định những giá trị mang tính nhân văn chứa dựng trong giáo lý Phật giáo. Như vâ êy, trong hê ê giá trị đạo đức xã hô êi của người Viê t, các giá trị điển hình ê là: tinh thần yêu nước, lòng thường người sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tinh thần lao đô ng cần cù, tiết kiê êm. Trong các giá trị đó, nổi bâ êt nhất là tinh thần yêu nước. Có ê thể nói, chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực dạo đức cao nhất, đừng đầu trong thang bâ êc giá trị truyền thống, gắn liền với tâm thức của mỗi người Việt Nam. Yêu nước đó còn là dă êt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên lợi ích cá nhân, luôn chắm lo xây dựng và bảo vê ê đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tô êc. Đối với mỗi người dân Việt Nam, tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, mô êt tình cảm xã hô êi mà cốt lõi của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, lòng tự hào cùng với ý chí bảo vê ê lợi ích của Tổ quốc. Do đó, khi Phật giáo hòa nhâ êp vào đời sống văn hóa đạo đức của người Viê êt, nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo đã gắn kết, hài hòa với itnh thần yêu nước tốt đẹp của người Viê êt. Tư tưởng “cứu khổ cứu nạn” xuất phát từ tâm từ bi, hướng thiê n của Phật giáo rất phù hợp với truyền thống giết giă êc, trừ gian của dân tô êc ê Việt Nam. Không những thế, tư tưởng trên đây của Phật giáo còn được cụ thể hóa trong đạo đức của người Viê êt, thể hiê ên qua trường phái Thiền tong (Việt Nam là giải phóng con người khỏi những đau khổ trong cuô êc sống thực tại, bảo vê ê “ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của mỗi con người. Giáo lý từ bi của nhà Phâ êt khi gă êp gỡ, giao thoa với tinh thần yêu nước, lòng thương người của người Viê êt đã góp phần tạo dựng nên mô t nếp nghĩ, mô êt cách sống, ê mô êt giá trị đạo đức trong đời sống của người Việt Nam. Trong đối nhân xử thế hằng ngày, người Viê t vẫn luôn tâm niê m “ thương ê ê người như thể thương thân”, luôn trọng nghĩa tình, xem nó lên trên hết “ vì tình vì nghĩa ai vì đĩa xôi đầy”. Chữ “tình” chiếm mô êt vị trí quan trọng trong đời sống đạo Trang: 8 đức của người dân Việt Nam… Không chỉ giới hạn trong tình cảm gia đình, hàng xóm mà còn đối với cả kẻ thù. Trong lịch sử đã không ít trường hợp với những tù binh chiến tranh, luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân lương khi về nước. Tinh thần thương người của dân tô êc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong bô ê luâ êt của Nhà nước… Đó thực sự là cơ sở thực tiễn quan trọng để những giá trị đạo đức Phật giáo hào nhâ p, bén rễ ê trong lòng dân tô êc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã hòa quyê n vào chủ nghĩa yêu ê nước, hai chữ “ từ bi” của nhà Phâ êt đã hòa với hai chữ “ nhân nghĩa” của người Viê êt. Triết lý của đạo Phâ êt về Phâ êt tính bình đẳng, tư tưởng từ bi đối với nhân sinh mang mọt giá trị tư tưởng, đức nhân bản sâu sắc, có giá trị tích cực đối với quần chúng nhân dân lao đô ng. Người dân Việt Nam tìm thấy trong Phật giáo ê những giá trị đạo đức mang tính mẫu mực, phù hợp tâm lý, cốt cách người Viê êt. Đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, tinh thần cứu khổ, cứu nạn, hướng lọi trừ hại, vì cuô êc sống bình yên của con người. Có thể nói, nhờ sự tương hợp ở mô t ê mức đô ê nhất định giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức truyền thống người Việt mà Phật giáo đã có những đóng góp trong việc hình thành tâm lý,đạo đức nhân cách của người Việt…. Không chỉ vậy, luận thuyết của nhà Phật về đạo đức còn chỉ ra cho con người thấy rằng: con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình kể cả sau khi chết, vì chết theo quan niệm của đạo Phật mới chỉ là chấm dứt một kiếp sống mà thôi. Quan niệm này sẽ có tác dụng hạn chế được lối sống buông thả, ích kỷ, đề cao cá nhân, dẫn đến tham lam,tàn bạo,bất chấp đạo lý để thỏa mãn dục vọng cá nhân. Tóm lại, nội dung giáo lý Phật giáo thể hiện một triết lý về sự công bằng, giáo dục con người phải biết sống lành mạnh, khuyến khích con người làm nhiều việc tốt, việc thiện, lánh xa điều ác, tránh làm những việc bất nhân phi nghĩa để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp nơi trần thế. Chính những giá trị đạo đức trên đây mà Phật giáo ngày càng có vị trí vững chắc trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, khẳng định sức sống lâu bền của nó đối với dân tộc Việt Nam. Trang: 9 PHẦN KẾT LUẬN Có thể thấy những biến đổi xã hội hiện nay đã khiến các giá trị bị tác động không nhỏ.Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, xuất hiện lối sống thuần túy chạy theo lợi ích vật chất, lãng quên các giá trị tinh thần, chạy theo danh vọng tiền tài mà quên lãng việc hoàn thiện nhân cách. Đạo đức Phật giáo trong trường hợp này đóng vai trò không kém phần quan trọng đến sự hình thành đạo đức con người. Có thể khẳng định rằng, từ trong lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp trong việc hình thành những quan niệm rất tích cực, nhân bản. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức mà Phật giáo đề cập đến đã đi vào cuộc sống và được duy trì cho đến tận ngày nay. Chẳng hạn như giá trị mà Phật giáo đề cao thực sự hữu ích trong cuộc sống hiện đại ẩn chứa nhiều nguy cơ làm khuynh đảo các gía trị trong xã hội. Từ bi sẽ làm cho con người không trở nên vị tha, nhân ái, khoan dung độ lượng có tác dụng làm thúc tỉnh lương tâm mỗi con người…Đời sống hiện thực với những rủi to, bất trắc đã khiến con người ngày càng hướng về các giá trị, lời khuyên đạo đức của đức Phật để cân bằng tâm lý. Tri thức Phật giáo trong chừng mực nhất định đã áp dụng được nhu cầu tâm lý của con người Việt Nam hiện đại. Chính vì lẽ đó mà nhiều phạm trù đạo đức của Phật giáo vẫn tiếp tục được lưu trữ, sử dụng cho đến nay. Tư tưởng từ bi, hỷ xã, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn được người Việt tiếp thu và phát huy trong điều kiện kinh tế thị trường. Những qui tắc đạo đức Phật giáo có nét tương đồng với chuẩn tắc đạo đức xã hội vẫn đang được nhiều người tin theo,định hướng cho họ đời sống thực tiễn. Không những thế, với chủ trương “Phật pháp với đời sống, đời sống với Phật giáo”, đạo Phật ngày nay đã bổ sung những tri thức,chuẩn mực đạo đức phù hợp với thời đại…Điều này cũng đã góp phần làm phong phú nền đạo đức truyền thống của người Việt Nam…Người Việt hướng tới đức Phật với đức tâm thành kính, tạo thành sức mạnh tâm linh, tinh thần giúp họ vượt qua những trắc trở, cám dỗ đễ đạt đến cuộc sống tốt đẹp, chân thiện. Khi mà cơ chế thị trường vẫn đang bộc lộ những mặt tiêu cực của nó thì Phật giáo với những qui tắc, chuẩn mực đạo đức cộng với niềm tin đạo đức riêng mình vẫn còn có những tích cực, là chỗ dựa tinh thần trong quần chúng nhân dân. Hơn thế, đạo Phật với nội dung giáo lý của mình đã hình thành trong tín đồ quan niệm về một trật tự đạo đức, một xã hội tươi đẹp. Lý tưởng đó đã trở thành động lực thôi thúc các cá nhân Phật tử hướng đến những hành động tốt đẹp, trong đó con người đã hoàn toàn dứt bỏ được các dục vọng, ham muốn cá nhân. Và mẫu Trang: 10 người lý tưởng mà đạo Phật xây dựng với phong cách đạo đức từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha cũng chính là mẫu người xã hội hiện đại cần đến. Tóm lại, công cuộc đổi mới ở nước ta hiện đang tạo ra những biến đổi quan trọng trên các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, đạo đức, lối sống của xã hội…Do đó, Phật giáo Việt Nam cũng đã có những thay đổi thích hợp với yêu cầu của thời đại và chức năng giáo dục đạo đức xã hội cũng có những nét mới. Vai trò của Phật giáo Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục đạo đức xã hội cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Bước đầu tập dợt nghiên cứu khoa học, với kiến thức có hạn và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá của thầy để em rút kinh nghiệm trong những bài sau. Em xin chân thành cảm ơn! Học viên: Phạm Xuân Hồng Vĩ - Lớp Cao học Quản lý kinh tế K31! Trang: 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS. Lê Hữu Ái, PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, Giáo trình Triết học, NXB Đà Nẵng, 2010. 2. Nguyễn Duy Cần, Tinh hoa Phật giáo, NXB TPHCM, 1997. 3. Thích Nữ Trí Hải dịch, Đức Phật đã dạy những gì (con đường thoát khổ), NNXB Tôn giáo, 2000. 4. PGS. Nguyễn Tài Thư , Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 1997. 5. PTS. Phương Kỳ Sơn, Lịch sử Triết học, NXB Chính trị quốc gia, 1999. 6. Viện triết học, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, 1988. 7. GS.TS Nguyễn Ngọc Long, GS.TS Nguyễn Hữu Vui, Giáo trình Triết học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. 8. Các tư liệu từ Internet (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, website Phatgiao.vn, …) Trang: 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan