Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN”
MỞ BÀI:
Tư tưởng “Thân dân” là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát
triển xuyên suốt chiều dài lịch sử của nước ta. Trước hết chúng ta cần hiểu rõ
tư tưởng ”Thân dân” là gì? “Thân dân” có nghĩa là gần gũi, gắn bó với nhân
dân, Nhà nước lấy dân làm gốc, phải biết tin tưởng vào dân, dựa vào dân để
xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời cũng phải biết quan tâm đến đời
sống nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân thì nhân dân mới tin
tưởng và ủng hộ.
NỘI DUNG:
1) Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng
của những bậc tiền bối:
Tư tưởng “Thân dân” đã được hình thành từ các triều đại phong kiến,
tiêu biểu nhất là tư tưởng của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi- những bậc danh
nhân đại tài của dân tộc. Trần Hưng Đạo đã thể hiện tư tưởng này qua câu nói
của ông vào tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm,
hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì
kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức
Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã,
đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản
binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng
người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy
yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được
quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa
giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em
hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái,
nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là
sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì
thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì
phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo
thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.". Ông
đã biết coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước,
đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người có thể nhận
ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là cỏ dại: “thảo dân”.
Tư tưởng “Thân dân” còn được Nguyễn Trãi thể hiện rõ nét hơn nữa
qua tư tưởng nhân nghĩa của mình. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là
một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Nhân nghĩa là
thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở
rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương
pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà
chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ
“nghĩa” là 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến
140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ
thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn
mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng
nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với
tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao
hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt
với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân
nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát,
đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa
chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi
đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là
phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức
lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời,
thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại
nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần
phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa
giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã
mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang
đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây,
có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng
nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết
biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão
lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn
năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử…
đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc
sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào
thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ
dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý –
Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp
thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An
dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối
với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên
bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an
dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước.
Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước
phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có
tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi,
đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc
tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã
giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận
thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân;
rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của
nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của
quân dân”(4). Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong
triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân
dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông
viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi
đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó,
ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được
nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân
dân trong sáng tạo lịch sử.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa,
đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền,
bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: “thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn
trị chung tu chí thái bình” (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn,
nước trị bình) (5); “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà
phỉ sở nguyền”(6). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là
đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên
vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn
Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao
nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của
Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp
nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp
xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy
hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh
của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra,
đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở
đời vốn không ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách
như học hành thi cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam
phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã,
bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì…
tùy tài trao chức”; hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng
quân nhỏ”, “người hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn
Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài
vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi,
cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm
vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ
khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ
chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia. Không chỉ có ý
nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tạo
nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
2) “Thân dân” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh:
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ
dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân
dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người
có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng
lên trên hết, là thân dân.
Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc
của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên,
do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã
cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn
mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng
là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá.
Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là
lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu
không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính
phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Nước lấy dân làm gốc;
Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất
tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn
lần dân liệu cũng xong.”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”. Sự đoàn kết của nhân dân là lực lượng vô địch, dân khí mạnh
thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi. “Sự đồng tâm của
đồng bào đúc thành một bức tượng đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung
tàn xảo quyệt đến mức nào đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải
thất bại.”.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải
tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức
mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên
“phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt
phải có nhiệt thành, có quyết tâm”.
Hồ Chí Minh cho rằng phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh
thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa
vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của Người là: “Nếu Chính phủ
sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”. Và người yêu cầu:
“Người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân
theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung;
nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo
việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại,
không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn
ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải
thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân.
Người thường nhắc tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”,
“dân dĩ thực vi thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân
không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Đến khi Người qua đời, trong Di
chúc Người để lại cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trước khi về cõi vĩnh
hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Ðảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân". Một câu ngắn gọn, nhưng đã khái quát rất rõ mục đích cao nhất của sự
nghiệp cách mạng là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân,
đồng thời đó cũng là lời căn dặn tâm huyết của Người đối với toàn Ðảng và
cũng là một trong những nội dung quan trọng nhất.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn luôn
nhằm một mục đích: Giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, phấn
đấu mang lại ấm no, hạnh phúc cho mỗi con người, trước hết là nhân dân lao
động. Ðó cũng chính là quan điểm nhất quán trong tư tưởng và hành động của
Người. Quan điểm nói trên của Người thể hiện những nội dung sau:
a) Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng:
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước giành được độc lập.
Nhưng những hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề.
Ðất nước bị tàn phá, nhân dân sống trong cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi
sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới như một
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới là phải chăm lo đời sống của
nhân dân.
Theo Người, độc lập, thống nhất của Tổ quốc không thể tách rời tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Người nói: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy, ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đề
ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước
mắt của nhân dân là chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác;
xóa bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo
đoàn kết... Ðể thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, Người viết Thư gửi đồng bào
toàn quốc ra sức cứu đói, Hô hào nhân dân chống nạn đói, "coi cuộc chống
nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm". Trong thư Gửi nông gia Việt Nam,
Người khẩn thiết kêu gọi: "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng
gia sản xuất nữa!... Ðó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự
do, độc lập". Ðể cứu nhân dân khỏi nạn đói đang trầm trọng Người đề nghị
đồng bào cả nước và bản thân Người đã gương mẫu thực hiện trước: "Cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ)
để cứu dân nghèo". Nhờ những biện pháp tích cực nói trên, chỉ trong một thời
gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói.
Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu
tăng lên, nhờ đó, nạn đói đã sớm được khắc phục.
Cùng với chiến dịch diệt giặc đói, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được
phát động. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những người
đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng
bảo,... cha mẹ không biết thì con bảo", một phong trào thanh toán nạn mù chữ
đã dâng cao trong cả nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn hai triệu người
đã biết đọc, biết viết. Công tác văn hóa, giáo dục, y tế cũng được chính quyền
mới quan tâm đẩy mạnh. Tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được khẳng
định và phát huy.
Ðể thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến,
thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do,
dân chủ khác của nhân dân. Ðồng thời, Người cũng bắt tay ngay vào việc
chấn chỉnh bộ máy chính quyền các cấp, làm cho nó thể hiện được bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội mới. Người viết Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng, nhắc nhở "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho
đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của
Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta".
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Bộ trưởng Bộ Tài chính của Chính phủ lâm thời đã ra Nghị quyết giảm
25% thuế điền cho nông dân, các địa phương bị lụt được miễn thuế điền.
Ngày 20-11-1945, Chính phủ lâm thời ra thông cáo cho các điền chủ, tá điền
và nông dân quy định các điền chủ phải giảm tô 25% cho tá điền, cho tá điền
hoãn nợ và bỏ những địa tô phụ. Trong những năm kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, khi chưa có điều kiện giải quyết ruộng đất cho nông dân,
Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời ban hành nhiều chính sách nhằm
từng bước mang lại quyền lợi dân chủ cho nhân dân trước hết là nông dân.
Khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện đất
nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc
chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng
của đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước ta. Ðiều đó được thể hiện
ngay trong quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội. Người nói: "Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (ví dụ: lấy vợ, lấy chồng
sớm quá, cúng bái, liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội".
b) Mọi chính sách của Ðảng và Nhà nước đều phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân:
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng các chính sách kinh tế. Các chính sách kinh tế phải luôn
luôn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con
người. Theo Người, việc đề ra các chính sách xã hội đúng đắn và thực thi
chúng có hiệu quả sẽ trở thành một động lực to lớn, đoàn kết được toàn dân
tộc, ổn định vững chắc xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần, tài
năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân. Kết quả của những chính sách xã
hội đó cũng sẽ là cơ sở vững chắc ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và
thủ đoạn chống phá của bọn đế quốc và phản động.
Người xác định trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Ngay từ những ngày đầu
tiên sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ rõ, "Chính phủ ta đã hứa với
dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết
nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một
năm mà làm được hết. Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng
phương châm... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân,
ta phải hết sức tránh".
Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là
người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác
lợi ích của nhân dân. Vì vậy cán bộ Ðảng và chính quyền từ trên xuống dưới,
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức,
giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những
chính sách của Ðảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói,
rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được.
c) Ðảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã
hội dễ bị tổn thương nhất:
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc các tầng
lớp nhân dân. Nhưng đối tượng mà Người dành sự quan tâm đặc biệt là:
"những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ,
binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong)...". Trong Di chúc, Người
căn dặn Ðảng, Chính phủ phải chăm lo đến những quyền lợi thiết thực nhất
của những người ấy, phải tạo điều kiện cho họ "có nơi ăn chốn ở yên ổn đồng
thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người...".
Ðối với những liệt sĩ đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc, Người căn dặn
chúng ta phải xây vườn hoa và bia tưởng niệm để đời đời biết ơn và giáo dục
lòng yêu nước cho các thế hệ sau. "Ðối với cha mẹ, vợ con (của thương binh
và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương
(nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp
đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các lực lượng trẻ đi đầu
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người căn
dặn: "Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học
thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ
thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Ðó là đội quân chủ
lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Ðánh giá rất cao sự đóng góp của phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc và luôn quan tâm đến quyền bình đẳng thực sự của phụ nữ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo...".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu rất rõ sự hy sinh,
chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân
đàn áp, bóc lột, hàng mấy chục năm chiến tranh nên Người không chỉ căn dặn
phải chăm lo nâng cao đời sống chung chung mà Bác còn muốn một điều thật
cụ thể và thiết thực là "miễn thuế nông nghiệp một năm". Người hiểu rất rõ
rằng, đối với nông dân, một năm thuế nông nghiệp là quá nhỏ bé so với tất cả
những gì mà họ đã đóng góp mấy chục năm qua cho kháng chiến nhưng nếu
được miễn chắc chắn sẽ là niềm vui lớn nhất của mỗi gia đình. Người muốn
đem đến cho nông dân những hạt thóc, củ khoai để họ có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc thật sự - chứ không phải là những lời động viên, ca ngợi hoa mỹ.
Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào
thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm liên tục đã ra sức
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
góp của, góp người, chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Không chỉ quan tâm đến việc chăm lo cho các tầng lớp nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn Ðảng và Chính phủ quan tâm giúp đỡ cả những
người là nạn nhân của chế độ cũ: "Ðối với những nạn nhân của chế độ xã hội
cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,... thì Nhà nước phải vừa dùng
giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao
động lương thiện”.
Sự quan tâm chăm lo đời sống nhân dân không chỉ dừng lại ở sự giúp
đỡ về vật chất mà quan trọng hơn là Ðảng và Nhà nước phải tổ chức, tạo điều
kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống hạnh phúc cho mình. Trong Di chúc,
Người viết: "Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ
sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân,
như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động. Củng cố quốc
phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc... Công việc trên đây là rất
to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang"; "Ðây là một cuộc chiến
đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động
viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn
dân”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa
học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng,
thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém…
Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh do hạng
hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học hỏi dân
chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”; phải
“tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào
sai” để vận dụng.
Một sự kiện nữa được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề
thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân
chủ” và “hưởng quyền dân chủ”. Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai
sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã tổ
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua
bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ
ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng:
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”, “Hễ là những người muốn lo
việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền bầu
cử.”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân
có quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp,
nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân. Nhà nước
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà
nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực
lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta
còn là nhà nước do dân. Bác viết: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ
mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải
đoàn kết thành một khối”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do
dân phải được thể hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi
mặt đời sống xã hội là vì dân.
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe,
làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ
đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong
đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và
đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là nhìn thấy cả
cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển;
là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và
hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của dân.
Những ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng từ sau ngày Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ vai
trò to lớn của nhân dân, đồng thời vạch ra 12 điều răn rất cụ thể để giáo dục
bộ đội, cán bộ “khi tiếp xúc và chung sống với nhân dân”. Đảng ta tiếp thu tư
tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định:
Cần thắt chặt hơn nữa quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, chính Đảng
cũng từ nhân dân, là một bộ phận tiên tiến của nhân dân, tạo điều kiện để
nhân dân thực sự là người chủ, trực tiếp tham gia công việc quản lý đất nước,
quản lý xã hội trong giai đoạn mới của cách mạng. Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân
như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu
dân, kính dân thì người dân mới yêu ta, kính ta”. (7)
Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ
trung thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng,
Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân
dân, chứ không phải là làm quan cách mạng” (8).
Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp
cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan”
và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng
không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không
phải vì lợi ích của quần chúng.
Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền,
nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn
biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy
mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có
biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”,
không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”.
Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng
thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò
người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ
của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã,
bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân
dân” (9).Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm
và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực,
hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người
dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa
ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ
này.
3) Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tư
tưởng của Nho gia nhưng đã có nhiều sự tiến bộ
Tìm hiểu quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta
thấy có những điểm tương tự với quan điểm trên đây của Nho gia. Điều đó
cũng dễ hiểu, vì Người được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha,
một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Nhưng so với tư
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tưởng của Nho gia thì quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có nhiều điểm khác về căn bản. Trước hết nói về những điểm gặp nhau
giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “lấy dân làm gốc.
Điểm thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của
dân. Về điều này, Mạnh Tử đã có câu nói lịch sử: “Dân là quý, sau mới đến
xã tắc, vua thì xem nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Tuân Tử
cũng có câu nói rất nổi tiếng: “Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền,
nước cũng lật thuyền” (Quân giả chu dã, thứ dân giả thủy dã, thủy tắc tải chu,
thủy tắc phúc chu). Từ đó, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là:
“Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang
ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi. Hoặc: “Đường lối được dân
chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc chúng tắc đắc
quốc, thất chúng tắc thất quốc). Điều đó đã được nhắc đến trong sách Đại học
(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương tự như Nho gia, khi
Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế
gian không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (11).
Điểm thứ hai: quan tâm đến đời sống của dân. Nho gia yêu cầu các bậc
trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối thiểu để họ: “ngẩng lên
đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con” (sử ngưỡng
túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử) (12). Muốn vậy, người dân phải có
“thu nhập ổn định” (hằng sản) đủ để sống. Nếu trên nét mặt người dân có sắc
đói là trách nhiệm của kẻ cầm quyền. Đó là quan điểm tiến bộ của Mạnh Tử.
Đây cũng là quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi
người xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đề ra và thực
hiện các chính sách: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính
quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân
dân”(13).
Điểm thứ ba: phải gần dân, đối xử đúng mức với dân. Kinh Thư viết:
“Đối với dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ).
Khổng Tử nhắc nhở những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận
như điều hành một cuộc tế lễ lớn” (Sử dân như thừa đại lễ). Tác phong gần
gũi nhân dân là nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời,
Bác hay đi thăm hỏi đồng bào, tìm hiểu đời sống của nhân dân ở nhiều địa
phương. Tác phong gần dân của Bác còn thể hiện ở cuộc sống giản dị của
Người. Là Chủ tịch nước, nhưng từ chỗ ở đến cách ăn mặc và sinh hoạt hằng
ngày của Người không có sự khác biệt bao nhiêu so với người dân bình
thường. Bác luôn giáo dục cán bộ, đảng viên không được có tác phong quan
liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân dân.
Điểm thứ tư: lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Tiên thiên hạ chi ưu
nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đây là một phương châm sống cao
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thượng của những nhà nho chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện
quan điểm này trong toàn bộ hoạt động cũng như đời sống của Người. Bác
chăm lo cho tất cả mọi người nhưng không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ cho riêng
mình. Làm việc gì, sống như thế nào, bao giờ Bác cũng nghĩ đến dân trước
hết.
Trên đây là một số điểm chung giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong quan điểm “lấy dân làm gốc”. Tuy nhiên giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và
nho gia cũng có nhiều nét khác nhau, tư tưởng của Bác đã tiến bộ hơn rất
nhiều.
Thứ nhất: thái độ đối với người dân, nhất là người lao động chân tay và
cách sống gần dân.
Nho gia miệt thị người dân lao động. Về trí tuệ, họ xếp con người thành
hai loại: thượng trí và hạ ngu. Thượng trí là bọn cầm quyền, bọn “quân tử”.
Hạ ngu là người dân lao động. Họ cho rằng hai loại người này do số phận an
bài nên không bao giờ thay đổi (Duy thượng trí hạ ngu bất di). Trong xã hội,
họ phân biệt nghề sang, nghề hèn. Họ đề cao lao động trí óc bằng quan điểm:
“Vạn cái nghề đều thấp hèn, duy chỉ có đọc sách là cao cả” (vạn ban giai hạ
phẩm, duy hữu độc thư cao). Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất tôn trọng nhân dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải
luôn luôn học hỏi nhân dân, học tập kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng,
coi nhân dân là người thầy của mình. Người tôn trọng tất cả mọi người, tất cả
các nghề trong xã hội. Người nói: “Người nấu bếp, người quét rác cũng như
thầy giáo, kỹ sư, nếu làm tròn trách nhiệm cũng vẻ vang như nhau”(14).
Nho gia khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”, “thương
dân”. Điều đó có thể là tích cực, nhưng vẫn thuộc cử chỉ của người trên, của
người “chăn dân”, của những ông “quan phụ mẫu”. Về điều này, sách Kinh
Thi viết: “Vui thay bậc quân tử là cha mẹ dân” (Lạc chi quân tử, dân chi phụ
mẫu). Sách Đại Học viết: “Dân thích điều gì, người thích điều ấy; dân ghét
điều gì, người ghét điều ấy, thế mới là cha mẹ dân” (Dân chi sở hiếu, hiếu chi;
dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị dân chi phụ mẫu) (15). Sách Trung Dung cũng
cho rằng: “Thương dân như con thì khuyến khích được trăm họ” (Tử thứ dân
tắc bách tính khuyến) (16). Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại cho rằng, những người cầm quyền trong xã hội là “người đầy tớ của
nhân dân”. Người nói: “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn
cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân. Đó là vinh dự
cao nhất” (17). Trong Di chúc, Người viết: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong
sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”. Người còn cho rằng: cán bộ, đảng viên thương dân chưa đủ mà còn phải
hiếu với dân, như con cái giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ.
Về cách sống “gần dân”, Nho gia nói “dân khả cận”. Nhưng vua chúa,
quan lại phong kiến sống trong lầu son gác tía, mấy khi người dân đen thấy
“mặt rồng”, mặt “quan phụ mẫu”. Chúng sống một cuộc đời vương giả đầy
nhung lụa và yến tiệc. Trong khi đó người dân sống trong bần hàn, cơ cực.
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi người như người cha, người
bác, người anh gần gũi. Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, Bác cũng dùng món
ăn dân dã trong bữa cơm, Bác đi dép cao su như mọi người dân lúc đó. Bác
thường mặc bộ ka ki bạc màu khi đi công tác, kể cả đi nước ngoài, mặc áo
nâu như một lão nông khi ở nhà. Có lúc Bác mặc áo vá. Một lần, mấy cán bộ
gần Bác băn khoăn về chuyện này, Bác nói: “Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước
mà mặc áo vá vai như thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy
đi” (18). Câu nói thật sâu sắc và cảm động. Không biết hiện nay “cái phúc ấy”
còn bao nhiêu cán bộ lãnh đạo giữ lại được để cho dân nhờ? Tất nhiên, hiện
nay đời sống của nhân dân đã được cải thiện nhiều thì cán bộ không nhất thiết
cứ phải mặc áo vá. Điều Bác muốn nói là: cán bộ lãnh đạo mà biết sống giản
dị, tiết kiệm, trong sạch, biết nghĩ đến dân và vì dân mà sống thì đó là cái
phúc của dân.
Thứ hai: mục đích “lấy dân làm gốc”.
Mục đích của Nho gia là để làm dịu mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
và tầng lớp bị trị, nhất là ở thời đại nhà Chu mâu thuẫn giữa dân và giai cấp
quý tộc rất gay gắt. Giai cấp thống trị mong muốn, nếu người dân được “bề
trên” “quan tâm” thì yên bề ở vị trí nô lệ của mình, không đụng chạm đến
quyền lợi, địa vị của chúng. Ngược lại, mục đích thực hiện quan điểm “lấy
dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để giải phóng người dân thoát
khỏi tình trạng bị nô lệ về chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm về tinh
thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên. Người nói: “Tôi chỉ có
ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập,
dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành” (19).
Thứ ba: sự hiện thực hóa quan điểm “lấy dân làm gốc”.
Quan điểm của Nho gia chủ yếu có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật,
không được giới cầm quyền đương thời thi hành, vì đụng chạm đến quyền lợi
của chúng. Về mặt vật chất, người dân vẫn sống trong bần hàn, đói rách, vì bị
bóc lột thậm tệ. Họ đâu có được “hằng sản” (thu nhập ổn định) đủ để sống,
như Mạnh Tử mong muốn. Về tinh thần, tuyệt đại bộ phận người dân sống
trong ngu dốt. Hưởng thụ văn hóa, giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp
thống trị. Đâu có như Khổng Tử mong muốn là “hữu giáo vô loại” (có một
nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp). Ngược lại, quan điểm “lấy dân làm
gốc” hay lý tưởng sống vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện
bằng chính hoạt động của Người. Người không chỉ nói mà còn làm. Người
suốt đời phấn đấu không ngừng cho lý tưởng đó. Người đã tổ chức, lãnh đạo
nhằm phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong các giai đoạn của
cách mạng và đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đời
sống chính trị cũng như đời sống kinh tế và văn hóa - giáo dục của nhân dân
ta không ngừng được cải thiện và nâng cao.
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Sở dĩ có sự giống nhau là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những
yếu tố tích cực trong tư tưởng của Nho gia. Còn có sự khác nhau mà khác là
căn bản, vì những lý do sau đây.
Nho gia đứng trên lập trường của giai cấp bóc lột. Tư tưởng cũng như
những triết luận của họ có tính chất an dân, nhằm điều hòa mâu thuẫn giai
cấp, bênh vực quyền lợi và địa vị bọn thống trị. Người dân an tâm với những
thu nhập “ổn định” (hằng sản) không tưởng và do đó cũng an tâm (hằng tâm)
ở địa vị nô lệ của mình.
Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân. Người bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động. Cơ sở tư
tưởng của Người là chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ
áp bức giai cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ
nhân của xã hội mới. Một xã hội được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa
người với người và mục tiêu lý tưởng của xã hội đó là mang lại cuộc sống ấm
no hạnh phúc cho tất cả mọi người.
4) Quá trình thực hiện tư tưởng “Thân dân” theo lời dạy của Bác của
Đảng và Nhà nước ta, xu hướng phát triển đất nước trong tương lai:
Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho
hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và
tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ
đoàn kết toàn dân. Giờ đây, “Dân làm gốc” phải đồng thời là “Dân làm chủ”.
“Gốc biểu hiện cho sự năng động, sáng tạo, cho trí tuệ và tài năng đã được
giải phóng, tự do “có thể làm được những kỳ công”. Vì thế “gốc” cần được
chăm nom, vun xới, bồi đắp. Nhưng khác xưa, “gốc” ngày nay có khả năng tự
xây cho mình bền chặt hơn, vững chắc hơn…
Nghe theo lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta trong 65 năm qua đã
thực hiện chính sách “lấy dân làm gốc” là bài học cốt tử để xây dựng đất
nước. Đây chính là bản chất dân chủ của chế độ mới ở nước ta. Điều đã giúp
cho Nhà nước ta vượt qua tất cả những thử thách cam go, tình thế hiểm nghèo
“ngàn cân treo sợi tóc” trong các cuộc chiến tranh cứu nước trước đây cũng
như ở thời điểm “chuyển dời dâu bể” sau khi chế độ XHCN sụp đổ ở Liên Xô
và Đông Âu.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất là sự gắn bó máu thịt của toàn
dân ta với Nhà nước của mình. Đó là Nhà nước do chính dân ta gây dựng nên
và Nhà nước đó lại phục vụ chính dân ta. Cội nguồn mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam chính là do Đảng ta đã kế thừa và phát huy cao độ bài học lấy
dân làm gốc đã được cha ông đúc kết từ nghìn xưa.
Đến mùa thu năm 2010 này - một năm trọng đại trong lịch sử dân tộc
khi đất nước ở trên “điểm hội tụ vàng lịch sử” với nhiều ngày kỷ niệm lớn công cuộc đổi mới đã trải qua chặng đường một phần tư thế kỷ đầy thách thức
và sáng tạo. Đổi mới không phải là một khẩu hiệu chính trị khô khan, mà đã
trở thành cây đời ăn sâu bén rễ trong lòng người. Đổi mới đang trở thành sức
mạnh lan tỏa, được nhân lên và cộng hưởng trong cộng đồng dân tộc. Cách
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đây hai năm, khi GDP tính theo đầu người vượt qua ngưỡng 1.000USD, nước
ta đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo có thu nhập thấp. Điều quan trọng là,
trong khi vốn tích lũy của ta chưa nhiều nhưng dân ta vẫn được hưởng ngay
trái ngọt đầu mùa của công cuộc đổi mới. Quan điểm vì dân, vì chất lượng
cuộc sống của các tầng lớp nhân dân được thể hiện rất rõ ràng trong mọi
quyết sách. Chúng ta không chủ trương tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá.
Phát triển bền vững là hướng đi không thể khác. Việt Nam được cộng đồng
quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia thành công nhất trong trận
chiến xóa đói giảm nghèo, giải quyết khá hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
bảo đảm an sinh xã hội. Đó trước hết là vì Đảng ta luôn thấm nhuần tư tưởng
lấy dân làm gốc, “khoan sức dân” làm kế lâu bền. Đó là minh chứng rõ ràng
nhất của quan điểm lớn xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như ngày nay. Đó thực
sự là một kỳ tích! Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cuối
những năm 80 của thế kỷ trước, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
và Việt Nam phải tự đứng vững và tìm lấy con đường đi tới CNXH của mình,
phù hợp với hoàn cảnh mới. Nhìn lại chặng đường 20 năm thực hiện Cương
lĩnh của Đảng - một cương lĩnh ra đời trong thời điểm thử thách hết sức hiểm
nghèo - chúng ta càng thấy rõ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng vượt khó của toàn
dân tộc dưới sự chèo lái của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thế nước của ta đang đi lên!
Thế nước của ta là thế nước của một quốc gia nằm ở điểm hội tụ của
những nền văn minh lớn, của những luồng giao lưu quan trọng, của những
mối quan hệ quốc tế phức tạp và nhạy cảm nhất. Vận hội là đây, thử thách
cũng là đây! Đó là thế của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến, có truyền
thống yêu nước nồng nàn, biết hy sinh vì nghĩa lớn, biết đoàn kết đùm bọc lẫn
nhau. Đó là thế của một đất nước tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ,
hướng ra biển Đông mênh mông, tài nguyên phong phú, đất đai màu mỡ...
Trong cái thế đó ẩn chứa những nguồn lực sung mãn, mà nguồn lực quý báu
nhất, quyết định nhất là con người Việt Nam cần cù, thông minh, quả
cảm, năng động, giàu lòng nhân ái...
Đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển là sự
xác định dứt khoát của Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn xây dựng Nhà nước
XHCN 65 năm qua cũng như quá trình 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện
Cương lĩnh của Đảng cho thấy rõ cơ cấu quyền lực cũng như cơ chế vận hành
bộ máy quyền lực của đất nước hiện thời đang đứng trước những đòi hỏi mới
vô cùng nóng bỏng. Nhân dân ta thực hiện quyền làm chủ đất nước thực sự
của mình như thế nào? Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN trong điều kiện Đảng độc tôn lãnh đạo ra sao? Chúng ta phải làm gì để
tạo ra một cơ chế khoa học và hữu hiệu giải phóng được sức lao động sáng
tạo sung mãn của con người Việt Nam.
Những câu hỏi đó từ nhiều năm nay vẫn luôn trăn trở trong tâm trí
chúng ta. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tếxã hội, giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi
sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì
việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn
nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào
dân tộc thiểu số... Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải
củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng đất nước cần phải chú ý những điểm sau đây:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương
đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần,
giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương
lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp
hài hòa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là
những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Năm là, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, tiến hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về tư tưởng “Thân dân” phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên,
trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh lấy dân làm gốc trong thời kỳ giữ nước
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi
những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, một loạt
vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
Thứ nhất, khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát
từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển
đất nước.
Thứ hai, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường
dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động
của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất
kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày
càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị
trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh
làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân
tộc và của Đảng.
Thứ ba, điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, phải biết lắng nghe
những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan
ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách
giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây dựng Mặt trận, đổi
mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với
công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp
đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn
cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc còn đòi hỏi phải
củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm
vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng
lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam
muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì
hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ
trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy
lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc
dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy bài học kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc
tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nhất
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách
mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu
hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộcsức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng
sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
5) Một số hạn chế và biện pháp khắc phục:
Mặc dù Đảng luôn nêu cao bài học lấy dân làm gốc, xác định dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chế độ ta, nhưng trên thực tế, hiện tượng
hạn chế, vi phạm quyền dân chủ của người dân không phải là cá biệt, thậm
chí có những nơi rất nhức nhối. Đây đó, bài học lấy dân làm gốc đang trở nên
mờ nhạt. Đói nghèo và nhất là bất công xã hội đang là điều u uất ở không ít
nơi. Chúng ta đã xác lập cơ chế đúng đắn Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, nhưng việc vận hành cơ chế này sao cho khoa học, nhịp
nhàng, thông suốt và có hiệu quả là cả tổng thể một loạt vấn đề rất hệ trọng vì
nó liên quan, tác động trực tiếp đến những khía cạnh nhạy cảm, phức tạp và
căn cốt nhất của thể chế, của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Vận mệnh của
chế độ XHCN, tương lai của đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào sự
thật, vừa thấy được thành tựu, vừa nhận diện thật rõ những bất cập, những sai
lầm, thiếu sót, những trở lực để hóa giải, khắc phục với những bước đi phù
hợp. Để cho tư tưởng lấy dân làm gốc không phải là lời nói suông, không phải
là mỹ từ có tính chất tuyên truyền thì vấn đề cốt yếu là phải xây dựng, từng
bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Không thể không nhận thấy rằng trong xã hội ta vẫn còn tồn tại tình
trạng "mù mờ luật pháp", người dân không biết thật sự mình có quyền gì, còn
không ít người trong bộ máy công quyền thì lợi dụng sự "mù mờ luật pháp"
đó của người dân cũng như những khe hở của luật pháp để tự cho mình quyền
hành xử sai trái. Trong xã hội mà pháp luật có vị trí tối thượng thì công dân
có quyền được biết một cách công khai, rõ ràng mình có quyền gì và phải
thực hiện nghĩa vụ gì. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, hoạt
động lập pháp về quyền, nghĩa vụ công dân cần hướng tới nguyên tắc quan
trọng: Công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm; còn trong
quan hệ với công dân thì cơ quan Nhà nước, công chức chỉ được làm những
gì pháp luật quy định.
Chúng ta đã và đang đấu tranh quyết liệt, nhưng tệ quan liêu, tham
nhũng, thói đặc quyền đặc lợi, vô trách nhiệm, vô cảm, sự tù đọng trong tư
duy và trì trệ trong hành động... vẫn đang lộ diện như một nguy cơ lớn hãm
hại công cuộc đổi mới. Khi đất nước phải đương đầu với những thử thách
mới, trận chiến chống tham nhũng, tiêu cực càng nóng bỏng. Đó trước hết là
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
một cuộc đấu tranh không khoan nhượng trong nội bộ Đảng. Cuộc đấu tranh
này thử thách bản lĩnh của một đảng cầm quyền. Cuộc kiến tạo lớn sẽ
không thể tiến bước nếu bộ máy của ta quá cồng kềnh, đủng đỉnh, nếu chúng
ta không loại bỏ được những kẻ tham ô hám lợi, những kẻ vô trách nhiệm, vô
cảm trước khó khăn và đau khổ của người dân. Kết quả của cuộc đấu tranh
này sẽ củng cố, khôi phục và tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Những năm qua, một loạt kẻ phạm tội không kể ở cấp nào đã bị đưa ra
xét xử nghiêm minh trong một số vụ án lớn. Những biện pháp chống quan
liêu, tham nhũng, tiêu cực được triển khai một cách mạnh bạo, tích cực ở một
số ngành, địa phương, dù được dư luận cả nước đồng tình ủng hộ, nhưng cũng
chỉ như những chồi non mới nhú cần được tiếp tục bảo vệ, cổ vũ, khích lệ
mạnh mẽ hơn nữa để dần dần trở thành một hiện thực sống động và vững
chắc lan rộng ra nhiều vùng miền, như ánh sáng xua tan bóng tối.
Để mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân thì vấn đề nhân
dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước là một
vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện Đảng Cộng sản độc
tôn lãnh đạo, nếu kết hợp tốt giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận thì sẽ làm phong
phú thêm sinh hoạt dân chủ trong xã hội, làm phong phú thêm nền dân chủ ở
nước ta. Hiện nay, trong quá trình tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, không chỉ đảng viên, mà mọi thành phần xã
hội đều được nghiên cứu, thảo luận, góp ý các văn kiện quan trọng của Đảng.
Nhiều ý kiến đóng góp xác đáng của nhân dân, trong đó có các nhân sĩ, trí
thức, đã được đưa vào văn kiện chính thức của Đảng. Rõ ràng, đây là một sự
khảo nghiệm, phản biện và đóng góp trí tuệ rộng rãi và dân chủ.
Có một thực trạng là không ít những người nắm quyền lực thường dễ
rơi vào tình trạng “không muốn nghe lời ngược”. Vì thế, ngoài quy chế dân
chủ ở cơ sở đang thực hiện, hiện nay việc xây dựng đề án phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc là nhằm tạo ra một cơ chế hiệu lực đối với các cấp có
quyền lực. Khi đã có một cơ chế phản biện rõ ràng thì Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể đủ điều kiện để phản biện lại trước các quyết định không phù
hợp, đưa ra những chứng lý có sức thuyết phục cao. Như thế cũng có nghĩa là
không phải đợi khi chính sách đã đưa vào cuộc sống, thấy sai rồi mới phản
biện. Chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải bao hàm cả
việc xây dựng và thực hiện cơ chế phản biện xã hội. Tư tưởng dân làm gốc
phải bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp đến là đề ra các biện pháp
thực hiện, cuối cùng là kiểm tra, giám sát quá trình và hiệu quả thực hiện.
Mặt khác, cần hết sức lưu ý một thực trạng nữa không kém phần
nghiêm trọng là trong khi “mở rộng dân chủ” thì nhiều nơi lại kéo theo sự
buông lỏng quản lý, coi thường kỷ cương, phép nước. Để khắc phục điều này,
có thể thấy, một trong những nét nổi bật nhất trong phong cách lãnh đạo mới
ngày càng rõ nét là việc chọn đúng những khâu, những việc trọng điểm, cần
kíp nhất; thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; rồi tổ chức thực
20