Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức và việc vận dụng xây dựng đội ...

Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức và việc vận dụng xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay

.PDF
143
78696
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ NAM TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG TRONG TIẾN TRÌNH VẬN ĐỘNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN NĂM 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ NAM TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG TRONG TIẾN TRÌNH VẬN ĐỘNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN NĂM 1945 Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học Mã số: 60 31 27 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MAI HOA HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC Trang Më ®Çu 4 Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG 12 Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lƣợng cách mạng 1.1.1. Điều kiện lịch sử 12 1.1.2. Cơ sở hình thành 16 1.1. 1.2. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lƣợng cách mạng 12 32 1.2.1. Giác ngộ, tập hợp, tổ chức quần chúng thành đội ngũ với những hình thức phù hợp 1.2.2. Coi trọng xây dựng lực lượng nòng cốt nông dân, công nhân và đội tiên phong là Đảng cộng sản 1.2.3. Liên minh giai cấp rộng rãi trên mẫu số chung là tinh thần dân tộc 32 1.2.4. Kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với xây dựng lực lượng vũ trang của quần chúng nhân dân 46 1.2.5. Tập hợp, liên minh với các lực lượng cách mạng thế giới 54 Chương 2: 38 43 59 VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG TRONG THỰC TIỄN ĐẤU TRANH TIẾN TỚI GIÀNH CHÍNH QUYỀN NĂM 1945 VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Xây dựng lực lƣợng cách mạng giai đoạn 1930-1939 59 2.1.1. Xây dựng lực lượng lãnh đạo với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam 2.1.2. Giác ngộ, tập hợp các giai tầng trong các hình thức mặt trận 64 2.1.3. Liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế 77 1 71 2.2. Xây dựng lực lƣợng cách mạng giai đoạn 1939-1945 79 2.2.1 Xây dựng lực lượng chính trị 79 2.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng 91 2.2.3. Liên minh với các lực lượng quốc tế 98 2.3. V ận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lƣợng cách mạng vào xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay 104 2.3.1. Giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945 104 2.3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay 110 KÕt luËn 123 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 125 PHỤ LỤC 135 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1 CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc 2 CNTB Chủ nghĩa tư bản 3 CNTD Chủ nghĩa thực dân 4 CNCS Chủ nghĩa cộng sản 5 ĐCS Đảng cộng sản 6 ĐCSVN Đảng cộng sản Việt Nam 7 CMGPDT Cách mạng giải phóng dân tộc 8 CMVS Cách mạng vô sản 9 ĐCSĐD Đảng Cộng sản Đông Dương 10 QTCS Quốc tế cộng sản 11 CMVN Cách mạng Việt Nam 12 MTDTTN Mặt trận dân tộc thống nhất 13 MTVM Mặt trận Việt Minh 14 HNTƯ Hội nghị Trung ương 15 BCHTƯ Ban chấp hành Trung ương 16 DCTS Dân chủ tư sản 17 MTTNDTPĐĐD Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương 18 CNH, HDH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá 19 MTND Mặt trận nhân dân 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời và trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường dài hàng nghìn năm đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đầy gian khó, hy sinh vẻ vang. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Mỗi giai đoạn lịch sử, trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước, dân tộc ta đều có những nỗ lực đấu tranh sáng tạo, giành được những chiến công vang dội, lập nên những chiến tích phi thường. Suốt trường kỳ lịch sử, với những điều kiện, hoàn cảnh khó khăn, ác liệt và so sánh lực lượng hết sức chênh lệch, chống lại sự xâm lược của những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần, dân tộc Việt Nam đã hun đúc tinh thần bất khuất, bồi đắp lòng yêu nước nồng nàn, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, toàn dân đoàn kết một lòng, kết thành một khối thống nhất, muôn người như một chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng mạnh và tàn bạo đến đâu. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, áp đặt ách áp bức, đô hộ lên đất nước ta. Không cam tâm chịu làm nô lệ, các phong trào yêu nước của nhân dân ta đã nổ ra liên tục, đấu tranh anh dũng, kiên cường, song do chênh lệch về tương quan lực lượng, thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn, thiếu một tổ chức chính trị đủ năng lực lãnh đạo, nên các phong trào đều bị thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo những khuynh hướng khác nhau cho thấy cần phải tìm ra con đường cứu nước mới, phù hợp hơn. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước và sau những hoạt động cách mạng tìm tòi, khảo nghiệm đã lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân là con đường CMVS. Sau một thập kỷ tìm đường và tìm ra con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời của chính Đảng cách mạng ở Việt Nam - một chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, của 4 dân tộc Việt Nam, sẽ lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm cách mạng, lật đổ ách áp bức dân tộc, đi tới độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Để làm cách mạng, vấn đề lực lượng cách mạng là một trong những vấn đề trọng tâm, cần giải quyết thấu đáo, bởi đó là một trong những yếu tố quyết định thành, bại của cách mạng. Do vậy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rất chú trọng đến việc xây dựng lực lượng cách mạng. Trên tinh thần “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” và “dân tộc Việt Nam là dân tộc cách mệnh, đã là dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, trí, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”, Hồ Chí Minh chủ trương chuẩn bị lực lượng dựa vào đông đảo quần chúng yêu nước. Quần chúng yêu nước cần được tuyên truyền, vận động, giác ngộ, trở thành lực lượng chính trị, trên cơ sở đó, thành lập lực lượng vũ trang, kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang thành một khối thống nhất có sức mạnh to lớn và khi thời cơ đến, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Cách mạng tháng Tám (1945) nổ ra và giành thắng lợi có một nguyên nhân quan trọng - đó là Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã xây dựng được một lực lượng cách mạng đông đảo, lực lượng ấy được tập hợp, tập dượt, được tổ chức lại và trở thành một sức mạnh quật khởi, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, đi tới độc lập, tự do. Xây dựng lực lượng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng thành công trong thực tiễn Cách mạng tháng Tám đã phản ánh tính quy luật phổ biến về xây dựng lực lượng của cách mạng Việt Nam, phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, với những vận động, biến chuyển mới, những thời cơ, thách thức mới, vấn đề lực lượng cách mạng, vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng… vẫn là những 5 vấn đề nóng hổi, cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo trên cơ sở kế thừa, phát triển và vận dụng khoa học những lý luận, những tư tưởng đã có, đã được kiểm chứng. Trên ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong tiến trình vận động khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Trong những năm qua, lĩnh vực nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đã gặt hái được những thành quả to lớn với sự tham gia đông đảo của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng cũng đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở những chiều cạnh khác nhau. Có thể chia thành những nhóm tư liệu sau: - Các công trình nghiên cứu chung về tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [50]; Chủ tịch Hồ Chí Minh-lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta [24]; Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất [10]; Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta [28]; Góp phần tìm hiểu tư tưởng độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [59]; Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh [66]; Chủ tịch Hồ Chí Minh-những cống hiến về lý luận và thực tiễn vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong thế kỉ XX [61]; …. - Các công trình nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh – Nhà chiến lược thiên tài, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam [47]; Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng tháng Tám [37]; Tìm hiểu di sản và sự nghiệp quân sự Hồ Chí Minh [30]; Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh [105]; Tư tưởng quân sự 6 Hồ Chí Minh [96]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước [107]; Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ văn hoá [29]; Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh [108]; Chủ tịch Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân [88]… Trong nhóm công trình này, cuốn sách Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày khá cặn kẽ về sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa ra biên niên sự kiện quân sự trong quãng đời hoạt động của Người; đồng thời dẫn dụ những ca ngợi của thế giới về sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Người. Công trình đã thành công trong luận giải nguồn gốc, nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; đồng thời, khi làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự, công trình đã đề cập đến vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng cách mạng. Công trình Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam) đã phân tích một cách toàn diện, hệ thống những tác phẩm quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu bật tư tưởng quân sự của Người, khẳng định đó là hệ thống quan điểm về quan hệ giữa chính trị và quân sự, giữa chiến tranh và hòa bình, về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa hậu phương, về chỉ đạo và điều hành chiến tranh… Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, công trình cũng đã chỉ rõ nguồn gốc hình thành, những nội dung cơ bản và khẳng định quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang là một bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng nói chung. Bài Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ văn hoá (Quang Cận, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5/2000) đã đề cập một số nội dung cụ thể về tư duy quân sự Hồ Chí Minh, đó là: xác định mục đích của chiến tranh cách mạng nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phương thức tiến 7 hành chiến tranh và nghệ thuật đánh giặc toàn diện: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao... Phân tích tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tác giả đồng thời cũng đề cập đến quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. - Các công trình nghiên cứu về xây dựng lực lượng cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh [1]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kì 1930-1945 [100]... Các công trình này đã đề cập đến vấn đề lực lượng cách mạng và xây dựng lực lượng cách mạng nói chung, đặt trọng tâm làm rõ xây dựng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu là xây dựng lực lượng vũ trang, nên xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, liên minh đoàn kết với các lực lượng quốc tế… vẫn chưa được đề cập đến trong những công trình này. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, có thể đưa ra một số kết luận sau: - Các nhà nghiên cứu đi trước chủ yếu nghiên cứu về tư tưởng quân sự quân sự Hồ Chí Minh, về xây dựng lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng được đề cập đến chủ yếu với tư cách là một minh chứng, một nội dung liên quan, nhằm làm bổ trợ, làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu chính là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. - Các công trình nghiên cứu đã liệt kê là những tư liệu quý, những cơ sở quan trọng để tác giả luận văn tham khảo, kế thừa trong quá trình hoàn thành mục đích nghiên cứu của luận văn. 8 - Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống, toàn diện mọi chiều cạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng và sự vận dụng trong thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945 như đề tài mà chúng tôi đã lựa chọn. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng và sự thể hiện trong thực tiễn của Cách mạng tháng Tám 1945 cần được nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, dựa trên việc khai thác và xử lý tư liệu một cách khoa học; làm rõ những những nội dung cơ bản, cốt yếu trên mọi chiều cạnh; chỉ ra tính độc đáo, đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng; vận dụng những giá trị của nó vào sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Đó đồng thời cũng là những mục tiêu, nhiệm vụ mà tác giả luận văn cố gắng giải quyết và hoàn thành. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng, sự vận dụng tư tưởng của Người vào thực tiễn tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng trong quá trình vận động đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945; -Trên cơ sở đó, vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy những thành công trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền vào thời kỳ hiện tại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như đã xác định, luận văn giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Phân tích nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng. 9 - Trình bày quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng vào thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945. - Làm rõ thành công, hạn chế của quá trình vận dụng tư Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng thời kỳ đấu tranh giành chính quyền vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong tiến trình đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng năm 1945. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận và nguồn tư liệu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang; về chiến tranh cách mạng, về đấu tranh quân sự… Nguồn tư liệu của luận văn bao gồm: - Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, về hoạt động quân sự, về khởi nghĩa vũ trang, về vai trò của quần chúng nhân dân, về giai cấp, phân hóa giai cấp… là nguồn tài liệu quan trọng, cơ sở lý luận của luận văn. 10 - Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng là những tài liệu gốc của luận văn. - Các công trình nghiên cứu khoa học, các sách, báo có liên quan do các cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Sử học… là nguồn tư liệu quan trọng, dùng để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu khác nhau của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài việc sử dụng rộng rãi các phương pháp khoa học phổ quát như lịch sử, logic, logic – lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, để khảo cứu toàn diện, hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng; về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng vào đấu tranh giành chính quyền. Nhằm làm rõ tính hệ thống, toàn diện, giá trị độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng, phương pháp logic và khái quát hóa được sử dụng tích cực. 6. Đóng góp của luận văn Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng; làm rõ những giá trị, những độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng. Thứ hai, góp phần làm rõ thành công, hạn chế của quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945; phát huy, vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Thứ ba, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoặc giảng dạy những vấn đề, môn học liên quan. 7. Kết cấu của luận văn 11 Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được kết cấu thành hai chương, 5 tiết: Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng Chương 2. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong thực tiễn đấu tranh tiến tới giành chính quyền năm 1945 và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay 12 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG 1.1. Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lƣợng cách mạng 1.1.1. Điều kiện lịch sử Từ giữa thể kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã dần trở thành các nước đế quốc chủ nghĩa, ráo riết chạy đua tràn sang phương Đông tìm kiếm thị trường, không chỉ để tiêu thụ hàng hoá, mà cả đầu tư và nơi khai thác nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc, nhằm bóc lột và thu lợi nhuận. Trong làn sóng xâm chiếm thuộc địa ấy, nền độc lập, chủ quyền quốc gia và vận mệnh của nhiều dân tộc bị CNTB thực dân phương Tây đe doạ nghiêm trọng. Hàng loạt các quốc gia nhỏ và yếu ở các châu Á, châu Phi trở thành phụ thuộc và thuộc địa, bị các nước tư bản phương Tây bóc lột nặng nề, rơi vào tình trạng khốn cùng, bi thảm. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, CNTB đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Thuộc địa của các nước đế quốc trở thành hệ thống thế giới. Và đến năm 1914 - như V.I.Lênin đã khái quát - bóng mấy đen của CNĐQ đã bao phủ hầu như toàn bộ thế giới. Việt Nam là nước có vị trí địa lý hết sức thuận lợi, là chiếc cầu nối giữa châu Á và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các luồng đường, luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc; lại là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú... nên luôn luôn bị ngoại xâm đe doạ. Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam do triều đình nhà Nguyễn đại diện, đang trong quá trình khủng hoảng trầm 13 trọng và suy vong. Biểu hiện cụ thể của tình trạng đó là sự chia rẽ nội bộ sâu sắc, là sự bột phát mãnh liệt của chiến tranh nông dân trên phạm vi cả nước... Sau một thời gian nhòm ngó và chuẩn bị ráo riết về mọi mặt, sáng sớm ngày 1/9/1858, chiến thuyền của thực dân Pháp đã nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trước hành động xâm lược của thực dân Pháp, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất, quật cường, để bảo vệ nền độc lập, nhân dân nhiều vùng miền cả nước đã sôi nổi đứng dậy dưới ngọn cờ của các văn thân, sĩ phu yêu nước chống quân xâm lược ngay từ những ngày đầu chúng xâm phạm bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc. Vấp phải sự chống trả quyết liệt, thực dân Pháp không thể thực hiện được chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh và sau hơn một phần tư thế kỷ, thực dân Pháp mới chiếm được Việt Nam. Phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta đã bị đàn áp và tổn thất nặng nề. Sự thất bại của các phong trào đó bộc lộ sự yếu kếm của lực lượng lãnh đạo. Do hạn chế bởi điều kiện giai cấp và thời đại, nên trong khi dựng cờ cứu nước, những sĩ phu yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX vẫn giương cao ngọn cờ phong kiến, theo đuổi tư tưởng phong kiến đã lỗi thời và lạc hậu. Sau một thời kỳ đấu tranh, phong trào kháng Pháp theo ý thức hệ phong kiến đã dần trở nên rời rạc, lẻ tẻ và cuối cùng tan rã. Nó không có điều kiện phát triển thành một cao trào cách mạng rộng lớn để có thể đánh đổ được bọn đế quốc thực dân giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đánh chiếm xong Đông Dương, ngay trong bước đầu thiết lập nền thống trị, thực dân Pháp thiết lập Liên bang Đông Dương bằng sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 17-10-1887. Liên bang Đông Dương gồm ba kỳ của Việt Nam, Campuchia, sau đó thêm Lào (1899) và Quảng Châu Loan (1890). Từ đó, nước Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới, nước Việt Nam thống nhất bị chia làm ba xứ, với những chế độ cai trị khác nhau: Nam Kỳ là đất thuộc địa, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ, Trung Kỳ là xứ lưỡng trị. 14 Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định bằng vũ lực, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước, thực dân Pháp đã tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc... Các cuộc khai thác thuộc địa đó có tác động rất lớn đối với Việt Nam, làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, trì trệ, ngày càng trở nên què quặt, lệ thuộc vào kinh tế chính quốc. Việt Nam từ một xã hội phong kiến đơn thuần với hai giai cấp cơ bản, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội nước ta trở thành một xã hội thuộc địa, với sự xuất hiện của các tầng lớp và giai cấp mới. Các mâu thuẫn trong xã hội ngày càng diễn ra gay gắt, trong đó, nổi bật lên là mâu thuẫn dân tộc - mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc thực dân xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chống lại sự xâm lược, ách áp bức của thực dân Pháp có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đồng bào miền núi. Phong trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi. Trong hàng loạt cuộc nổi dậy đó, phong trào nông dân Yên Thế là phong trào đấu tranh vũ trang lớn và kéo dài nhất, từ cuối thế kỷ XIX sang hơn mười năm đầu thế kỷ XX. Thủ lĩnh của phong trào chủ trương “thủ hiểm”, lấy Yên Thế làm căn cứ địa, chờ thời cuộc thuận lợi để đánh đuổi thực dân Pháp bằng quân sự. Đến đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại. Vào đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của Châu Á cùng với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ Cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thức tỉnh phương Đông. Những phong trào dân tộc và cải cách dân chủ theo khuynh hướng tư sản trở thành trào lưu phổ biến và nổi bật ở nhiều nước châu Á. Hàng trăm triệu người đã hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do. Những biến đổi bên trong của Việt Nam về hai 15 mặt kinh tế và xã hội do tác động của các cuộc khai thác thuộc địa đã tạo cơ sở vật chất cho sự tiếp thu những luồng tư tưởng mới của các cuộc cách mạng từ bên ngoài, đặc biệt là của cách mạng tư sản Pháp (1789), của phong trào Duy Tân ở Nhật Bản (1868), của cuộc vận động Duy Tân (1898) và cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc... Tiếp thu những tư tưởng mới, xuất hiện một tầng lớp chí sĩ yêu nước và và các phong trào đấu tranh cách mạng, tiêu biểu là phong trào Đông Du (1905-1908), Đông Kinh nghĩa thục (1907), cuộc vận động Duy tân và chống thuế ở Trung Kỳ (1908), Việt Nam Quang phục hội (1912), phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị,... Mặc dù phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tư sản diễn ra sôi nổi, nhưng cuối cùng đều bị thực dân Pháp đàn áp và bị thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện lịch sử hạn chế, lãnh đạo các phong trào đều chưa nhận rõ được kẻ thù, chưa nhận rõ được nhiệm vụ cơ bản và lực lượng cơ bản. Đặc biệt, do hạn chế của tư tưởng dân chủ tư sản, các lực lượng cách mạng được tập hợp trong các phong trào này còn chưa đầy đủ, chưa phù hợp với đặc điểm phân hóa xã hội của xã hội thuộc địa Việt Nam. Các phong trào này chủ yếu tập hợp học trò, nhà buôn, sĩ phu, thầy thông, thầy ký… Hai lực lượng cơ bản, quan trọng nhất lúc bấy giờ là công nhân và nông dân còn chưa được lãnh đạo các phong trào chú ý tới. Thực tế đó cho thấy giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, non nớt về chính trị,... không thể làm hậu thuẫn vững chắc cho một phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ, để hoàn thành sứ mạng lịch sử giành độc lập, tự do cho dân tộc. Như vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam tuy phát triển mạnh mẽ, song đều có kết cục là thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo, “đen tối như không có đường ra” [72, tr. 3]. Yêu cầu lịch sử đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi cần phải giải quyết. 16 Trong bối cảnh ấy, xuất hiện một nhân vật lịch sử - người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Sinh ra và lớn lên ở một gia đình nhà Nho yêu nước, vào thời điểm mà lịch sử dân tộc và quốc tế có những chuyển biến lớn, chứng kiến cảnh “nước mất, nhà tan”, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm có lòng yêu nước, có những trăn trở về thân phận con người, về vận nước. Với ý chí và bầu nhiệt huyết, Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Cũng từ đó, bắt đầu hành trình cách mạng đầy gian khó, hy sinh của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, bắt đầu quá trình nhận thức, hình thành ở người thanh niên ấy những quan điểm cách mạng. Chọn hướng đi sang phương Tây, mà đích đến là nước Pháp, nơi có tư tưởng tự do, dân quyền, dân chủ và có khoa học, kỹ thuật hiện đại, với những danh từ mới lạ như Tự do, Bình đẳng, Bác ái..., “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy” [65, tr. 477], Nguyễn Tất Thành đã trải qua những năm tháng bôn ba, vừa nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, vừa tham gia lao động, đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới. Sau một hành trình dài qua nhiều châu lục khác nhau (châu Âu, châu Phi, châu Mỹ), đi qua 24 nước, tận mắt chứng kiến những cảnh bần cùng của người lao động ở các xứ thuộc địa, cũng như những xóm nghèo ổ chuột ngoại ô thành phố Paris, đến những cảnh phồn hoa, đô thị tráng lệ như Luân đôn, Pairis, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã ngày càng làm giầu thêm nhận thức của mình, đúc rút những kết luận quan trọng về bạn, thù, về cách mạng DCTS, CMVS… để cuối cùng, vào tháng 7-1920, khi được tiếp xúc với bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (đăng trên báo Nhân đạo), Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát lực chọn con đường cứu nước cho dân tộc là con đường CMVS. 17 Sau khi lựa chọn con đường cứu nước, tiếp thu học thuyết cách mạng và khoa học của V.I. Lênin, từ năm 1921 trở đi, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, từng bước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho giai cấp công nhân Việt Nam thành lập chính đảng của mình. Kết hợp với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm cách mạng thế giới, Người còn phác thảo ra con đường CMGPDT đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Trong hệ thống quan điểm về CMGPDT, Hồ Chí Minh giành một phần quan trọng để bàn về lực lượng cách mạng với những phát hiện mới mẻ và độc đáo. Đó cũng là một trong những tiền đề cơ bản hình thành nên quan điểm, tư tưởng về xây dựng lực lượng cách mạng sau này của Người. Tháng 2-1930, Đảng CSVN ra đời. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh cách mạng, định hướng cho toàn bộ hoạt động đấu tranh. Có thể nói rằng, sự ra đời của Đảng CSVN và Cương lĩnh CMGPDT vào đầu năm 1930 đã đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, cũng như tư tưởng CMGPDT của Người nói riêng, trong đó có tư tưởng về xây dựng lực lượng cách mạng. 1.1.2. Cơ sở hình thành Kinh nghiệm xây dựng lực lượng chống giặc ngoại xâm của cha ông Có điều kiện địa lý rất thuận lợi, nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền lục địa và đại dương, Việt Nam có vị trí chiến lược rất quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa. Vì lẽ đó, nước ta luôn bị các thế lực nước ngoài nhòm ngó, tìm cách tấn công. Việt Nam tồn tại và phát triển không chỉ trải qua nhiều cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, mà còn phải tiến hành những cuộc kháng chiến giành và giữ độc lập tự do trước kẻ thù xâm lược và yêu cầu tự vệ, chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài được đặt ra từ sớm và ngày càng trở nên bức thiết. Những thách thức gắt gao đó đã 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan